intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:75

82
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế "Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh" gồm các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận cơ bản về thi hành quyết định tuyên bố phá sản và pháp luật về thi hành quyết định tuyên bố phá sản; Thực trạng pháp luật về thi hành quyết định tuyên bố phá sản và thực tiễn thi hành quyết định tuyên bố phá sản ở Thành phố Hồ Chí Minh; Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành quyết định tuyên bố phá sản và nâng cao hiệu quả thi hành quyết định tuyên bố phá sản ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- HỒ QUÂN CHÍNH THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH TUYÊN BỐ PHÁ SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- HỒ QUÂN CHÍNH THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH TUYÊN BỐ PHÁ SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THÁI HÀ Hà Nội, năm 2021
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luật phá sản 2014 của Việt Nam có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015, đã được áp dụng vào thực tiễn được hơn năm năm qua. Luật phá sản lần này là kết quả của việc tổng hợp thực tiễn ở nước ta trong thời gian thi hành Luật phá sản năm 2004 và là sự tiếp thu có chọn lọc pháp luật về phá sản của một số nước trên thế giới. So với Luật phá sản năm 2004, Luật phá sản năm 2014 có nhiều thay đổi cơ bản: về cơ chế giải quyết phá sản, trình tự thủ tục giải quyết phá sản. Đặc biệt là bổ sung vai trò của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản, quy định rõ trách nhiệm của cá nhân, doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Trước đây, theo Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 và Luật phá sản năm 2004 thì trình tự thủ tục để Tòa án có thể ra được quyết định tuyên bố phá sản một doanh nghiệp là rất khó khăn, phức tạp và phải mất rất nhiều thời gian để giải quyết xong một vụ phá sản. Điều đó được thể hiện qua các số liệu cụ thể như: qua 9 năm thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 thì toàn ngành Tòa án chỉ tuyên bố được 46 doanh nghiệp bị phá sản. Với Luật phá sản năm 2004, trong gần 10 năm thi hành thì Tòa án cũng chỉ quyết định tuyên bố phá sản được 83 trường hợp [14]. Tuy nhiên, kể từ khi Luật phá sản 2014 có hiệu lực pháp luật cho đến cuối năm 2019 thì trong cả nước đã có trên 400 quyết định tuyên bố phá sản. Điều này cho thấy Luật phá sản 2014 đã có những thay đổi, quy định phù hợp với thực tiễn hơn so với trước đây. Nhìn trên bình diện tổng thể, thì Luật phá sản 2014 đã có một bước tiến đáng kể về mặt lập pháp. Đặc biệt là quy định về thi hành quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản tại Chương XII (từ Điều 119 – 128). Đây là những quy định mới hoàn toàn so với Luật phá sản năm 2004, cũng chính vì mới như vậy nên khi áp dụng vào thực tế đã phát sinh một số vấn đề bất cập ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết công việc của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, Chấp hành viên và các chủ thể khác khi thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Qua thực tiễn công tác thi hành án dân sự cho thấy những khó khăn, bất cập trên hiện nay đang ảnh hưởng, cản trở rất lớn đến quá trình thi hành quyết định 1
  4. tuyên bố phá sản. Chính vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về thi hành quyết định tuyên bố phá sản là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Để thực hiện được nhiệm vụ này, cần phải có những nghiên cứu mang tính hệ thống về các vấn đề lý luận và thực tiễn về trình tự, thủ tục xử lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã trong thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, từ trước đến nay các công trình nghiên cứu về phá sản chủ yếu tập trung nghiên cứu về trình tự, thủ tục giải quyết của Tòa án mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Đó cũng là lý do tác giả chọn vấn đề “Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu làm luận văn Thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm gần đây ở nước ta, việc nghiên cứu về pháp luật phá sản đã được khá nhiều người quan tâm. Đặc biệt là đã có khá nhiều đề tài khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này, ví dụ như: - Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2004 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: “Thực trạng phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam” do Thạc sĩ Nguyễn Kim Anh - chuyên viên Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm chủ nhiệm đề tài. Nội dung của đề tài này chủ yếu tập trung nghiên cứu và đánh giá pháp luật về phá sản ở Việt Nam và ở một số nước trên thế giới, tìm hiểu thực trạng thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 ở Việt Nam. Như vậy, đề tài này có giới hạn về khung thời gian là từ khi Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 đến trước khi có Luật phá sản năm 2004. Bên cạnh đó đề tài này chưa đề cập nhiều đến vấn đề thi hành quyết định tuyên bố phá sản. - Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Trương Hồng Hải đã bảo vệ năm 2004 tại Trường Đại học Luật Hà Nội về nội dung: “Luật Phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn thiện”. Luận án này tập trung nghiên cứu so sánh Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 của Việt Nam với Luật Phá sản của một số nước như Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Cộng hoà Liên bang Nga, 2
  5. Trung Quốc... trên những vấn đề chủ yếu: Xác định tình trạng phá sản; phạm vi đối tượng của luật phá sản; quản lý tài sản phá sản; mô hình thủ tục tố tụng phá sản. Riêng đối với vấn đề xử lý, thanh lý tài sản và đặc biệt là giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản thì luận án này cũng chưa đi sâu phân tích, nghiên cứu. - Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Vũ Thị Hồng Vân đã bảo vệ năm 2008 tại Đại học quốc gia Hà Nội khoa Luật về nội dung: “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam” Luận án này đã đi sâu phân tích thực trạng của pháp luật Việt Nam về những vấn đề pháp lý có liên quan đến khái niệm tài sản phá sản theo hướng - đó là toàn bộ những tài sản có và tài sản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản từ thời điểm Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến thời điểm Toà án ra quyết định đình chỉ thủ tục phá sản hoặc quyết định tuyên bố phá sản. Luận án cũng nghiên cứu về hoạt động quản lý và xử lý tài sản phá sản trong giai đoạn thanh lý tài sản và một số khía cạnh pháp lý của quản lý, xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và nghiên cứu những quy định về thủ tục quản lý và xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản trong giai đoạn thanh lý tài sản, đồng thời bước đầu đối chiếu với thực tiễn điều chỉnh pháp luật về quản lý và xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Có thể nói, Luận án này đã cung cấp khá nhiều vấn đề lý luận quan trọng trong việc xử lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Tuy nhiên, do thời điểm nghiên cứu thì Luật phá sản năm 2014 chưa ra đời, do vậy việc nghiên cứu về vấn đề xử lý, thanh lý tài sản chỉ mới giới hạn ở Tổ quản lý, thanh lý tài sản mà chưa có các quy định về Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Những năm gần đây, cũng đã có một số đề tài luận văn nghiên cứu chuyên sâu các quy định pháp luật về quá trình xử lý, thanh lý tài sản phá sản và đặc biệt là đã đi sâu nghiên cứu về Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, như: Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Đức Hải đã bảo vệ năm 2018 tại Trường Đại học Huế về nội dung: “Pháp luật về Quản tài viên và doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản, qua thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng” Ngoài ra còn có khá nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành như bài viết của tác giả Đặng Văn Huy về Hoàn thiện chế định quản tài viên 3
  6. trong Luật Phá sản, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20/2018; Bài viết về Hoàn thiện các quy định của Luật Phá sản năm 2014 của tác giả Trương Thị Quỳnh Trâm đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 13, tháng 7/2019; Bài viết về Thi hành quyết định tuyên bố phá sản - một số lưu ý và kiến nghị hoàn thiện của tác giả Hoàng Thị Thanh Hoa đăng trên cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp ngày 23/3/2018; Bài viết Thanh lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của tác giả Nguyễn Tuấn Hải, đăng trên trang thông tin điện tử Tạp chí Tòa án nhân dân. Nhìn chung các công trình nghiên cứu, bài viết nêu trên đã đề cập đến một số khía cạnh của hoạt động xử lý, thanh lý tài sản trong quá trình tổ chức thi hành quyết định phá sản. Tuy nhiên, chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện hoạt động thanh lý tài sản trong giai đoạn thi hành quyết định phá sản. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” là đòi hỏi khách quan và cấp thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu đề tài: - Đề tài được thực hiện nhằm mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến quá trình thanh lý tài sản sau khi có quyết định tuyên bố phá sản. Đồng thời nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật hiện nay về thi hành quyết định tuyên bố phá sản tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh để thấy được những vấn đề còn hạn chế, bất cập của pháp luật cũng như các vấn đề phát sinh từ thực tiễn. - Từ kết quả nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn, đề tài đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và khắc phục những hạn chế, vướng mắc, tồn tại của các quy định pháp luật trong quá trình thi hành quyết định tuyên bố phá sản. * Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: Để đạt được mục đích trên tác giả đã đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động thi hành quyết định tuyên bố phá sản. - Nghiên cứu, tham khảo pháp luật về phá sản của một số quốc gia trong việc quản lý, thanh lý tài sản của chủ thể bị phá sản để rút ra một số bài học cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 4
  7. - Tìm hiểu thực trạng pháp luật, phân tích, đối chiếu các quy định pháp luật liên quan đến quá trình thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo Luật phá sản năm 2014. Đồng thời, nghiên cứu thực trạng thi hành và áp dụng các quy định về thi hành quyết định phá sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, xem xét một số vụ việc thi hành quyết định phá sản điển hình trên thực tế để chỉ ra những mặt hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật và nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đó. Từ đó, làm căn cứ để đưa ra các đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực trạng các quy định pháp luật liên quan đến việc thanh lý tài sản; nhiệm vụ quyền hạn của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự trong giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Bên cạnh đó, đề tài còn xem xét một số vụ việc điển hình cũng như tình hình, kết quả thực hiện, áp dụng các quy định pháp luật về thi hành quyết định phá sản trong thực tiễn thi hành Luật phá sản năm 2014 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. * Phạm vi nghiên cứu của đề tài Về không gian: bên cạnh việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành quyết định tuyên bố phá sản tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là chủ yếu. Về thời gian: tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản từ thời điểm Luật phá sản năm 2014 có hiệu lực thi hành (ngày 01 tháng 01 năm 2015) cho đến cuối năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu luật học, như phương pháp đối chiếu, so sánh và diễn giải để nghiên cứu các vấn đề lý luận ở Chương 1. Bên cạnh đó tác giả cũng như sử dụng các phương pháp trên, kết hợp phương pháp phân tích số liệu, đánh giá thực trạng để có cái nhìn 5
  8. tổng quan về thực tiễn để đánh giá, phân tích các quy định của pháp luật liên quan đến việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản phá sản ở Chương 2. Ngoài ra, luận văn còn dùng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác, cụ thể: Phương pháp phân tích, tổng hợp: đề tài sẽ kế thừa có chọn lọc, tổng kết lại những kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về phá sản nói chung và các quy định về thi hành quyết định phá sản nói riêng. Qua phương pháp nghiên cứu này sẽ cho chúng ta có góc nhìn mới và toàn diện nhằm đưa ra những kết quả nghiên cứu khách quan, chính xác, đưa ra những giải pháp cụ thể, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở nước ta. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện về cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về trình tự, thủ tục thanh lý tài sản trong thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu đạt được của luận văn có thể tham khảo để phục vụ cho hoạt động thực tiễn của Chấp hành viên, Quản tài viên và các cá nhân tổ chức có liên quan trong việc áp dụng đúng các quy định trong Luật phá sản năm 2014 và các văn bản liên quan về thi hành quyết định tuyên bố phá sản để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. 7. Kết cấu của luận văn Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu ở trên, bố cục của luận văn, ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính sẽ bao gồm 03 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về thi hành quyết định tuyên bố phá sản và pháp luật về thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Chương 2. Thực trạng pháp luật về thi hành quyết định tuyên bố phá sản và thực tiễn thi hành quyết định tuyên bố phá sản ở Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành quyết định tuyên bố phá sản và nâng cao hiệu quả thi hành quyết định tuyên bố phá sản ở Việt Nam hiện nay 6
  9. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH TUYÊN BỐ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH TUYÊN BỐ PHÁ SẢN 1.1. Những vấn đề lý luận về thi hành quyết định tuyên bố phá sản 1.1.1. Khái niệm thi hành quyết định tuyên bố phá sản Thủ tục phá sản có thể được xem là một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp và khá phức tạp, hay nói cách khác đây là một thủ tục pháp lý đặc biệt. Điều này thể hiện ở việc Tòa án phải tham gia vào hầu hết các thủ tục giải quyết phá sản, từ ra quyết định mở thủ tục phá sản đến giám sát hoạt động của các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, rà soát, xem xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, xử lý tài sản của doanh nghiệp có tranh chấp. Ngoài ra, còn có các chủ thể khác cùng tham gia vào quá trình giải quyết phá sản như chủ thể quản lý, thanh lý tài sản, chủ thể thực hiện các quyết định của Tòa án trong quá trình giải quyết phá sản... Kết thúc thủ tục phá sản thường là chấm dứt sự tồn tại của một chủ thể kinh doanh. Mặc dù có những trường hợp doanh nghiệp phục hồi hoạt động kinh doanh thành công nhưng nhìn chung hậu quả pháp lý của phá sản là chủ thể kinh doanh bị chấm dứt tồn tại và toàn bộ tài sản của nó bị thanh lý để trả cho các chủ nợ. Trong quá trình giải quyết phá sản thì việc chấm dứt sự tồn tại của một chủ thể kinh doanh thường được xác định bằng một quyết định của Tòa án đó là Quyết định tuyên bố phá sản. Như vậy, khi Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản thì chủ thể đang bị xem xét phá sản sẽ chấm dứt sự tồn tại về mặt pháp lý với tư cách là một chủ thể kinh doanh, nó không còn là một thực thể pháp luật để tham gia vào các giao dịch nói chung và giao dịch dân sự nói riêng. Tuy nhiên, việc giải quyết phá sản đến giai đoạn này chưa hẳn đã chấm dứt, vì nếu như doanh nghiệp vẫn còn tài sản chưa giải quyết xong thì các cá nhân, tổ chức có liên quan vẫn phải tiếp tục thanh lý hết những tài sản còn lại này. Việc thực hiện các thủ tục để thanh lý tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản sau khi đã có quyết định tuyên bố phá sản được gọi là thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Đây cũng chính là giai đoạn cuối cùng của thủ tục phá sản. 7
  10. Như vậy, bản chất của việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản là áp dụng các quy định của pháp luật, thực hiện thủ tục thanh lý tài sản còn lại của chủ thể đã bị tuyên bố phá sản để trả nợ cho các chủ nợ. Hiện nay, theo quy định pháp luật của Việt Nam thì việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản được điều chỉnh bởi LPS 2014 và Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 (gọi tắt là LTHADS) và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật này. Theo quy định tại khoản 1 Điều 17 LPS 2014 và điểm g khoản 1 Điều 2 LTHADS thì chủ thể có thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố phá sản là Cơ quan thi hành án dân sự mà cá nhân trực tiếp tổ chức thi hành đó là Chấp hành viên. Ngoài ra, LPS 2014 còn bổ sung thêm chủ thể mới là Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản với nhiệm vụ, quyền hạn được quy định cụ thể tại Điều 16 LPS 2014, thì những cá nhân, tổ chức này cũng có thẩm quyền tham gia vào giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Như vậy, xuất phát từ đối tượng, bản chất của giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản và chủ thể tham gia vào quá trình đó, chúng ta có thể hiểu: thi hành quyết định tuyên bố phá sản là hoạt động của cơ quan, cá nhân, tổ chức có thẩm quyền tổ chức thi hành quyết định tuyên bố phá sản trên thực tế theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và nhà nước. Với cách hiểu về khái niệm thi hành quyết định phá sản như trên đã thể hiện được khá đầy đủ bản chất của hoạt động này. Chính vì vậy, có thể rút ra những đặc trưng cơ bản của hoạt động thi hành quyết định tuyên bố phá sản bao gồm: Thứ nhất, chủ thể tổ chức thi hành quyết định tuyên bố phá sản có thể là cơ quan, cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền, vì theo quy định hiện nay thì chủ thể tổ thi hành quyết định tuyên bố phá sản tùy thuộc vào từng giai đoạn mà có thể do một cá nhân hoặc bao gồm nhiều chủ thể khác nhau thi hành như: Cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên hoặc Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản chịu trách nhiệm thi hành. Vấn đề chủ thể trong thi hành quyết định tuyên bố phá sản được quy định mang tính đặc thù. Đối với các loại việc khác trong thi hành án dân sự thì chủ thể có thẩm quyền tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của tòa chỉ có Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên mới có thẩm quyền tổ chức thi hành. 8
  11. Tuy nhiên, trong thi hành quyết định tuyên bố phá sản thì còn có sự tham gia của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và đây đồng thời cũng là quy định mới của LPS 2014. Thứ hai, đối tượng được đưa ra tổ chức thi hành ở đây là quyết định tuyên bố phá sản của Tòa án. Đây là quyết định làm chấm dứt sự tồn tại của một chủ thể kinh doanh. Trong quyết định này, ngoài nội dung tuyên bố chấm dứt hoạt động của một chủ thể còn có các nội dung khác như: thanh lý tài sản và bán đấu giá tài sản còn lại của DN, HTX; phương án phân chia giá trị tài sản trước và sau khi tuyên bố phá sản. Đây cũng chính là những nội dung mà chủ thể có thẩm quyền phải tổ chức thi hành. Thứ ba, bản chất và nhiệm vụ trung tâm của quá trình thi hành quyết định tuyên bố phá sản là thực hiện các thủ tục theo quy định nhằm thanh lý tài sản còn lại của chủ thể đã bị tuyên bố phá sản để trả nợ cho các chủ nợ. Điều này cũng đồng nghĩa với mục đích của việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản là nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và nhà nước được thể hiện trong quyết định tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, mức độ bảo đảm ở đây cũng chỉ giới hạn trong phạm vi tài sản còn lại của chủ thể bị phá sản. 1.1.2. Các yêu cầu đối với hoạt động thi hành quyết định tuyên bố phá sản Phá sản là một thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt thường được tiến hành bằng con đường Tòa án với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau. Trong giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản thì tùy thuộc vào pháp luật của mỗi quốc gia mà các chủ thể tham gia có thể khác nhau như ở Nhật Bản, Hoa kỳ thì trong giai đoạn này được thực hiện bởi Quản tài viên hoặc tín thác viên dưới sự giám sát của Thẩm phán và dường như nó không phải là một giai đoạn riêng rẽ mà chỉ là một khâu trong toàn bộ quá trình giải quyết việc phá sản. Bởi vì, Thẩm phán và Quản quản tài viên hay tín thác viên họ tham gia giải quyết vụ việc phá sản từ đầu cho đến khi chấm dứt việc phá sản. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay thì giai đoạn này lại có thể xem xét dưới góc độ là một giai đoạn độc lập. Bởi vì, theo quy định của pháp luật về phá sản của 9
  12. chúng ta thì giai đoạn giải quyết phá sản là giai đoạn giải quyết tại tòa án, do Thẩm phán phụ trách. Còn sau khi có quyết định tuyên bố phá sản rồi thì việc thi hành quyết định này lại do Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản thực hiện. Như vậy, chúng ta thấy mặc dù pháp luật về phá sản ở mỗi quốc gia có sự phân biệt khá khác nhau về giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản cũng như chủ thể tham gia vào giai đoạn này. Tuy nhiên, mục đích cơ bản nhất của giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản là việc thanh lý tài sản còn lại của chủ thể bị phá sản để thanh toán các khoản nợ cho các chủ nợ. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với hoạt động thi hành quyết định tuyên bố phá sản là: Thứ nhất, việc thanh lý tài sản luôn ảnh hưởng tới quyền tài sản của các bên có liên quan. Do vậy, rất dễ xảy ra xung đột lợi ích giữa các bên, cho nên yêu cầu đầu tiên được đặt ra cho hoạt động thi hành quyết định tuyên bố phá sản là phải đảm bảo việc thi hành được thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Bên cạnh đó, trình tự, thủ tục này cần phải được quy định một cách chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn và rõ ràng, dễ áp dụng. Thứ hai, thời gian trong hoạt động kinh doanh là rất quan trọng, thời gian đồng nghĩa với cơ hội, thời gian là tài sản. Do vậy, một trong những vấn đề mà nhà làm luật quan tâm trong khi xây dựng pháp luật đó chính là thời hạn và thời gian giải quyết vụ việc. Trong thi hành quyết định tuyên bố phá sản cũng vậy, trình tự, thủ tục giải quyết cần phải được quy định một cách phù hợp, nhanh chóng, kịp thời để đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia trong mối quan hệ này. Thứ ba, yêu cầu của thi hành quyết định tuyên bố phá sản bên cạnh việc đảm bảo quyền lợi cho các bên trực tiếp tham gia trong mối quan hệ đó nó còn phải đảm bảo cho sự phát triển ổn định, bền vững của nền kinh tế. Bởi vì mục đích cuối cùng của pháp luật phá sản không phải là khai tử một chủ thể kinh doanh mà nó là một trong những liều thuốc chữa bệnh cho nền kinh tế. 10
  13. 1.1.3. Một số khái niệm có liên quan đến hoạt động thi hành quyết định tuyên bố phá sản 1.1.3.1. Khái niệm quyết định tuyên bố phá sản Quyết định tuyên bố phá sản là một loại quyết định của Tòa án có thẩm quyền ban hành khi giải quyết vụ việc phá sản. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một cách hiểu thống nhất và đầy đủ về khái niệm quyết định tuyên bố phá sản. Thiết nghĩ, để hiểu rõ về khái niệm này thì cần phải xuất phát từ việc xem xét bản chất của việc phá sản. Hiện nay thuật ngữ phá sản đã được sử dụng rộng rãi trong cả khoa học pháp lý và cả trong đời sống thực tế. Tại khoản 2 Điều 4 LPS 2014 quy định “Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”. Theo đó phá sản được xem xét dưới hai góc độ góc độ kinh tế (mất khả năng thanh toán) và pháp lý (được thực hiện thông qua thủ tục phá sản và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản). Một doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán các khoản nợ không bảo đảm và đã đến hạn thì doanh nghiệp, hợp tác xã đó chưa chắc đã bị phá sản và cũng chưa gọi là doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản. Chỉ khi trải qua thủ tục giải quyết vụ việc phá sản và bị Tòa án nhân dân ra quyết định phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã đó mới chính thức bị phá sản. Về bản chất, phá sản xuất phát từ tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn phải trả của con nợ có liên quan. Do đó, nó tạo nên nghĩa vụ của con nợ và quyền truy đòi nợ của các chủ nợ. Phá sản có một số đặc điểm sau: Thứ nhất, phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể. Sở dĩ nói phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể vì các chủ nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, không tự xé lẻ ra để đòi nợ riêng. Họ cùng tham gia vào một thiết chế chung để tiến hành đòi nợ hay đảm bảo quyền lợi của mình, gọi là Hội nghị chủ nợ. Thứ hai, phá sản là một thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán. Ban đầu, luật phá sản đặt mục tiêu đáp ứng nhu cầu đòi nợ của các chủ nợ với chi phí 11
  14. thấp nhất. Vì vậy thủ tục phá sản theo luật phá sản được xem như là một thủ tục đòi nợ đặc biệt. Tương ứng với nó, xét ở khía cạnh các chủ nợ thì đây cũng là cách thanh toán nợ đặc biệt. Tuy nhiên, trong quá tìm kiếm giải pháp tối đa hóa giá trị tài sản phá sản và tối ưu hóa khả năng thu hồi nợ cho các chủ nợ, các cuộc đàm phán giữa chủ nợ và các con nợ đã diễn ra. Trong quá trình đó, vấn đề tối đa hóa giá trị kinh tế của các tài sản phá sản đã được đặt ra như là một trong những mục tiêu chính. Thứ ba, kết thúc thủ tục phá sản thường là sự chấm dứt tồn tại của một chủ thể kinh doanh. Mặc dù có những trường hợp doanh nghiệp phục hồi các hoạt động kinh doanh một cách thành công nhưng nhìn chung hậu quả pháp lý của phá sản là các doanh nghiệp liên quan bị chấm dứt tồn tại, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp đó bị thanh lý để trả cho các chủ nợ. Thứ tư, thủ tục phá sản là một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp và khá phức tạp. Điều này thể hiện ở việc Tòa án phải tham gia vào hầu hết các thủ tục giải quyết phá sản, từ ra quyết định mở thủ tục phá sản đến giám sát hoạt động của các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, rà soát, xem xét phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, xử lý tài sản của doanh nghiệp có tranh chấp. Như vậy, xuất phát từ bản chất của việc phá sản như đã phân tích ở trên chúng ta có thể hiểu một cách khái quát về quyết định tuyên bố phá sản như sau: Quyết định tuyên bố phá sản là một phán quyết của Tòa án có thẩm quyền thông qua một thủ tục tố tụng để chấm dứt sự tồn tại của một chủ thể kinh doanh. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể hiểu một cách cụ thể hơn: Quyết định tuyên bố phá sản là một quyết định của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản nhằm chấm dứt sự tồn tại của một chủ thể kinh doanh khi có đủ các căn cứ được Luật phá sản năm 2014 quy định (khoản 12, Điều 9 LPS 2014). Theo quy định của LPS 2014, thì hiện nay Thẩm phán sẽ ra quyết định tuyên bố phá sản trong các trường hợp sau: Thứ nhất, tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản theo thủ tục rút gọn khi “a) Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 5 của Luật này mà doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán không còn tiền, tài sản khác để nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản; b) Sau khi thụ 12
  15. lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán không còn tài sản để thanh toán chi phí phá sản” Thứ hai, Quyết định tuyên bố phá sản khi Hội nghị chủ nợ không thành (theo quy định tại Điều 106 LPS 2014) Thứ ba, Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản sau khi có Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ (theo quy định tại Điều 107 LPS 2014) 1.1.3.2. Khái niệm tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi bị tuyên bố phá sản Việc xác định khái niệm và phạm vi khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi bị tuyên bố phá sản có ý nghĩa rất quan trọng. Điều này giúp cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản và Chấp hành viên thực hiện việc thanh lý tài sản một cách dễ dàng, chính xác tránh được việc nhầm lẫn cũng như bỏ sót tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa có quy định pháp luật nào quy định một trực tiếp cách xác định tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi bị tuyên bố phá sản, cũng như chưa có ai đưa ra khái niệm về tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi bị tuyên bố phá sản để xác định những tài sản nào hoặc như thế nào là tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi bị tuyên bố phá sản. Có thể thấy thực trạng trên cũng là điều dễ hiểu, bởi vì theo quy định của Luật phá sản năm 2004 trước đây thì khi Thẩm phán ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp hợp tác xã bị phá sản thì đồng nghĩa với việc doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản hoặc tài sản đã được thanh lý xong trước đó. Điều này cũng có nghĩa rằng việc không còn tài sản hoặc tài sản đã được thanh lý xong là một trong những điều kiện cần thiết để Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản. Cụ thể, Điều 86 quy định “Thẩm phán ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản đồng thời với việc ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản” mà quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản chỉ được ban hành trong các trường hợp sau: Doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản để thực hiện phương án phân chia tài sản hoặc là phương án phân chia tài sản đã được thực hiện xong (Điều 85). Đồng thời, trong nội dung của quyết định tuyên bố phá sản theo quy định tại Điều 88 Luật 13
  16. phá sản 2004 cũng không có nội dung nào liên quan đến tài sản hay nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản. Chính vì lý do trên mà pháp luật trước đây không có quy định về việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản và các nghiên cứu thì ít hoặc không đề cập đến tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi đã bị tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, theo quy định của Luật phá sản 2014 hiện nay thì việc ra quyết định phá sản không còn điều kiện bắt buộc là phải xử lý, thanh lý xong tài sản. Đồng thời, trong quyết định tuyên bố phá sản theo quy định tại Điều 108 luôn phải có nội dung về thanh lý tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã cũng như phương án phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã trước và sau khi tuyên bố phá sản. Vì vậy, chúng tôi cho rằng việc đưa ra một khái niệm nhằm xác định tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi bị tuyên bố phá sản là rất cần thiết. Hiện nay, Luật phá sản mới chỉ có quy định để xác định các tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là khá đầy đủ và chi tiết. Cụ thể, tại Điều 64 quy định: “1. Tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán gồm: a) Tài sản và quyền tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã có tại thời điểm Tòa án nhân dân quyết định mở thủ tục phá sản; b) Tài sản và quyền tài sản có được sau ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản; c) Giá trị của tài sản bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm mà doanh nghiệp, hợp tác xã phải thanh toán cho chủ nợ có bảo đảm; d) Giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác định theo quy định của pháp luật về đất đai; đ) Tài sản thu hồi từ hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; e) Tài sản và quyền tài sản có được do thu hồi từ giao dịch vô hiệu; g) Các tài sản khác theo quy định của pháp luật. 2. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh mất khả năng thanh toán gồm: a) Tài sản quy định tại khoản 1 Điều này; b) Tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh không trực tiếp dùng vào hoạt động kinh doanh; trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh có tài sản thuộc sở hữu chung thì phần tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh 14
  17. đó được chia theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định của pháp luật có liên quan. 3. Trường hợp hợp tác xã bị tuyên bố phá sản thì việc xử lý tài sản không chia được thực hiện theo quy định của pháp luật về hợp tác xã” Một điều đặc biệt cần chú ý đối với khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác định theo quy định trên (điểm c khoản 1) đó là giá trị tài sản bảo đảm cho các khoản nợ có bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã thì không được đưa vào khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mất khả năng thanh toán. Vì nó có thể được xử lý một cách độc lập để thanh toán cho khoản nợ có bảo đảm. Như vậy, chúng ta có thể thấy khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán thì hiện nay đã có thể được xác định một cách rõ ràng trong giai đoạn giải quyết phá sản ở Tòa án. Tuy nhiên, việc xác định khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã còn lại sau khi bị tuyên bố phá sản thì dường như vẫn đang còn bỏ ngỏ. Trên thực tế, hiện nay để xác định tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản để làm căn cứ yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản thực hiện việc thanh lý tài sản, thì Chấp hành viên phải căn cứ vào nội dung quyết định tuyên bố phá sản của Thẩm phán xem trong đó có nêu danh mục tài sản hay không hoặc căn cứ vào tài liệu của Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Tuy nhiên, việc này trên thực tế cũng gặp không ít khó khăn, vì có quyết định phá sản thì Thẩm phán đề cập đến các tài của doanh nghiệp, hợp tác xã, có quyết định thì thẩm phán nêu thiếu, thậm chí là không đề cập đến tài sản của đối tượng bị tuyên bố phá sản. Ví dụ: Theo quyết định tuyên bố phá sản số 01/2018/QĐ-TBPS, ngày 27/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận 7 tuyên bố phá sản đối với Công ty TNHH đào tạo tổ chức biểu diễn Việt Nhật; địa chỉ trụ sở: Số 3 đường Nguyễn Lương Bằng, phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh có nội dung như sau: “…Điều 3: Thu hồi, thanh lý tài sản và bán đấu giá tài sản còn lại của Công ty TNHH đào tạo tổ chức biểu diễn Việt Nhật theo các hồ sơ, tài liệu sau: 15
  18. 3.1. Báo cáo kiểm kê ngày 01/8/2018 gồm: Biên bản kiểm kê quỹ tiền mặt ngày 31/7/2018, Báo cáo tiền gửi tại ngân hàng tại cuối ngày 31/7/2018; Danh sách nợ vay ngân hàng tại ngày 31/7/2018 ký ngày 01/8/2018, Danh sách nợ phải thu tại ngày 31/7/2018 ký ngày 01/8/2018, Danh sách chủ nợ tại ngày 31/7/2018 ký ngày 01/8/2018, Báo cáo kiểm kê tài sản cố định tại cuối ngày 31/7/2018 ký ngày 01/8/2018, Báo cáo kiểm kê tài sản cố định đã thế chấp tại Eximbank CN Sài Gòn tại cuối ngày 31/7/2018 ký ngày 01/8/2018, Bảng lương tổng hợp 05 tháng (từ tháng 2/2018 đến tháng 6/2018) ngày 05/7/2018, Báo cáo kiểm kê tài sản cố định của người thứ 3 đã thế chấp tại ngân hàng tại cuối ngày 31/7/2018 ký ngày 01/8/2018, Báo cáo kiểm kê công cụ, dụng cụ tại cuối ngày 31/7/2018 ký ngày 01/8/2018, Danh sách trả nợ trước dài hạn tại ngày 31/7/2018 ký ngày 01/8/2018. 3.2. Bảng kiểm kê, xác định giá trị tài sản ngày 17/10/2018 (Tài sản tại trung tâm Anna spa, số 4, Phan Văn Chương, P Tân Phú, Quận 7, Tp HCM), Báo cáo kiểm kê tài sản cố định tại Anna ngày 17/10/2018, Báo cáo kiểm kê tài sản cố định tại Anna ngày 17/10/2018 đã thế chấp tại Eximbank CN Sài Gòn ngày 17/10/2018, Báo cáo xác định giá trị thực tế tài sản công cụ dụng cụ tại thời điểm kiểm kê 17/10/2018. 3.3 Văn bản số 127/BC-QTV ngày 29/10/2018 của Quản tài viên quản lý, thanh lý tài sản Công ty TNHH đào tạo tổ chức biểu diễn Việt Nhật…” Theo nội dung quyết định tuyên bố phá sản này thì tài sản còn lại của doanh nghiệp sau khi bị tuyên bố phá sản là khối tài sản có trong các báo cáo, bảng kê mà quyết định tuyên bố phá sản đã nêu. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy có những quyết định phá sản mà trong đó Thẩm phán không nêu rõ tài sản của doanh nghiệp còn lại có những gì. Điều này, gây khó khăn cho Chấp hành viên, cơ quan thi hành án vì không biết doanh nghiệp còn tài sản không và ở đâu. Ví dụ: Ngày 12/7/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã ra quyết định tuyên bố phá sản số 01/2018/QĐ-TBPS đối với Công ty TNHH Đồng Trí; địa chỉ: 998, khu phố 6, ấp Bàu Hàm 2, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai với nội dung như sau: “1. Tuyên bố Công ty TNHH Đồng Trí bị phá sản … 4. Thanh lý tài sản và bán đấu giá tài sản của Công ty TNHH Đồng Trí. 16
  19. 5. Tự phân chia giá trị tài sản của Công ty TNHH Đồng Trí được thực hiện theo Điều 54 Luật phá sản. Trường hợp giá trị tài sản của Công ty TNHH Đồng Trí sau khi đã thanh toán đủ các khoản quy định tại khoản 1 Điều 54 Luật phá sản mà vẫn còn thì phần còn lại thuộc về thành viên của Công ty TNHH Đồng Trí. 6. Số nợ phải thanh toán cho các chủ nợ: 27.408.630.667 đồng. Số tiền nợ có tài sản bảo đảm: 21.858.235.227 đồng. Số tiền nợ không có tài sản bảo đảm: 5.550.395.440 đồng. 7. Nghĩa vụ về tài sản phát sinh khi có Quyết định tuyên bố Công ty TNHH Đồng Trí phá sản được giải quyết theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và các quy định khác của pháp luật liên quan….” Trong toàn bộ quyết định phá sản này không có bất cứ một thông tin gì về tài sản còn tại của Công ty TNHH Đồng Trí. Trong trường hợp này, khi nhận được quyết định tuyên bố phá sản như trên thì Chấp hành viên lại phải yêu cầu Quản tài viên đang trực tiếp quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp cung cấp các tài liệu liên quan đến tài sản của doanh nghiệp để xác định xem doanh nghiệp còn những tài sản nào để tiến hành xử lý, thanh lý. Theo như các quy định hiện nay khi một doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản thì ngoài những tài sản có thể được liệt kê trong quyết định tuyên bố phá sản hoặc các tài sản đã được Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản quản lý thì vẫn còn có thể có những tài sản khác chưa được phát hiện. Đây là những tài sản nằm trong các giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 59 của Luật phá sản 2014 hoặc tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã chưa chia. Về vấn đề này, Điều 127 quy định về cách xử lý như sau: “1. Sau khi quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản mà phát hiện giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 59 của Luật này thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân tuyên bố giao dịch vô hiệu, xử lý hậu quả của giao dịch vô hiệu và phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định tại Điều 54 của Luật này. 2. Sau khi quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản mà phát hiện tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã chưa chia thì Tòa án nhân dân đã tuyên bố phá sản xem 17
  20. xét và quyết định phân chia tài sản theo quy định tại Điều 54 của Luật này. 3. Cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thực hiện quyết định phân chia tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều này” Như vậy, từ những phân tích và căn cứ pháp lý như đã nêu, chúng ta thấy để đưa ra khái niệm tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi bị tuyên bố phá sản là một vấn đề khá phức tạp. Có quan điểm cho rằng tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi bị tuyên bố phá sản là những tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp, hợp tác xã tại thời điểm bị tuyên bố phá sản. Chúng tôi cho rằng hiểu như vậy vẫn còn rất chung chung và thiếu cơ sở, căn cứ để Chấp hành viên xác định đầy đủ khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, vì Chấp hành viên không thể tự mình đi xác minh truy tìm hết các tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản được. Do vậy, trong khi chưa có một quy định pháp luật nào quy định trực tiếp về vấn đề này thì cần dựa vào một quy định gián tiếp để làm cơ sở cho việc xác định tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản và chúng tôi cho rằng cần dựa vào các quy định tại Điều 64 quy định về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và Điều 127 quy định về xử lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phát sinh sau khi quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản. Xuất phát từ cách tiếp cận vấn đề như trên thì có thể hiểu: tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi bị tuyên bố phá sản là những tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và những tài sản khác từ những giao dịch dân sự vô hiệu, tài sản chưa chia được phát hiện sau khi quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản. Với khái niệm trên thì cho dù trong quyết định tuyên bố phá sản có liệt kê đầy đủ hay không liệt kê tài sản thì Chấp hành viên vẫn có cơ sở để xác định khá chính xác khối tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản. Đó là căn cứ vào chứng từ kiểm kê tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán đã được Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản lập sau đó trừ đi các tài sản đã được xử lý trong quá trình giải quyết phá sản tại Tòa án thì sẽ có được khối tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2