intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:74

323
lượt xem
50
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế "Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020" trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về người đại diện của doanh nghiệp; Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng về người đại diện doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp; Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật, tăng cười hiệu quả áp dụng Luật Doanh nghiệp năm 2020 về người đại diện của doanh nghiệp .

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỊ HOÀI THƯƠNG NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA DOANH NGHIỆP THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2020 Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT HÀ NỘI, năm 2021
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học rất nghiêm túc và nhiệt tình của Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Như Phát Những thông tin, trích dẫn cũng như bản án trong luận văn là trung thực, được dẫn từ các nguồn tham khảo có thật. Các phân tích, bình luận, đánh giá, so sánh, gợi mở và kiến nghị trong công trình đều dựa trên một quá trình làm việc, tìm tòi, nghiên cứu một cách nghiêm túc của chính tác giả luận văn. Nếu có bất kỳ sự gian lận nào, học viên Vũ Thị Hoài Thương xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Đà Nẵng, ngày tháng năm 2021 Tác giả luận văn Vũ Thị Hoài Thương
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA DOANH NGHIỆP ........................................................................................... 7 1.1. Khái niệm , đặc điểm về người đại diện của doanh nghiệp ....................... 7 1.2. Vai trò của Người đại diện doanh nghiệp trong quản trị doanh nghiệp .. 13 1.3. Mối quan hệ của chủ sở hữu và người đại diện của doanh nghiệp .......... 16 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến người đại đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp .............................................................................................................. 18 1.5. Những vấn đề pháp lý về người đại diện của doanh nghiệp .................... 22 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA DOANH NGHIỆP ........ 25 2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về người đại diện của doanh nghiệp ..... 25 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp .......... 49 CHƯƠNG 3: ĐẢM BẢO THỰC THI HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT, TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ ÁP DỤNG LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2020 VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA DOANH NGHIỆP ...................................... 57 3.1. Nhu cầu cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam .................... 57 3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp năm 2020 ................................................................... 58 3.3. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về người đại diện doanh nghiệp.. ............................................................................................................ 59
  4. 3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật pháp luật về người đại diện doanh nghiệp ........................................................................................... 61 KẾT LUẬN .................................................................................................... 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết đề tài Nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng đang ngày càng phát triển mạnh mẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngày càng mở rộng về hình thức cũng như quy mô và cách thức hoạt động. Để đáp ứng các nhu cầu điều chỉnh và quản lý nền kinh tế, hệ thống pháp luật về doanh nghiệp của nước ta không ngừng hoàn thiện và khắc phục qua từng giai đoạn. Pháp luật Việt Nam luôn tạo điều kiện và khuôn khổ pháp lý để các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia hoạt động kinh doanh lành mạnh, an toàn, minh bạch, đảm bảo quyền lợi doanh nghiệp,..v.v… trong khuôn khổ pháp luật sở tại Việt Nam. Một trong những văn bản đầu tiên đưa ra thông điệp để phát triển doanh nghiệp là Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ. Nghị quyết này nhằm hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp với mục tiêu “Đến năm 2020, xây dựng doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững, cả nước có ít nhất một triệu doanh nghiệp hoạt động, trong đó có các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn lực mạnh”. Một trong những chế định không ngừng được đổi mới qua các năm đó là “người đại diện của doanh nghiệp” nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà đầu tư trong quản lý doanh nghiệp. Người đại diện của doanh nghiệp là bộ mặt, là người thể hiện ý chí cũng như thay mặt doanh nghiệp thực hiện các giao dịch trong mọi hoạt động kinh doanh đồng thời là đại diện pháp lý của doanh nghiệp tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Do đó doanh nghiệp cũng như cá nhân người đại diện cần có cái nhìn tổng quát và nắm vững những quy định pháp lý điều chỉnh mối quan hệ pháp luật này. 1
  6. Vì vậy đề tài nghiên cứu “Người đại diện của doanh nghiệp theo luật Doanh nghiệp năm 2020” có tính cấp thiết trong bối cảnh Chính phủ vừa ban hành nghị định mới hướng dẫn chi tiết Luật doanh nghiệp cũng như phổ cập thông tin tới các doanh nghiệp một cách nhanh nhất, giúp doanh nghiệp áp dụng luật mới có hiệu quả nhất. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Hiện nay, chế định về người đại diện của doanh nghiệp đã được nhiều tác giả quan tâm, đề tài này được nghiên cứu trong một số luận văn, bài báo, tờ trình của các cơ quan tổ chức như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, bài viết trên Thời báo tài chính – Cơ quan của Bộ Tài chính, luận văn nghiên cứu của thạc sĩ. Mỗi bài nghiên cứu có cách nhìn nhận và tiếp cận về một khía cạnh khác nhau, điển hình như một số công trình nghiên cứu sau: Phan Thành Nhân (2018), Thực trạng quy định của pháp luật về NĐDTPL của doanh nghiệp và hướng hoàn thiện, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7. Bài nghiên cứu này khái quát lý luận về người đại diện theo pháp luật theo Luật Doanh nghiệp 2014, nêu lên một số vướng mắc cũng như phương án giải quyết, hoàn thiện pháp luật. Công trình nghiên cứu đứng từ khía cạnh doanh nghiệp về vấn đề đại diện theo pháp luật điển hình như luận văn thạc sỹ của Bùi Thị Tâm (2017), “Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp từ thực tiễn Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ luật học, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Thân Văn Tài (2015) “Một số nội hàm khái niệm đại diện trong dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật”. Nguyễn Vũ Hoàng (2013) “Chế định đại diện trong pháp luật Việt Nam và vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Luật học. 2
  7. Nguyễn Ngọc Thanh (2010) “Vấn đề chủ sở hữu và người đại diện, một số gợi ý về chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học, Kinh tế và Kinh doanh.Lê Văn Thiệp (2012), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện theo pháp luật”, Tạp chí Kiểm sát, số Tân Xuân. Ngô Huy Cương (2009)” Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - Nhìn từ góc độ Luật so sánh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. Ngoài ra, một vài bài viết nghiên cứu dưới góc độ quản trị công ty theo từng lĩnh vực cụ thể như ngân hàng thương mại, hợp đồng kinh tế như TS Nguyễn Ngọc Thanh “Vấn đề chủ sở hữu và người đại diện, một số gợi ý về chính sách cho Việt Nam” của đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế và Kinh doanh số 26 năm 2010. Tuy nhiên vẫn chưa có luận văn cấp độ Thạc sĩ nghiên cứu vấn đề này một cách toàn diện và hầu hết các bài viết phân tích tại thời điểm Luật Doanh nghiệp 2005 và 2014 có hiệu lực. Ngày 17/06/2020, Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 được ban hành, trong đó một trong những điểm mới nổi bật liên quan đến vấn đề người đại diện của doanh nghiệp. Hiện nay, có rất ít công trình nghiên cứu theo quy định của Luật Doanh nghiệp mới kết hợp với Bộ Luật Dân sự năm 2015. Chính vì vậy, tác giả nghiên cứu một cách hệ thống các khía cạnh pháp luật về người đại diện của doanh nghiệp, làm rõ những điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 2020 và giải pháp áp dụng pháp luật vào thực tế một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu những các vấn đề lí luận và thực tiễn xung quanh các quy định về người đại diện của doanh nghiệp theo Luật doanh 3
  8. nghiệp năm 2020. Từ đó rút ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa những vấn đề chưa được làm rõ về luật doanh nghiệp Việt Nam 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục đích đã đề ra ở trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể: Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản về quan hệ đại diện và người đại diện của doanh nghiệp Hai là, phân tích và đánh giá các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật doanh nghiệp năm 2020 về các quy định người đại diện của doanh nghiệp Ba là, từ những đánh giá trên rút ra kinh nghiệm, đánh giá từ thực tiễn những điểm còn hạn chế từ các quy định khi áp dụng vào các doanh nghiệp về người đại diện Bốn là, đề xuất một số giải pháp cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy định của pháp luật Việt Nam về người đại diện của doanh nghiệp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lý luận về người đại diện của doanh nghiệp, thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng luật. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu là toàn bộ các quy định pháp luật đang hiện hành. Nghiên cứu các nội dung mà Luật doanh nghiệp năm 2020 mới ban hành so sánh với các luật cũ về trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của người đại diện. Đại diện của doanh nghiệp là vấn đề rộng, bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau. Trong phạm vi đề tài luận văn tốt nghiệp này tôi chỉ đi sâu nghiên cứu một số vấn đề về lý luận chung về đại diện của doanh nghiệp, bản chất đại diện, hình thức và phạm vi của người đại diện doanh nghiệp. Bám sát quy định pháp luật theo Luật Doanh nghiệp năm 2020 từ đó phân tích những 4
  9. điểm mới và thực trạng áp dụng pháp luật hiện nay. Thực trạng của việc thực hiện trách nhiệm và quyền, nghĩa vụ của người đại diện đối với doanh nghiệp cũng như các hành vi vi phạm, không thực hiện trách nhiệm của người đại diện. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Về mặt lý luận, nghiên cứu dựa trên nền tảng của phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm và đường lối của Đảng và Nhà nước về pháp luật. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Ngoài ra, đề tài sử dụng phối hợp phương pháp logic, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh tổng hợp để làm sáng tỏ nội dung của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn này là công trình nghiên cứu các quy định pháp lý về người đại diện của doanh nghiệp, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của người đại diện đối với doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp năm 2020. Về mặt lý luận, luận văn đã đưa ra được cái nhìn tổng quan về địa vị pháp lý người đại diện trong doanh nghiệp. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Trên các cơ sở về phân tích và tổng hợp được quy định pháp luật đã điều chỉnh và áp dụng trong thực tiễn của người đại diện doanh nghiệp thì luận văn này sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề đã được đề cập và chưa được đề cập trong quy định của pháp luật hiện nay của người đại diện doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp năm 2020. Qua những vấn đề trên sẽ có những giải pháp để góp phần hoàn thiện Luật doanh nghiệp, giúp cho việc quản lý 5
  10. người đại diện trong công ty minh bạch, hiệu quả, bảo vệ được quyền lợi của chủ sở hữu, nhà đầu tư và các bên liên quan đến doanh nghiệp 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm có 3 chương là: Chương 1: Những vấn đề lý luận về người đại diện của doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng về người đại diện doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật, tăng cười hiệu quả áp dụng Luật Doanh nghiệp năm 2020 về người đại diện của doanh nghiệp 6
  11. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA DOANH NGHIỆP 1.1. Khái niệm, đặc điểm về người đại diện của doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm người đại diện của doanh nghiệp Để hiểu rõ hơn về “Người đại diện của doanh nghiệp” đầu tiên chúng ta cần bàn luận về khái niệm “Đại diện”. Các nước trên thế giới có quan niệm rất đa dạng và phong phú về vấn đề này, điển hình như: Châm ngôn La tinh có quan niệm cho rằng pháp luật về đại diện được hình dung như sau: “Đại diện là hành động của một người thông qua một chủ thể khác được pháp luật coi là hành động của chính người đó”. Quan niệm của tác giả Ngô Huy Cương trong Tạp chí Nhà nước và Pháp luật cho rằng vấn đề đại diện lúc này như: “Giao hoàn toàn một đoàn tàu nhiều toa cho thuyền trưởng điều khiển và quản lý hay hoạt động mua bán, kinh doanh gián tiếp qua sự điều hành của người, tập thể khác”. Hay khái niệm cơ bản và dễ hiểu nhất của đại diện theo từ điển Tiếng Việt là “Một cá nhân, tổ chức thay mặt cho cá nhân, tổ chức khác hoặc tổ chức làm việc gì”. Xét trên phương diện chuyên môn thì đại diện theo Từ điển Luật học là: “Việc một cá nhân, một người, một cơ quan, tổ chức nhân danh người, cơ quan tổ chức khác xác lập, thực hiện hành vi pháp lý trong phạm vi thẩm quyền được đại diện” Như vậy, đại diện là quan hệ mà chủ thể bao gồm bên đại diện và bên được đại diện. Bên đại diện nhân danh bên được đại diện xác lập quan hệ với bên thứ ba, vì lợi ích của bên đại diện, thể hiện ý chí làm phát sinh hậu quả, kết quả nhất định đối với bên được đại diện. Bên được đại diện tiếp nhận các hậu quả, kết quả từ quan hệ do bên đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm 7
  12. quyền đại diện. Xét từ góc độ lý luận pháp lý có thể thấy đại diện là một chế định pháp lý thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo trong cách thức tham gia vào giao dịch dân sự. Một trong những quan hệ đại diện diễn ra phổ biến trong lĩnh vực kinh doanh thương mại đó là quan hệ người đại diện với doanh nghiệp. Người đại diện của doanh nghiệp là người thay mặt doanh nghiệp thực hiện các giao dịch trong hoạt động kinh doanh hoặc tham gia vào hoạt động tố tụng nhân danh doanh nghiệp. Mặt khác, chúng ta có thể hiểu người đại diện của doanh nghiệp “Là người được chỉ định hoặc được thuê của chủ sở hữu nguồn lực và được chủ sở hữu nguồn lực trao một số quyền quản lý nhất định đối với nguồn lực của chủ sở hữu nhằm phục vụ lợi ích của chủ sở hữu.” Người đại diện giúp tối đa hóa lợi nhuận từ doanh nghiệp cho chủ sở hữu, thành viên góp vốn hoặc cổ đông. Khi nhắc đến quan hệ này khái niệm được nói đến nhiều nhất đó là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Đối với pháp luật các công ty trên thế giới, một số nước phát triển có khái niệm khác nhau về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Ví dụ như: Luật doanh nghiệp của Úc có quy định: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân do doanh nghiệp chỉ định để thực hiện” Tại nước Đức người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không được định nghĩa riêng biệt, tuy nhiên được nhắc đến thông qua vị trí Giám đốc ở loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn: “Công ty sẽ do các Giám đốc làm đại diện. Công ty sẽ được đại diện bởi các cổ đông bất cứ khi nào có tuyên bố ý định hoặc các tài liệu được cung cấp kèm theo, nếu công ty TNHH đó không có chức danh giám đốc”. 8
  13. Luật pháp của nước Anh thì quy định người đại diện theo pháp luật của công ty là: “Một người, cá nhân, thành viên công ty được ủy quyền bởi công ty thì có quyền thực hiện các quyền hạn tương tự mà công ty đó có thể thực hiện”. Ở Nhật Bản thì pháp luật nước sở tại có cách tiếp cận người đại diện theo pháp luật thông qua chức năng quản lý: “Người quản lý có quyền thực hiện bất kỳ và tất cả các hành vi pháp lý hoặc không pháp lý nhân danh công ty liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình”. Như vậy, với nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau nhưng nhìn chung người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người quản lý hoạt động kinh doanh, thay mặt doanh nghiệp thực hiện tất cả các giao dịch và chức năng của doanh nghiệp. Người đại diện pháp luật là một phạm trù được nhắc đến nhiều và đóng vai trò vô cùng quan trọng trong một doanh nghiệp. Người đại diện theo pháp luật sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ, theo quy định của nhà nước Việt Nam. Người đại diện theo ủy quyền là hình thức đại diện mà quyền đại diện được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa người đại diện và người được đại diện. Người đại diện theo ủy quyền và người được ủy quyền lại sẽ có phạm vi quyền hạn theo như nội dung được ủy quyền tương ứng. Bên cạnh đó, còn có khái niệm đại diện theo ủy quyền lại, tức là người đại diện có thể ủy quyền lại cho một cá nhân là bên thứ ba đại diện cho doanh nghiệp, nội dung này chỉ được phép thực hiện khi nội dung ủy quyền ban đầu cho phép ủy quyền lại hoặc do sự kiện bất khả kháng. Ví dụ thực tế điển hình như: Tổng Giám đốc là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, ủy quyền cho Phó tổng Giám đốc ký hợp đồng và cho phép Phó tổng Giám đốc được ủy quyền lại cho các Giám đốc hay Giám đốc, Phó Giám đốc các chi nhánh ký hợp đồng. Các trường hợp này thường thấy ở các doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp lớn có chi nhánh lớn trên cả nước và thậm chí nước ngoài cũng như các ngân hàng nhiều chi nhánh. 9
  14. Tại Luật doanh nghiệp năm 2005 không đưa ra khái niệm người đại diện của doanh nghiệp, mà quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chỉ nằm rải rác ở các điều luật quy định về cơ cấu tổ chức, quản lý của các loại hình doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp năm 2014 ra đời đã thể hiện bước tiến khi có một điều khoản dành riêng để quy định về người đại diện theo pháp luật. Hiện nay Luật doanh nghiệp năm 2020 giữ nguyên những điều khoản quy định về người đại diện và bổ sung thêm một số quy định nhằm hoàn thiện pháp luật, ngày càng hỗ trợ tốt hơn cho công cuộc quản lý của cơ quan nhà nước cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tại Việt Nam hoặc các doanh nghiệp nước ngoài, liên doanh,.v.v... Đúc kết từ những định nghĩa, quan niệm, nghiên cứu, học thuyết nói trên, cho thấy đại diện của doanh nghiệp là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập, thực hiện giao dịch. Và tác giả đồng tình với định nghĩa trên về khái niệm “người đại diện của doanh nghiệp”. 1.1.2. Đặc điểm người đại diện của doanh nghiệp Một là, người đại diện của doanh nghiệp là cá nhân có đầy đủ năng luật pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự Doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập để hoạt động kinh doanh. Bản thân doanh nghiệp bao gồm nhiều cá thể, bộ phận, vì vậy không phải bộ phận hay ai cũng có thể nhân danh doanh nghiệp thực hiện các giao dịch với bên ngoài. Do đó, ý chí của doanh nghiệp phải được thể hiện thông qua một hoặc nhiều cá nhân nhất định. Do đó, người đại diện theo pháp luật của tổ chức nói chung, doanh nghiệp nói riêng phải là cá nhân. Đối với đại diện theo ủy quyền thì người đại diện theo ủy quyền có thể cá nhân hoặc tổ chức, chẳng hạn, doanh nghiệp có thể ủy quyền cho một tổ chức khác để xác lập, thực hiện giao dịch theo cơ chế đại diện theo quy định của pháp luật thương mại. 10
  15. Tuy nhiên, dù là bên ủy quyền là tổ chức thì tổ chức đó cũng phải cử cá nhân là người đại diện cho phần nhận ủy quyền này. Như vậy, người đại diện là cá nhân nên để có thể thể hiện ý chí của doanh nghiệp, người đại diện phải có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự và có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trước hết có đầy đủ năng lực này và không bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đây là điều kiện bắt buộc và tiên quyết để trở thành người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp mà nếu không đáp ứng thì pháp luật có quy định thay thế người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Hai là, người đại diện được ghi nhận trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (ERC) đối với người đại diện theo pháp luật và văn bản ủy quyền đối với người đại diện theo ủy quyền Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là căn cứ pháp lý quan trọng của doanh nghiệp, trong đó nội dung về người đại diện theo pháp luật là phần không thể thiếu. Hay nói cách khác, cơ sở để xác định người đại diện theo pháp luật của một doanh nghiệp chính là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, thông tin người đại diện theo quy định pháp luật còn được ghi nhận trên các tài liệu khác như: Quyết định của Hội đồng quản trị, Quyết định của Đại Hội đồng cổ đông, Điều lệ của doanh nghiệp,… Tuy nhiên các văn bản này là văn bản lưu hành nội bộ của doanh 11
  16. nghiệp nên bên thứ ba khó có thể căn cứ vào những văn bản này để xác minh người đại diện của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thông tin doanh nghiệp được công khai trên trang thông tin điện tử Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, do đó để kiểm tra chính xác thông tin người đại diện theo pháp luật cần phải đối chiếu thông tin người đại diện trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và thông tin tra cứu trên trang điện tử quốc gia. Ba là, người đại diện nhân danh doanh nghiệp, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong phạm vi nhất định Bản chất của quan hệ đại diện là thay mặt người được đại diện mà cụ thể trong trường hợp này là người đại diện nhân danh doanh nghiệp xác lập, thực hiện giao dịch vì lợi ích doanh nghiệp. Người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ chung của doanh nghiệp. Tuy nhiên, người đại diện chịu sự ràng buộc của pháp luật nói chung và điều lệ công ty nói riêng. Nên người đại diện thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là, người đại diện theo pháp luật có quyền nhân danh doanh nghiệp xác lập, thực hiện mọi giao dịch của doanh nghiệp, ngoại trừ trường hợp giới hạn phạm vi, thẩm quyền do pháp luật hoặc điều lệ công ty quy định. Khác với người đại diện theo pháp luật thì người đại diện theo ủy quyền chỉ xác lập, phạm vi, trách nhiệm theo phạm vi ủy quyền trong văn bản ủy quyền, mối quan hệ dân sự được thể hiện rõ trong ở đây. Bốn là, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật Theo pháp luật cũ thì mỗi doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật, điều này dẫn đến một số khó khăn trong việc linh hoạt xử lý các công việc của công ty. Do đó, để pháp luật có thể giải quyết được hết các 12
  17. trường hợp xảy ra trong thực tế thì các nhà làm luật đã bổ sung quy định một doanh nghiệp có thể có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật. Số lượng người đại diện theo pháp luật do doanh nghiệp tự quyết định, trừ doanh nghiệp tư nhân. Số lượng, chức danh quản lý, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp được quy định cụ thể tại điều lệ doanh nghiệp đó. Đây là quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tận dụng được mọi cơ hội kinh doanh với bên ngoài thông qua các đại diện pháp luật. Tất cả những người được điều lệ quy định đại diện theo pháp luật đều có quyền nhân danh công ty thực hiện các giao dịch đó mà không cần bất kỳ sự ủy quyền nào như trước đây. Ngoài những vấn đề trên thì quy định này còn giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc quản lý nội bộ, tăng trách nhiệm của những người được chỉ định là đại diện theo pháp luật, giảm bớt các thủ tục hành chính khi không cần phải tiến hành các thủ tục khác như ủy quyền và còn gỡ rối cho doanh nghiệp trong một số trường hợp đặc biệt như là người đại diện duy nhất của doanh nghiệp không hợp tác, không thực hiện các yêu cầu của thành viên, cổ đông trong quá trình quản lý điều hành nội bộ cũng như giao dịch với bên ngoài doanh nghiệp Năm là, doanh nghiệp bắt buộc phải có Người đại diện theo pháp luật Như phần mở đầu tác giả đã nêu rõ về tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của nười đại diện theo pháp luật. Do đó, doanh nghiệp bắt buộc phải có ít nhất một người đại diện theo pháp luật, đây là điều kiện cần để thành lập một doanh nghiệp, cũng như điều kiện để duy trì sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp đó. 1.2. Vai trò của Người đại diện doanh nghiệp trong quản trị doanh nghiệp Doanh nghiệp là một thực thể pháp lý nhưng tự thân nó không thể trực tiếp tham gia các giao dịch được mà phải thông qua những người đại diện của 13
  18. doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thể tồn tại hay phát triển hay không trước hết phụ thuộc vào người đứng đầu doanh nghiệp có đưa ra những quyết sách sáng suốt để doanh nghiệp phát triển hay không. Theo pháp luật Việt Nam thì đại diện doanh nghiệp hợp pháp cho pháp nhân của doanh nghiệp đó bao gồm hai hình thức là đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Với sự phân chia hai hình thức đại diện thì vị trí, vai trò của chúng cũng có sự khác biệt nhất định. 1.2.1. Vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp Thứ nhất, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có thể là một người lao động của công ty, có vị trí bắt buộc. Do đó, họ sẽ được quyền hưởng các chế độ phúc lợi, lương, bảo hiểm,… theo quy định của Luật lao động. Ngoài ra, tùy theo từng công ty, người đại diện theo pháp luật sẽ có những quyền lợi khác, ghi nhận trong điều lệ hoặc hợp đồng lao động. Thứ hai, người đại diện theo pháp luật nhân danh doanh nghiệp giao dịch với bên thứ ba bằng ý chí của doanh nghiệp thông qua hành động của mình. Khi cá nhân nhân danh doanh nghiệp để thực hiện giao dịch trong phạm vi cho phép thì các quyền và nghĩa vụ từ giao dịch phát sinh cho doanh nghiệp chứ không phát sinh cho cá nhân đó. Bằng hoạt động của người đại diện theo pháp luật, doanh nghiệp không thể thoái thác trách nhiệm của mình với chủ thể khác. Bên thứ ba khi giao dịch với công ty thì chỉ cần quan tâm đến việc ràng buộc trách nhiệm công ty thông qua hành động của người đại diện. Thứ ba, trong nhiều mối quan hệ với chủ sở hữu, người đại diện doanh nghiệp nhân danh chủ sở hữu thực hiện việc quản lí doanh nghiệp cho họ hoặc đóng vai trò hỗ trợ cho chủ sở hữu kiểm soát hoạt động của các chức danh quản lí khác. Trong đó bao gồm thẩm quyền, ra quyết định và hoạt động vì lợi ích của doanh nghiệp cũng như định đoạt tài sản doanh nghiệp. Đồng 14
  19. thời qua đó cùng với chủ sở hữu hoạch định các chiến lược, kinh doanh của công ty, góp phần nâng cao giá trị tài sản vốn góp của chủ sở hữu. Người đại diện là người nắm những thông tin quan trọng của công ty. Do đó, doanh nghiệp cần có cơ chế giám sát nội bộ của doanh nghiệp chặt chẽ, hạn chế tình trạng lạm quyền các chức danh quản lý và đặc biệt là việc có liên quan đến công ty khác có thể dẫn đến việc không khách quan trong công việc của người đại diện. Thứ tư, các mối quan hệ với khách hàng và các bên liên quan khác thì người đại diện chính là người nhân danh doanh nghiệp trong các mối quan hệ đối ngoại và ngoại giao của doanh nghiệp. Tầm quan trọng của chữ ký người đại diện theo pháp luật trên một văn bản của công ty nằm ở chỗ ràng buộc công ty vào nội dung văn bản. Hành vi của người đại diện chính là chứng cứ pháp lí để ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp. Đồng thời, thông qua hành vi của người đại diện, các cơ quan quản lí nhà nước có thể kiểm soát, đánh giá ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp để có những biện pháp xử lý, can thiệp kịp thời nhằm đảm bảo doanh nghiệp phát triển lành mạnh theo khuôn khổ pháp luật. Từ đó, Luật Doanh nghiệp 2020 đã hoàn thiện vai trò cho người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Khoản 1 Điều 12 Luật này ghi nhận người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. 1.2.2. Vai trò của người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp Thứ nhất, người đại diện của doanh nghiệp theo ủy quyền chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu, cổ đông, thành viên theo sự ủy quyền của doanh nghiệp về vi phạm các nghĩa vụ quy định của pháp luật. Chủ sở hữu, thành 15
  20. viên, cổ đông ủy quyền chịu trách nhiệm trước bên thứ ba đối với trách nhiệm phát sinh liên quan đến quyền và nghĩa vụ được thực hiện thông qua người đại diện theo ủy quyền. Thứ hai, người đại diện theo ủy quyền có trách nhiệm tham dự đầy đủ cuộc họp của Hội đồng thành viên, Đại hội đồng cổ đông, thực hiện các quyền và nghĩa vụ được ủy quyền của doanh nghiệp bảo vệ lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, thành viên, cổ đông ủy quyền. 1.3. Mối quan hệ của chủ sở hữu và người đại diện của doanh nghiệp Trong các mối quan hệ doanh nghiệp từ trước đến nay thì quan hệ giữa chủ sở hữu và người đại diện là mối quan hệ vô cùng quan trọng và cần thiết. Người quản lí với vai trò là người đại diện cho chủ sở hữu nhận các quyền điều phối và kiểm tra doanh nghiệp. Do sự tách biệt giữa chủ sở hữu và người đại diện hay tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền điều hành, về mặt lý thuyết và thực tiễn đôi khi xuất hiện những vấn đề một người hoạt động vì lợi ích của người khác, về bản chất thì người đại diện luôn muốn có tư lợi hơn là hành động vì chủ sở hữu và các cổ đông. Chính vì vậy, trong các mối quan hệ luôn tiềm ẩn sự xung đột lợi ích giữa các thành viên tham gia góp vốn và người quản lí, điều hành doanh nghiệp Nguyên nhân của vấn đề trên là do mỗi doanh nghiệp đều có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền điều hành đã tạo ra thông tin không cân xứng với tư cách là người tiếp quản công ty với tư cách là người trực tiếp quản lí, sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp. Người đại diện của doanh nghiệp dễ phát sinh hành động tư lợi, vì vậy việc giám sát các hành động của người đại diện rất quan trọng, phức tạp nên cần ràng buộc người đại diện hành động theo nhiệm vụ được giao là vì lợi ích của những người khác thì họ cần đến động lực phù hợp như nhằm đảm bảo lợi ích như vật chất, tinh thần, thực 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1