intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Nhân học: Đạo Tin Lành ở Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:143

41
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn giới thiệu sơ lược về Đạo Tin Lành ở Việt Nam và ở Hà Nội; các Hội thánh Tin Lành ở Hà Nội hiện nay và giới thiệu về 5 Hội thánh được nghiên cứu, phân tích những thay đổi trong đời sống của người cải đạo. Đó là sự thay đổi về mặt tâm linh, sự thay đổi về vật chất. Bên cạnh đó, tôi cũng phân tích những mâu thuẫn trong quá trình cải đạo, như sự phản đối của người thân, sự đối chọi với truyền thống.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Nhân học: Đạo Tin Lành ở Hà Nội

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------------- NGUYỄN THÚY DUYÊN ĐẠO TIN LÀNH Ở HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ NHÂN HỌC Hà Nội – 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------------- NGUYỄN THÚY DUYÊN ĐẠO TIN LÀNH Ở HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ NHÂN HỌC Chuyên ngành: Nhân học Mã số: 60 31 03 02 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Chính Hà Nội – 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sỹ Nhân học đề tài “Đạo Tin Lành ở Hà Nội” là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Văn Chính. Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn này là trung thực, đảm bảo tính khách quan khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Họ tên của những đối tượng được phỏng vấn và được trích dẫn trong luận văn này đã được thay đổi để đảm bảo nguyên tắc, đạo đức nghiên cứu. Hà Nội, ngày 22 tháng 6 năm 2016 Tác giả luận văn Nguyễn Thúy Duyên
  4. LỜI CẢM ƠN Luận văn “Đạo Tin Lành ở Hà Nội” là thành quả của tôi sau 2 năm học Thạc sỹ tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Để hoàn thành được luận văn này, trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS.TS Nguyễn Văn Chính, người Thầy đã hướng dẫn tôi nghiên cứu đề tài này. Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng Thầy luôn động viên, khích lệ và theo sát tôi để tôi có thể hoàn thành luận văn này. Thầy cũng nghiêm khắc đóng góp những khiếm khuyết và thiếu sót về mặt thông tin cho tôi trong quá trình nghiên cứu. Tôi xin gửi đến Thầy lời cảm ơn sâu sắc và trân trọng nhất. Tôi cũng xin cảm ơn GS.TS Lương Văn Hy, PGS.TS Nguyễn Văn Sửu và các Thầy cô khoa Nhân học đã tham gia đóng góp, giúp tôi định hướng đề cương nghiên cứu và cho tôi những lời nhận xét quý báu. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể các Thầy cô khoa Nhân học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn vì đã dạy dỗ, truyền đạt cho tôi những kiến thức bổ ích cũng như kinh nghiệm nghiên cứu, để tôi có thể thu được những kết quả tốt. Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Mục sư Bùi Quốc Phong, Mục sư Nguyễn Trọng Việt, Mục sư Nguyễn Quang Hòa, Mục sư Vũ Hồng Thái... và các giáo dân tại các Hội thánh: Tin Lành Hà Nội, Tin Lành Yêu thương, Lời Sự Sống, Liên hữu Bắp-tít, Anh Quốc Giáo đã tạo điều kiện, giúp tôi có cơ hội tiếp xúc và tìm hiểu về đạo Tin Lành ở Hà Nội hiện nay. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên tôi trong suốt thời gian vừa qua để tôi có thể hoàn thành luận văn này. Mặc dù đã cố gắng và dành nhiều tâm huyết để hoàn thành luận văn “Đạo Tin Lành ở Hà Nội”, song vì kiến thức và thời gian có hạn nên luận văn
  5. này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những góp ý chân thành và thiết thực của Quý Thầy cô và các bạn để hoàn thiện hơn nữa đề tài này trong tương lai. Trân trọng cảm ơn! Nguyễn Thúy Duyên
  6. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài ...................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................. 3 3. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................. 9 4. Giả thuyết nghiên cứu ........................................................................... 11 5. Lý thuyết nghiên cứu............................................................................. 14 6. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................... 21 7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 26 CHƢƠNG 1: VỀ CÁC HỘI THÁNH TIN LÀNH Ở HÀ NỘI ................. 27 1.1. Đạo Tin Lành ở Việt Nam và Hà Nội ................................................ 27 1.1.1. Đạo Tin Lành ở Việt Nam ............................................................. 27 1.1.2. Đạo Tin Lành ở Hà Nội ................................................................. 31 1.2. Các Hội thánh Tin Lành ở Hà Nội ................................................... 35 1.3. Các Hội thánh đƣợc chọn nghiên cứu .............................................. 39 1.3.1. Hội thánh Tin Lành Hà Nội ........................................................... 40 1.3.2. Hội thánh Lời Sự Sống ................................................................... 41 1.3.3. Hội thánh Tin Lành Bắp- tít .......................................................... 43 1.3.4. Hội thánh Tin Lành Yêu Thƣơng.................................................. 44 1.3.5. Hội thánh Tin Lành Anh Quốc Giáo (England) .......................... 45 Tiểu kết chƣơng 1: .................................................................................... 47 Chƣơng 2: QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ ĐẠO TIN LÀNH Ở HÀ NỘI ... 50 2.1. Những con đƣờng truyền đạo ............................................................ 50 2.1.1. Mạng lƣới của ngƣời di cƣ lao động, học tập ở nƣớc ngoài ...... 53 2.1.2. Mạng lƣới của ngƣời cải đạo trong nƣớc .................................... 61 2.2. Động cơ cải đạo ................................................................................... 65
  7. 2.2.1. Động cơ về tinh thần ...................................................................... 67 2.2.2. Động cơ về vật chất ........................................................................ 74 Tiểu kết chương 2: ..................................................................................... 78 Chƣơng 3: TÁC ĐỘNG CỦA SỰ THAY ĐỔI TÔN GIÁO ..................... 81 3.1. Những thay đổi trong đời sống ......................................................... 81 3.1.1. Sự thay đổi về mặt tâm linh ........................................................... 82 3.1.2. Sự thay đổi về vật chất .................................................................... 84 3.2. Những xung đột trong quá trình cải đạo .......................................... 87 3.2.1. Sự phản đối của ngƣời thân ........................................................... 88 3.2.2. Sự đối chọi với truyền thống .......................................................... 96 3.3. Quan điểm của ngƣời ngoại đạo về việc cải đạo theo Tin Lành .. 102 3.3.1. Quan điểm của ngƣời dân nơi cƣ trú .......................................... 102 3.3.2. Quan điểm của chính quyền địa phƣơng .................................... 104 3.3.3. Quan điểm của những ngƣời làm chính sách ............................. 106 Tiểu kết chương 3: ................................................................................... 112 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................. 114 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 121
  8. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Biết đến Đạo Tin Lành thông qua nguồn nào? .............................. 53 Bảng 3.1: Cuộc sống thay đổi như thế nào từ khi cải đạo Tin Lành .............. 82 Bảng 3.2: Bị ai phản đối khi cải sang đạo Tin Lành ...................................... 90 Bảng 3.3: Phản ứng khi bị phản đối ............................................................... 93 Bảng 3.4: Mối tương quan giữa người giữ vị trí trong gia đình và phản ứng khi bị phản đối ................................................................................................. 95 Bảng 3.5: Mối tương quan giữa việc tổ chức và tham gia đám giỗ ............... 99 DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 2.1: Mạng lưới theo đạo Tin Lành của gia đình anh Nguyễn Anh Đức 58 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Trình độ học vấn của người cải đạo .......................................... 72
  9. MỞ ĐẦU 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài Tôn giáo từ lâu đã trở thành mối quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay. Bên cạnh những tôn giáo nội sinh, các tín ngưỡng, phong tục thờ cúng tổ tiên cùng một số tôn giáo du nhập khá sớm vào Việt Nam như Phật giáo, Đạo giáo, Lão giáo, Công giáo… đang từng bước khẳng định vị thế và chi phối đời sống tâm linh của người Việt, còn có những tôn giáo du nhập muộn hơn nhưng lại “ưu việt” hơn, dễ dàng thích ứng với văn hóa Việt Nam, trở thành trào lưu cải đạo. Có thể thấy, hiếm có quốc gia nào lại có nhiều tôn giáo cùng tồn tại, phát triển và dường như Việt Nam trong quá trình hội nhập đã trở thành “mảnh đất màu mỡ” cho các tôn giáo mới du nhập vào. Trong số những tôn giáo được truyền bá vào Việt Nam khá muộn, khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX thì đạo Tin Lành đã để lại nhiều dấu ấn bởi sự phát triển một cách nhanh chóng, thu hút sự quan tâm đông đảo của các tầng lớp trong xã hội Việt Nam. Đạo Tin Lành chính thức truyền giáo và xây dựng cơ sở đầu tiên tại Đà Nẵng vào năm 1911 do các giáo sỹ Hội Truyền giáo CMA hay còn gọi là Hội Phước âm liên hiệp (The Christian and Missonary of Alliaance of American- CMA). Với cách thức tổ chức Giáo hội đơn giản, gọn nhẹ, chịu ảnh hưởng khá đậm nét tư tưởng dân chủ tư sản và khuynh hướng tự do cá nhân, đạo Tin Lành đã trở thành một tôn giáo có màu sắc mới mẻ, hấp dẫn với các tầng lớp trí thức, công chức và người dân lao động nói chung. Đặc biệt, với lối sống đạo năng động, nhấn mạnh đến yếu tố cá nhân và chiều sâu lý tính, đạo Tin Lành có thể tồn tại và phát triển trong mọi hoàn cảnh chính trị - xã hội, kể cả khi bị o ép, cấm cách, đã lan tỏa đến cả những vùng sâu, vùng xa, len lỏi đến 1
  10. những tộc người thiểu số vốn mang đậm yếu tố văn hóa bản địa và thiết chế xã hội vô cùng chặt chẽ (Nguyễn Xuân Hùng, 2010:156). Trải qua quá trình hình thành và phát triển một cách nhanh chóng, theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, năm 1954 đạo Tin Lành ở Việt Nam đã có khoảng 60.000 tín đồ, hơn 100 mục sư, truyền đạo. Năm 1975 số tín đồ đã tăng lên khoảng 200.000 người, hơn 500 chức sắc, trên 20 tổ chức, hệ phái. Sau năm 1975, hoạt động của đạo Tin Lành lắng xuống, nhưng phục hồi từ những năm 80 trở lại đây và phát triển nhanh trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc, Tây Nguyên với khoảng trên 1 triệu người theo đạo vào năm 2005. Ngoài ra, đạo Tin Lành còn lan tỏa đến vùng cao các tỉnh duyên hải miền Trung và miền Nam Trường Sơn hay vùng Nam Bộ (Nguyễn Thanh Xuân, 2008: 299-301). Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về đạo Tin Lành ở Việt Nam nhưng tập trung chủ yếu ở khu vực vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên, là những khu vực tương đối nhạy cảm, còn nghiên cứu về đạo Tin Lành ở các đô thị lớn vẫn chưa được quan tâm và gần như chưa có gì. Tuy nhiên trên thực tế, đạo Tin Lành lại đang phát triển vô cùng mạnh mẽ ở các khu công nghiệp, khu đô thị lớn như ở Hà Nội, thu hút nhiều tầng lớp, từ tầng lớp trí thức như các giáo sư, tiến sỹ, những doanh nhân thành đạt, ca sỹ, nhạc sỹ… cho đến các tầng lớp lao động như công nhân. Đạo Tin Lành chia thành nhiều nhóm khác nhau và có khoảng 30 hệ phái. Tại Hà Nội, có khoảng 20 Hội thánh Tin Lành theo các hệ phái khác nhau, với các đặc điểm khác biệt về cơ cấu tổ chức song đều chung một giáo lý, trong đó có những Hội thánh có quy mô hoạt động lớn, số lượng tín đồ đông như Hội thánh Tin Lành Hà Nội, Hội thánh Lời Sự Sống, Hội thánh Bắp-tít… Nhận thấy việc nghiên cứu quá trình du nhập và cải sang đạo Tin Lành ở đô thị, đặc biệt là ở Hà Nội hiện nay là rất quan trọng, không chỉ giúp chúng 2
  11. ta có một cái đúng về sự phát triển của đạo Tin Lành mà thông qua đó còn giúp các nhà hoạch định chính sách có thể hiểu và đưa ra những chính sách phù hợp. Xuất phát từ lý do đó, trong phạm vi của một luận văn tốt nghiệp cao học với thời gian thực địa tương đối ngắn, tôi quyết định sẽ nghiên cứu 5 trong tổng số 20 Hội thánh Tin Lành tại Hà Nội (lý do tôi chọn 5 Hội thánh để nghiên cứu được sẽ giải thích kỹ trong phần phương pháp nghiên cứu), đó là: Hội thánh Tin Lành Hà Nội, Hội thánh Liên Hữu Bắp-tít, Hội thánh Lời Sự Sống, Hội thánh Yêu Thương, Hội thánh Anh Quốc Giáo. Thông qua nghiên cứu này, tôi hy vọng sẽ làm rõ được lý do mà người dân sống tại Thủ đô lại lựa chọn cải sang đạo Tin Lành cũng như con đường truyền bá và lan tỏa đạo Tin Lành ở Hà Nội, những tác động mà đạo Tin Lành mang lại đến cuộc sống của người cải đạo. 2. Lịch sử nghiên cứu Cho đến nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu về đạo Tin Lành nói chung, trong đó nổi lên ba xu hướng nghiên cứu chính: thứ nhất là nghiên cứu sự hình thành, phát triển và quá trình truyền bá đạo Tin Lành vào Việt Nam; thứ hai là nghiên cứu về quá trình cải đạo Tin Lành ở các tộc người thiểu số; và hướng nghiên cứu thứ ba là tìm hiểu đạo Tin Lành trong mối tương quan với văn hóa, tín ngưỡng Việt Nam. Nằm trong xu hướng nghiên cứu thứ nhất có thể kể đến tác phẩm “Một số tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thanh Xuân (2008). Trong tác phẩm này, tác giả đã đề cập đến lịch sử của một số tôn giáo lớn và quá trình truyền bá các tôn giáo đó vào Việt Nam, trong đó có đạo Tin Lành. Tác giả Nguyễn Thanh Xuân đã tái hiện sự ra đời của đạo Tin Lành ở Châu Âu, các giai đoạn phát triển, các trường phái Tin Lành cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Tác giả cũng đề cập đến quá trình truyền bá đạo Tin Lành ở Châu Âu , Bắc Mỹ, quá trình đạo Tin Lành du nhập vào Việt Nam, cũng như giáo lý, tổ 3
  12. chức giáo hội trong đạo Đạo Tin Lành. Điểm mạnh trong tác phẩm này là đã tái hiện một cách chân thực và tổng quát nhất về quá trình hình thành và phát triển đạo Tin Lành trên thế giới, cũng như ở Việt Nam. Tuy nhiên, tác phẩm này chỉ dừng lại ở mức khái quát hóa dựa trên các dấu mốc lịch sử phát triển đạo Tin Lành mà chưa đi sâu nghiên cứu, phân tích về đời sống của tín đồ theo đạo. Cũng nằm trong xu hướng này nhưng phân tích một cách kỹ lưỡng, sinh động hơn về lịch sử truyền bá đạo Tin Lành ở Việt Nam là tác phẩm “Đạo Tin Lành ở Việt Nam một cái nhìn tổng quát” của tác giả Đỗ Quang Hưng. Nghiên cứu này đề cập đến những vấn đề lịch sử của hệ phái “Tin Lành chính thống”, đông đảo nhất về số lượng tín hữu, cũng là cộng đồng Tin Lành hiện diện lâu đời nhất ở Việt Nam (100 năm tuổi) là Hội thánh Tin Lành Việt Nam (tức CMA). Cũng giống như tác phẩm của Nguyễn Thanh Xuân, công trình nghiên cứu của tác giả Đỗ Quang Hưng đã cho người đọc thấy được bức tranh và các dấu mốc quan trọng của quá trình truyền bá đạo Tin Lành ở Việt Nam, thông qua việc phục dựng các giai đoạn phát triển của Hội thánh Tin Lành Việt Nam. Tác giả cũng đi sâu vào phân tích nguyên nhân lụi bại hay thành công của từng giai đoạn và tư tưởng thần học của đạo Tin Lành. Bên cạnh đó, tác giả Đỗ Quang Hưng còn đề cập đến đạo Tin Lành trong mối tương quan với đời sống và các hoạt động truyền giáo. Tuy nhiên, cũng giống như nghiên cứu của Nguyễn Thanh Xuân, tác giả Đỗ Quang Hưng chỉ đề cập chủ yếu đến khía cạnh hình thành và phát triển mang tính lịch sử của đạo Tin Lành ở Việt Nam mà chưa đi sâu nghiên cứu những tác động do đạo Tin Lành mang lại. Đối với xu hướng nghiên cứu về quá trình cải đạo Tin Lành ở các tộc người thiểu số, có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu như “Cải đạo, thích ứng và biến đổi văn hóa, Trường hợp người Hmông Tin Lành, tỉnh Lào Cai” của PGS.TS Nguyễn Văn Chính (2014). Nghiên cứu này đề cập đến quá 4
  13. trình chuyển đổi niềm tin tôn giáo và nghi lễ truyền thống của một bộ phận người Hmông Tin Lành, Lào Cai và những ảnh hưởng do thay đổi tôn giáo lên lối sống và bản sắc tộc người của họ. Theo đó, tác giả cho rằng, việc nghiên cứu sự chuyển đổi của con người từ những nền tảng văn hóa khác nhau sang đạo Tin Lành đã mang lại sức mạnh và sự sáng tạo cho con người và nhà truyền giáo. Điểm mạnh của công trình nghiên cứu này đã cho người đọc thấy được quan niệm của người Hmong cải đạo và chưa cải đạo theo Tin Lành. Có người tin rằng Tin Lành đã cứu rỗi dân tộc Hmong, đưa họ đến tương lai tươi sáng, và cải đạo là con đường của sự sáng tạo và hình thành một nền văn hóa mới của người Mông thích ứng với trào lưu văn hóa có tính toàn cầu. Ngược lại, có nhiều ý kiến cho rằng đạo Tin Lành đe dọa bản sắc văn hóa dân tộc, làm phai nhạt và tàn lụi văn hóa truyền thống của người Hmong, giết chết tính đa dạng của các nền văn hóa. Bên cạnh đó, cũng nằm trong xu hướng nghiên cứu thứ hai là công trình “Một số vấn đề về Tin Lành ở Tây Nguyên” của tác giả Đỗ Quang Hưng (2011: 3-12). Theo đó, tác giả đã đi sâu phân tích về thực tại đạo Tin Lành ở khu vực Tây Nguyên hiện nay, trong đó nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa đạo Tin Lành và việc phát triển bền vững kinh tế - xã hội của khu vực này. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Đỗ Quang Hưng cũng chỉ ra được tác động qua lại giữa đạo Tin Lành và văn hóa bản địa, sự thích nghi văn hóa và hội nhập văn hóa Tin Lành với văn hóa dân tộc. Nằm trong xu hướng nghiên cứu thứ ba, nghiên cứu về đạo Tin Lành trong mối tương quan với văn hóa, tín ngưỡng, có thể thấy một số nghiên cứu tiêu biểu của Nguyễn Xuân Hùng (2011) và Lưu Thị Thúy (2010). Trong tác phẩm “Đạo Tin Lành trong mối tương quan với văn hóa dân tộc và tín ngưỡng Việt Nam” của Nguyễn Xuân Hùng (2011:156), tác giả đã khái quát những đặc điểm của cộng đồng Tin Lành và lý giải sự tương quan giữa 5
  14. đạo Tin Lành với các đặc điểm xã hội, văn hóa, tôn giáo ở Việt Nam. Theo đó, tác giả cho rằng, đạo Tin Lành với những đặc trưng truyền đạo theo cá nhân, giảng đạo trực tiếp, thuyết giải, tranh luận, hạ uy tín các thần… đã làm nảy sinh sự xung đột sâu sắc và trực diện trong đời sống người Việt. Đạo Tin Lành tuyên chiến với tập tục gia đình, truyền thống văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo bản địa tại Việt Nam. Đây cũng là vật cản đáng kể trong quá trình truyền giáo Tin Lành vào Việt Nam. Đây có thể là một quan điểm đúng nhưng chưa đầy đủ, bởi lẽ tác giả mới chỉ ra được những xung đột đó là gì, mà chưa đi sâu tìm hiểu những người cải đạo Tin Lành sẽ làm gì để giải quyết những xung đột đó. Hay nói cách khác, khi phải từ bỏ các tín ngưỡng truyền thống như thờ cúng ông bà tổ tiên, tổ chức giỗ chạp… cũng đồng nghĩa với việc các tín đồ Tin Lành sẽ phải đối mặt với vô vàn áp lực đến từ gia đình, người thân. Những áp lực này là không hề nhỏ, có thể buộc họ phải đưa ra sự lựa chọn: gia đình hay tôn giáo? Vậy, họ sẽ đưa ra cách ứng xử như thế nào? Trong đề tài nghiên cứu của mình tôi đi tìm câu trả lời cho vấn đề đó. Tuy nhiên, có thể đồng tình với tác giả Nguyễn Xuân Hùng rằng phần lớn những người tin theo đạo Tin Lành có đức tính siêng năng, có đạo đức, có lối sống giản dị, chân thực, ít mắc vào các tệ nạn rượu chè, cờ bạc, hút xách, phấn đấu cho cuộc sống của mình và xã hội tốt đẹp, bình an, nhanh nhạy. Điều này có thể được lý giải bởi những người theo đạo Tin Lành luôn coi Kinh Thánh là lời răn dạy của Đức Chúa Trời và làm theo những điều Kinh Thánh viết, trong đó dạy tín đồ Tin Lành luôn sống siêng năng, chăm chỉ, hiếu thuận, biết yêu thương tất cả mọi người… Cũng nằm trong xu hướng nghiên cứu đạo Tin Lành ở Việt Nam, song Lưu Thị Thúy (2010) tiếp cận ở một khía cạnh khác là một chi phái của đạo Tin Lành – giáo phái Ngũ Tuần tại Hà Nội. Trong nghiên cứu của mình, tác 6
  15. giả đã đi sâu vào phân tích đặc điểm của giáo phái Ngũ Tuần, nhấn mạnh đến tính căn bản của giáo phái này là “Nói tiếng lạ”, tức là cầu nguyện bằng tiếng lạ. Đây được coi là ngôn ngữ khi cầu nguyện của những người theo giáo phái này mà chỉ có người trong giáo phái mới hiểu được, là sự hiệp thông giữa những người theo đạo vào Đức Chúa trời (Lưu Thị Thúy, 2010:47). Tác giả cũng chỉ ra sự đóng góp của giáo phái Ngũ Tuần trong việc duy trì đạo đức xã hội, hoàn thiện nhân cách cá nhân, hướng con người đến Chân – Thiện – Mỹ. “… Nếu xét theo giáo phái Ngũ Tuần thì tất cả những giá trị về đạo đức cũng đều được biểu hiện khá rõ, đề cập đến tình yếu: Yêu thương bản thân mình, yêu tha nhân và yêu thiên nhiên, trong đó yêu tha nhân là trọng tâm của quan niệm đạo đức…” (Lưu Thị Thúy, 2010: 110). Để minh chứng cho điều này, tác giả đã viện dẫn mối quan hệ giữa những tín đồ trong Hội Thánh luôn được thắt chặt bởi tình yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trong một cộng đoàn lớn, họ sẵn sàng chia sẻ ủng hộ cho nhau cả vật chất và tình thần mà không có chút tính toán thiệt hơn trong cuộc sống. Trên cơ sở tương trợ lẫn nhau đã tạo lên một mạng lưới những tín đồ theo Chúa và sự liên kết không chỉ dừng lại ở những người trong cùng giáo phái mà lan rộng sự liên kết của các giáo phái trong hoạt động chung của cộng đồng dân Chúa. Với việc tìm ra đặc điểm này của giáo phái Ngũ Tuần tại Hà Nội, công trình nghiên cứu của tác giả đã giúp tôi rất nhiều trong việc định hướng, tạo ra tiền đề để nghiên cứu sâu rộng hơn về các đặc điểm của đạo Tin Lành ở Hà Nội. Nó làm rõ hơn một trong những giả thuyết nghiên cứu được đặt ra trong luận văn của tôi là: Có hay không sự tác động qua lại giữa đạo Tin Lành với đời sống vật chất, tinh thần của người Hà Nội? Công trình nghiên cứu của tác giả cũng đề cập đến sự thích nghi của giáo phái Ngũ Tuần trong mối tương quan với đặc điểm văn hóa truyền thống. 7
  16. Theo đó, tác giả đưa ra nhận định đồng nhất với quan điểm mà tôi đã trình bày và khác biệt với nhận định có sự xung đột sâu sắc giữa đạo Tin Lành và văn hóa truyền thống của tác giả Nguyễn Xuân Hùng (2011). Một trong những vấn đề lớn được đặt ra trong các nghiên cứu là: Tại sao người ta lại cải sang đạo Tin Lành? Được đề cập đến trong công trình của tác giả Lưu Thị Thúy cũng giúp ích rất nhiều cho nghiên cứu của tôi. Theo đó, tác giả cho rằng giáo phái Ngũ Tuần có một sức hấp dẫn kỳ lạ đối với người dân và bác bỏ quan điểm cho rằng “Ngũ Tuần là tà giáo”. Lý do của việc cải đạo được đưa ra trong công trình nghiên cứu này là để “lấp đầy khoảng trống tâm linh”, sục sạo đi tìm chính mình, tìm kiếm sự bảo vệ, che chở trước những “bức bối trần thế”. “… Tập hợp xung quanh nhân vật tôn giáo là những nhóm người như là tín đồ của thứ đạo ấy. Họ đủ mọi tầng lớp trong xã hội nhưng tập trung ở tầng lớp thị dân, công nhân, cán bộ viên chức và nông dân…, những người thu nhập trung bình và thấp. Điều đáng nói ở đây là khi phỏng vấn 30 người có một kết luận chung: Tuy nhiều thành phần tham gia nhưng những người vào hội thánh đều là những con người gặp nhiều khó khăn về vật chất, tinh thần cũng như sức khỏe…” (Lưu Thị Thúy 2010:64) Đối tượng tham gia cải đạo như tác giả đề cập đến là những người thu nhập trung bình và thấp, song, tôi không đồng tình với quan điểm này. Tôi cho rằng ngoài những đối tượng đó thì còn có cả những doanh nhân thành đạt, những người có địa vị, có tiền trong xã hội cũng tham gia cải đạo Tin Lành. Sự khác biệt trong quan điểm giữa tôi và tác giả sẽ được trả lời cụ thể trong đề tài nghiên cứu này của tôi. Ngoài những điểm mạnh trong công trình của tác giả Lưu Thị Thúy mà tôi đã phân tích và trình bày ở trên thì nghiên cứu của tác giả còn bộc lộ nhiều điểm thiếu sót. Tác giả chỉ viện dẫn một cách mơ hồ về quan hệ tương trợ, 8
  17. giúp đỡ lẫn nhau giữa những tín đồ trong Hội Thánh mà chưa nêu ra cụ thể là giúp đỡ như thế nào? Thông qua những hoạt động gì? Họ suy nghĩ ra sao? Trong công trình nghiên cứu của tác giả cũng chưa làm rõ được việc: Giáo phái Ngũ Tuần ở Hà Nội có những đặc điểm gì? Đặc điểm đó có tầm quan trọng ra sao? - mà mới chỉ nhấn mạnh đến một yếu tố duy nhất là sự tương trợ lẫn nhau, trong khi tôi cho rằng còn có nhiều đặc điểm khác. Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp phỏng vấn sâu 30 trường hợp, nhưng lại chưa tìm ra được những điểm chung và điểm khác biệt trong quan điểm của những người này. Họ suy nghĩ như thế nào về đạo của mình? Họ hành động ra sao? Ứng xử với các thành viên khác thế nào?...chưa được đề cập đến. Đa phần, tác giả chỉ viện dẫn một số lời tự sự của một vài đối tượng để minh họa cho quan điểm của mình. Bởi thế, công trình nghiên cứu mang đậm lập trường và đánh giá chủ quan của nhà nghiên cứu mà chưa đứng dưới góc độ, cách nhìn của đối tượng được nghiên cứu. Mặt khác, dù nghiên cứu về giáo phái Ngũ Tuần tại Hà Nội, nhưng nghiên cứu của tác giả lại không tập trung đi sâu vào hoạt động giáo phái này tại Hà Nội mà có đến gần một nửa là phân tích giáo phái Ngũ Tuần ở các nước khác. Trong nghiên cứu của mình, tôi sẽ cố gắng khắc phục những điểm thiếu sót trên của tác giả. 3. Câu hỏi nghiên cứu Thông qua việc nghiên cứu 8 Hội thánh Tin Lành ở Hà Nội, trong luận văn của mình tôi sẽ tập trung tìm kiếm giải đáp cho một số vấn đề liên quan 3 câu hỏi chính như sau: Câu hỏi 1: Động cơ nào khiến cho nhiều người từ bỏ thờ cúng tổ tiên và Tam giáo (Phật – Đạo - Lão) để cải sang đạo Tin Lành? Hay nói cách khác là tại sao nhiều người dân sống tại Hà Nội lựa chọn đi theo đạo Tin Lành mà không phải là một tôn giáo khác? 9
  18. Câu hỏi 2: Đạo Tin Lành được truyền bá tại Hà Nội như thế nào? Bằng con đường nào? Cách thức ra sao? Câu hỏi 3: Từ khi tin theo Đạo Tin Lành, cuộc sống của những người cải đạo đã thay đổi ra sao? Có nghĩa là tìm hiểu sự thay đổi về đời sống vật chất, đời sống tinh thần của những người cải đạo. Cách nhìn nhận, đánh giá của những người xung quanh về họ. Ba câu hỏi nghiên cứu chính được đặt ra đối với nghiên cứu này và để trả lời được ba câu hỏi đó đòi hỏi phải có một thời gian nghiên cứu đủ lâu, nghiêm túc, thông tin chính xác và phong phú. Trong phạm vi nghiên cứu luận văn tốt nghiệp này, tôi không hy vọng sẽ trả lời một cách chi tiết những câu hỏi trên, song tôi mong rằng sẽ cung cấp một cách cơ bản những thông tin lên quan đến vấn đề mà tôi nghiên cứu. Với thời gian nghiên cứu ngắn và kiến thức còn hạn chế, đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu tại địa bàn Hà Nội, với đối tượng nghiên cứu là những người dân đã cải sang đạo Tin Lành, đặt trọng tâm trong vòng 10 năm trở lại đây, đang sinh hoạt tại 5 Hội thánh trên. Lý do nghiên cứu trọng tâm những người cải đạo trong vòng 10 năm trở lại đây vì 10 năm là khoảng thời gian không quá dài, cũng không quá ngắn. Nếu nghiên cứu 20, 30 năm trước đó là quá dài, đối tượng phỏng vấn sẽ không nhớ một cách chi tiết quá trình họ tin theo đạo Tin Lành. Còn nếu đặt trọng tâm nghiên cứu người cải đạo 3 năm hay 5 năm gần đây sẽ không thể đánh giá được tổng thể được cả quá trình đạo Tin Lành truyền bá ở Hà Nội. Tuy nhiên, trong đề tài này vẫn nghiên cứu cả những người cải đạo từ 20, 30 năm trước, song trọng tâm nhất vẫn là những người cải đạo trong vòng 10 năm trở lại đây. Bên cạnh đó, qua quá trình trao đổi với mục sư Bùi Quốc Phong (Mục sư của Hội thánh Tin Lành Hà Nội), ông cho biết có đến 4/5 số tín đồ tại Hà Nội là cải sang đạo Tin Lành trong vòng 10 năm trở lại đây. Mặt khác, đặc điểm 10
  19. nổi bật của đạo Tin Lành ở Hà Nội là rất ít tín đồ theo “đạo dòng” (những người xuất thân trong các gia đình có nhiều đời theo đạo Tin Lành), mà đa số người theo “đạo dòng” đã di cư vào miền Nam. 4. Giả thuyết nghiên cứu Giả thuyết 1: Động cơ tinh thần và vật chất là nguyên nhân chính khiến cho nhiều người dân tại Hà Nội quyết định tin theo đạo Tin Lành. Về tinh thần: sự khủng hoảng niềm tin và khoảng trống tâm linh đã dẫn tới việc người dân đang sống tại Hà Nội tìm đến một tôn giáo mới, mà ở đây là Đạo Tin Lành. Dường như, với những người này, Đạo Tin Lành vô cùng ưu việt, giúp “khai sáng” cuộc đời họ, giúp họ có can đảm để từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, từ bỏ thờ cúng ông bà tổ tiên, từ bỏ Tam giáo và làm cho cuộc sống của họ có mục đích, có ý nghĩa hơn. Sự “khai sáng” này không chỉ đến với những người lao động chân tay – những người không có học thức cao mà lý thuyết Mac-xit đã từng cho rằng họ là những người “bần cùng”, vì quá khốn khó nên mới bấu víu vào tôn giáo; mà đó còn là tầng lớp trí thức như giáo sư, tiến sỹ, sinh viên, doanh nhân thành đạt… Cùng với đó, Việt Nam tuy là mảnh đất màu mỡ cho các tôn giáo phát triển, nhưng lại không có tôn giáo chủ lưu hay quốc giáo. Chính điều này đã dẫn đến “khoảng trống tâm linh” và người ta phải đi tìm một tôn giáo mới để lấp đầy khoảng trống này. Bên cạnh đó, sau năm 1990, Chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ trên toàn thế giới đã dẫn đến xu hướng “khủng hoảng niềm tin chủ nghĩa xã hội”, nên ngay cả những người từng là “cộng sản” cũng đi theo đạo Tin Lành. Về vật chất: khi trở thành tín đồ Tin Lành, họ được sinh hoạt trong các hội nhóm phù hợp và nhận được sự giúp đỡ từ những người cùng đạo. Đó là sự giúp đỡ về tiền bạc, đồ dùng, phương tiện, vật chất liên quan đến giáo dục… 11
  20. Họ còn được tham dự các khóa học miễn phí, dạy kỹ năng sống, kỹ năng giáo dục con cái, các lớp học về hôn nhân, gia đình, các khóa học về thần học… Ngoài ra, một số tín đồ còn cho biết, họ tin theo Đạo Tin Lành vì Chúa giúp họ làm ra được nhiều vật chất hơn, thậm chí Chúa ban tặng cho họ tiền bạc. Mỗi khi gặp khó khăn về vật chất, chỉ cần họ cầu nguyện Chúa là Chúa sẽ ban cho họ điều mà họ cần. Giả thuyết nghiên cứu 2: Đạo Tin Lành được truyền bá rộng rãi ở Hà Nội là nhờ mạng lưới của những người di cư học tập, làm việc ở nước ngoài. Theo kết quả điều tra của Lưu Thị Thúy (2010) phần lớn những người cải sang đạo Tin Lành đều là những người di cư lao động. Họ di cư từ Việt Nam sang Đông Âu để làm việc và khi họ trở về mang theo một tôn giáo mới. Với một tổ chức xuyên quốc gia tạo ra mạng lưới lớn có tính chất toàn cầu như đạo Tin Lành đã dễ dàng được những người sống xa quê hương tiếp nhận. Dường như tinh thần phiêu lưu của người di cư và sự nhạy bén với cái mới trong văn hóa đã tạo điều kiện cho đạo Tin Lành thâm nhập vào Việt Nam không quá khó khăn. Bởi người di cư phần lớn ở thế yếu nên họ tiếp nhận tôn giáo mới dễ hơn các cộng đồng khác. Điều này có thể thấy ở những cộng đồng người Việt sống ổn định trong các làng xã có truyền thống thì đạo Tin Lành không vào được. Nhưng từ một người di cư lao động mang tôn giáo mới về thì lại lan tỏa ra các gia đình, dòng họ và những người khác, tạo ra một cộng đồng giống như "vết dầu loang". Hiện nay, đạo Tin Lành phát triển như là một xu thế, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc... Trong đó, có 3 lực lượng chính tham gia vào truyền đạo Tin Lành vào Việt Nam:  Thứ nhất là do những người đi xuất khẩu lao động ở Đông Âu (Đông Đức cũ, Ba Lan, nước Nga) mang về. Lý thuyết của một nhà nghiên cứu người Đức cho rằng người lao động ở nước ngoài ở trong một vị 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2