intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Nhân văn: Đời sống kinh tế - Văn hóa của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái nguyên từ năm 1975 đến năm 2015

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

64
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong lịch sử hình thành và phát triển của mỗi thành phần dân tộc thì yếu tố kinh tế và văn hóa có vai trò rất quan trọng, có mối quan hệ với nhau và là nền tảng, là tiền đề cho sức mạnh của mỗi quốc gia, dân tộc. Luận văn tìm hiểu về đời sống kinh tế - Văn hóa của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái nguyên từ năm 1975 đến năm 2015. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Nhân văn: Đời sống kinh tế - Văn hóa của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái nguyên từ năm 1975 đến năm 2015

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM Ế- Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60.22.03.13 LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa họ Thái Nguyên, năm 2017
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Đờ ế- ỉ kết quả nghiên cứu của riêng tôi, nội dung đề tài luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các báo, tạp chí và một số cuốn sách (đã nêu ở phần Tài liệu tham khảo). Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng trong công trình nghiên cứu nào. Các trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng. ận văn i
  3. LỜI CẢM ƠN TS. n văn. ỡ ệ ệ ỉ ể trong huyệ ỉ ận văn ii
  4. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan....................................................................................................... i Lời cảm ơn.......................................................................................................... ii Mục lục.............................................................................................................. iii MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN .................................................................................... 9 1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên .................................................................... 9 1.2. Nguồn gốc tộc người................................................................................. 11 1.2.1. Khái quát về tộc người Mông trước khi đến huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên ............................................................................................................. 11 1.2.2. Tộc người Mông ở huyện Võ Nhai (1975 - 2015)................................. 15 Chƣơng 2. ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA TỘC NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015........ 20 2.1. Trong nông nghiệp .................................................................................... 20 2.1.1. Về trồng trọt ........................................................................................... 20 2.1.2. Về chăn nuôi .......................................................................................... 31 2.2. Nghề thủ công gia đình ............................................................................. 32 2.3. Khai thác nguồn lợi tự nhiên..................................................................... 37 2.4. Trao đổi hàng hoá ..................................................................................... 38 Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 39 Chƣơng 3. ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA TỘC NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015........ 40 3.1. Tổ chức xã hội........................................................................................... 40 3.1.1. Cộng đồng làng bản, dòng họ ................................................................ 41 3.1.2. Gia đình và hôn nhân ............................................................................. 47 iii
  5. 3.2 Đời sống vật chất ....................................................................................... 50 3.2.1. Đồ ăn, uống, hút ..................................................................................... 50 3.2.2. Trang phục ............................................................................................. 53 3.2.3. Nhà ở ...................................................................................................... 54 3.3. Các tập quán liên quan đến chu kì đời người ........................................... 55 3.3.1. Sinh đẻ và nuôi dạy con cái ................................................................... 55 3.3.2. Nghi lễ đám cưới.................................................................................... 56 3.3.3. Nghi lễ tang ma ...................................................................................... 58 3.4. Tín ngưỡng, tôn giáo ................................................................................. 62 3.5. Văn nghệ dân gian..................................................................................... 68 3.6. Lễ hội và trò chơi dân gian ....................................................................... 70 Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 73 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 77 PHỤ LỤC iv
  6. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh và vững bền, “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Đó là sức mạnh tổng hợp của 54 thành phần dân tộc anh em trên dải đất hình chữ S, là kết quả của quá trình phát triển cả về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Trong lịch sử hình thành và phát triển của mỗi thành phần dân tộc thì yếu tố kinh tế và văn hóa có vai trò rất quan trọng, có mối quan hệ với nhau và là nền tảng, là tiền đề cho sức mạnh của mỗi quốc gia, dân tộc. Kinh tế là những hoạt động đầu tiên để giải quyết nhu cầu ăn, ở và mặc cho con người. Trong quá trình định cư và sinh sống của mình, các dân tộc dựa vào những điều kiện tự nhiên và đặc trưng riêng có mà hình thành nên các loại hình kinh tế. Hoạt động kinh tế rất đa dạng nhưng giữa các nền kinh tế khác nhau thường có sự giao thoa, hỗ trợ, hợp tác và cùng phát triển. Việc phát triển cái mới trên cơ sở phát huy cái cũ của một nền kinh tế là một việc làm hết sức cần thiết trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong thời kì hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay. Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ trong quá trình hoạt động thực tiễn nhằm đáp ứng nhu cầu của mình. Văn hóa là tác nhân để đưa tới sự đối thoại, sự hợp tác và đưa đến “tứ hải giai huynh đệ” (bốn biển đều là anh em) cho nhân loại. Văn hoá vừa là động lực, vừa là kết quả nhân văn của một nền kinh tế. Tất cả các dân tộc trong quá trình vận động và phát triển của mình đều có một hướng đi chung là nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội cho nhân dân. Vì vậy, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, Đảng ta xác định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, đảm bảo cho cộng đồng các dân tộc 1
  7. khai thác thế mạnh địa phương làm giàu cho mình, cho đất nước” (Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khoá XI) và “Phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của các dân tộc anh em làm phong phú thêm nền văn hoá chung của cả nước” (Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII của Đảng). Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, dân tộc Mông là một dân tộc ít người thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao, với 3 ngành chính: Mông Trắng, Mông Hoa và Mông Đen. Địa bàn sinh sống của người Mông chủ yếu là ở những vùng núi cao thuộc các tỉnh: Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Thái Nguyên, Tuyên Quang…. Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc Mông có 1.068.189 người, đứng thứ 8 trong bản danh sách các dân tộc ở Việt Nam. Bằng sức mạnh cộng đồng và khả năng sáng tạo của mình, người Mông ở Việt Nam đã xây dựng cho mình một đời sống kinh tế, văn hoá đặc thù của cư dân vùng núi cao, phù hợp với đặc điểm tự nhiên và truyền thống sản xuất của tộc người mình. Thái Nguyên là một tỉnh miền núi phía Bắc với gần 20 thành phần dân tộc anh em. Tộc người Mông ở Thái Nguyên tập trung khá đông đảo, nhất là ở các huyện Võ Nhai, Đồng Hỷ, Định Hoá, Phú Lương. Người Mông ở Thái Nguyên nói chung và Võ Nhai nói riêng chủ yếu mới di cư từ các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang về do cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, tỉnh Thái Nguyên có 7.230 người thuộc dân tộc Mông, chiếm 0,6% dân số toàn tỉnh và là 1 trong 8 thành phần dân tộc có số lượng đông nhất. Võ Nhai là huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên, nằm ở tọa độ có giới hạn địa lí từ 105035’ đến 106017’ kinh Đông, 21036’ đến 21056’ vĩ Bắc; phía đông giáp huyện Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn); phía tây giáp huyện Đồng Hỷ và 2
  8. huyện Phú Lương; phía nam giáp huyện Đồng Hỷ (tỉnh Thái Nguyên) và huyện Yên Thế (tỉnh Bắc Giang); phía bắc giáp huyện Na Rì (tỉnh Bắc Kạn). Người Mông sống chủ yếu tại các xã Thượng Nung, Dân Tiến, Cúc Đường, La Hiên, là những nơi có địa hình núi cao, thung lũng xen kẽ núi đá. Bằng sức mạnh cộng đồng và khả năng của mình, người Mông ở Võ Nhai đã sáng tạo những loại hình kinh tế, những nét văn hoá mang tính đặc thù. Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn cuộc sống, nhằm góp phần nhỏ vào việc tìm hiểu những đặc điểm kinh tế, văn hoá của người Mông ở Võ Nhai - Thái Nguyên và để phục vụ cho việc giảng dạy lịch sử địa phương, tôi quyết định chọn đề tài: Đời sống kinh tế - văn hoá của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1975 đến năm 2015 làm Luận văn Thạc sĩ Sử học. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước về tộc người Mông. Trong đó có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau đây: Lịch sử người Mèo của học giả nước ngoài Savina F.M xuất bản tại Hồng Kông năm 1924 do Trương Thọ dịch, cho biết một cách khái quát về lịch sử di cư, tên gọi, nguồn gốc của người Mông trên thế giới. Dân tộc Mông ở Việt Nam của các tác giả Cư Hoà Vần và Hoàng Nam - Nxb Văn hoá dân tộc, 1994, đã phác họa một cách khá đầy đủ về kinh tế, văn hoá, xã hội của tộc người Mông ở Việt Nam nói chung. Công trình này cũng là nguồn tư liệu để tìm hiểu về đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của tộc người Mông tại Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Năm 1995, Nxb Văn hóa dân tộc xuất bản cuốn sách Văn hóa Mông của tác giả Trần Hữu Sơn. Cuốn sách đề cập khá sâu sắc về nét văn hóa cổ truyền của tộc người Mông. 3
  9. Văn hoá tâm linh của người HMông ở Việt Nam truyền thống và hiện tại của tác giả Vương Duy Quang, Nxb Văn hoá thông tin và Viện Văn hoá Hà Nội xuất bản năm 2005, đã giới thiệu khái quát về lịch sử di cư, địa vực cư trú và tộc danh của người Mông ở Việt Nam. Tác giả cuốn sách cũng đề cập đến những nét chung về đời sống kinh tế, đời sống xã hội của người Mông. Cuốn sách Địa chí Thái Nguyên, do Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2009, là một công trình nghiên cứu công phu của tập thể tác giả trong và ngoài tỉnh đã trình bày khá rõ nét và cơ bản về kinh tế, văn hoá, xã hội của các tộc người ở Thái Nguyên, trong đó có tộc người Mông. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam - Nxb Giáo dục Việt Nam - 2010, giới thiệu sơ lược về 54 thành phần dân tộc anh em cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, trong đó có tộc người Mông. Một số Luận Văn Thạc sĩ, như: Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại từ năm 1945 đến nay của Nguyễn Kiến Thọ, (2008), đã chỉ ra những vẻ đẹp đặc trưng, mới lạ và độc đáo của bản sắc văn hóa tộc người Mông, góp thêm tiếng nói vào việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy những nét đẹp văn hóa của tộc người Mông từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay. Kinh tế - Văn hóa của người Mông ở huyện Nà Hang tỉnh Tuyên Quang từ năm 1986 đến năm 2010 của Nguyễn Hoa Hậu, (2011), giới thiệu một cách khái quát về đời sống kinh tê, văn hóa của tộc người Mông ở huyện Na Hang tỉnh Tuyên Quang trong quá khứ và những chuyển biến ở hiện tại, là cơ sở để chúng ta thực hiện mục tiêu phát triển dân trí, nâng cao chất lượng cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế - Văn hóa của người Mông ở huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên từ năm 1979 đến năm 2010 của Hứa Thị Hoàng Anh (2013), góp phần định hướng những giải pháp nhằm ổn định, nâng cao đời sống kinh tế của người 4
  10. Mông ở Phú Lương tỉnh Thái Nguyên, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của đồng bào. Tổ chức xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo của người Mông ở miền Tây Cao Bằng từ năm 1945 đến năm 2012, (2013), nhằm góp phần giữ gìn, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của tộc người Mông ở Việt Nam nói chung và ở Cao Bằng nói riêng. Luận án Tiến sĩ của Phan Viết Long, Vấn đề đạo Tin lành trong dân tộc Mông các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, 2003, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 2003), khái quát về tình hình tín ngưỡng của tộc người Mông trong lịch sử và hiện tại, những mặt tích cực và hạn chế cần duy trì và xóa bỏ. Ngoài những công trình nghiên cứu nêu trên, còn có một số bài báo, như: Thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại - một vài đặc điểm nổi bật, của Trần Thị Việt Trung, đăng trong Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên, số 3 tập 1, 2008; Làng bản và luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của người Mông ở huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang của 2 tác giả Đàm Thị Uyên và Phùng Thị Sinh, đăng trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, 2010; Làng bản và luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của người HMông huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang của hai tác giả Hà Thị Thu Thủy và Đàm Thị Uyên, đăng trong Tạp chí Dân tộc và Thời đại số 139-140, 2011; Tìm hiểu cách thức khai thác và bảo vệ rừng của dân tộc Mông tỉnh Thái Nguyên của tác giả Dương Quỳnh Phương, đăng trong Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái Nguyên, số 2, 2006... Những bài báo này đã giới thiệu về luật tục, cách thức khai thác và bảo vệ tài nguyên của tộc người Mông trong quá trình sinh sống và lao động sản xuất. Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về kinh tế - văn hóa của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Những công 5
  11. trình nêu trên là nguồn tài liệu quý báu giúp cho tôi tiếp cận và nghiên cứu thực hiện Luận văn này. 3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống lại các đặc điểm kinh tế - văn hoá của người Mông ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1979 đến năm 2015. Qua nghiên cứu, đề xuất giải pháp giữ gìn và bảo tồn các giá trị văn hoá của người Mông trên địa bàn nghiên cứu nói riêng và trên lãnh thổ Việt Nam nói chung. - Cung cấp cho giáo viên và học sinh những hiểu biết về dân tộc thiểu số nói chung và của tộc người Mông nói riêng ở địa phương, cụ thể để phục vụ cho việc dạy học lịch sử địa phương. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là kinh tế và văn hoá của người Mông ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên. Nghiên cứu về kinh tế bao gồm kinh tế nông nghiệp, khai thác nguồn lợi tự nhiên, thủ công nghiệp và trao đổi hàng hoá. Nghiên cứu về văn hoá bao gồm các lĩnh vực trong đời sống vật chất và đời sống tinh thần. 3.3. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Đề tài giới hạn trong tìm hiểu về đời sống kinh tế - văn hoá của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1975 đến năm 2015, qua đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế, đồng thời giữ gìn và phát huy những nét bản sắc văn hóa tộc người, “hòa nhập nhưng không hòa tan” của mỗi tộc người trong cộng đồng 54 dân tộc anh em. - Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn huyện Võ Nhai, chủ yếu ở các xã Dân Tiến, La Hiên, Thượng Nung, Nghinh Tường, Phương Giao, Phú Thượng là những nơi có đông người Mông sinh sống. - Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu các loại hình kinh tế và văn hoá người Mông từ năm 1975, nghĩa là từ khi người Mông bắt đầu di cư về huyện Võ Nhai,đến năm 2015. 6
  12. 3.3. Nhiệm vụ của đề tài - Khái quát vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, xã hội của người Mông ở huyện Võ Nhai từ năm 1979 đến năm 2015. - Làm rõ những đổi thay trong đời sống vật chất và tinh thần. - Xác định những đặc điểm cần bảo tồn và phát huy trong quá trình gìn giữ những bản sắc văn hoá dân tộc. 4. Nguồn tƣ liệu và phuơng pháp nghiên cứu 4.1 Nguồn tư liệu - Nguồn tư liệu thành văn: Bao gồm các công trình nghiên cứu và các tác phẩm viết về nguồn gốc cộng đồng dân tộc, những nét văn hoá truyền thống đặc sắc, lí luận về dân tộc; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của BCH Trung ương Đảng khóa VII; Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương xuất bản…Các tác phẩm thông sử và sách chuyên khảo... Các bài viết về kinh tế, văn hoá của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên. - Nguồn tư liệu thực địa và điền dã: Bao gồm sự quan sát cảnh quan, phỏng vấn cán bộ lãnh đạo xã, Trưởng thôn, Trưởng bản, thầy cúng, thầy thuốc, nông dân...để tìm hiểu đời sống kinh tế và văn hoá của tộc người Mông ở Võ Nhai. 4.2 Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgíc là chủ yếu. Bằng phương pháp lịch sử, dựa trên những nguồn tư liệu chọn lọc, trình bày hệ thống quá trình di cư, xây dựng đời sống kinh tế - văn hóa của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai. Trên cơ sở phân tích các sự kiện, hiện tượng lịch sử đưa ra những nhận xét, đánh giá những thành tựu, hạn chế trong đời sống kinh tế của đồng bào và dề ra những giải pháp thiết thực. 7
  13. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp liên ngành khác, như phương pháp điền dã dân tộc học, chủ yếu là phương pháp quan sát xã hội và phỏng vấn sâu. Trong quá trình đi thực địa, tác giả có dịp quan sát cuộc sống sinh hoạt cũng như tập tục và cách thức chăn nuôi, làm nương rẫy của đồng bào Mông tại các xã Dân Tiến, Thượng Nung, Phương Giao, La Hiên; trực tiếp phỏng vấn những người lớn tuổi, có kinh nghiệm và hiểu biết về tập tục, văn hoá của người Mông ở địa phương. Từ đó, tiến hành so sánh đối chiếu để xác minh tính chân thực lịch sử của một tộc người ở một địa phương cụ thể. 5. Đóng góp của Luận văn - Đề tài là một trong những cơ sở để thực hiện mục tiêu phát triển dân trí, nâng cao chất lượng cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. - Đề tài góp phần giáo dục tư tưởng cho thế hệ trẻ cần phải trân trọng những giá trị văn hoá và tinh thần mà ông cha đã đúc kết được từ xưa đến nay. Đó là kho báu vô giá đối với mỗi con người Việt Nam. - Đề tài còn dùng làm tài liệu giảng dạy trong các trường phổ thông trên địa bàn huyện. 6. Cấu trúc của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, đề tài được cấu trúc thành 3 chương nội dung: Chương 1: Khái quát về tộc người Mông ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên. Chương 2: Đời sống kinh tế của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai từ năm 1975 đến năm 2015 Chương 3: Đời sống văn hóa của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai từ năm 1975 đến năm 2015 8
  14. Chƣơng 1 KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN 1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên Võ Nhai là huyện vùng cao nằm ở khu vực Đông Bắc tỉnh Thái Nguyên, cách thành phố Thái Nguyên khoảng 38km theo Quốc lộ 1B. Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 83.923,14 ha, địa hình phức tạp chủ yếu là đồi núi dốc và núi đá vôi; phía bắc giáp huyện Nà Rì (tỉnh Bắc Kạn), phía đông giáp huyện Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn), phía nam giáp huyện Yên Thế (tỉnh Bắc Giang), phía tây giáp huyện Đồng Hỷ (tỉnh Thái Nguyên). Huyện Võ Nhai thời thuộc Đường là huyện Vũ Lễ. Sang thời Lý - Trần (thế kỉ X - XIV), gọi là châu Vạn Nhai. Thời thuộc Minh (1407-1427), đổi thành châu Vũ Lễ. Đầu thời nhà Lê sơ, Vũ Lễ đổi thành huyện Võ Nhai, thuộc phủ Phú Bình, do phiên thần họ Ma nối đời cai quản. Đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836), huyện Võ Nhai gồm 8 tổng và 29 xã, trại, cai trị theo chế độ lưu quan. Đời Đồng Khánh (1886 - 1888), huyện Võ Nhai gồm 8 tổng, 28 xã, trại. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, huyện Võ Nhai được đổi thành châu Võ Nhai, gồm 6 tổng với 22 xã, 1 phố và 5 trại. Ngày 25/3/1948, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí Sắc lệnh số 148/SL quy định bãi bỏ các danh từ phủ, châu, quận; cấp trên xã và cấp dưới tỉnh tỉnh thống nhất gọi là cấp huyện. Từ đó, châu Võ Nhai được đổi thành huyện Võ Nhai, gồm 14 xã. Năm 1965, Thái Nguyên sáp nhập với Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái, Võ Nhai thành huyện của tỉnh Bắc Thái. Năm 1997, Bắc Thái tách thành 2 tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên, Võ Nhai trở thành huyện của tỉnh Thái Nguyên. Ngày nay, huyện Võ Nhai có 15 đơn vị hành chính gồm thị trấn Đình Cả và 14 xã: Sảng Mộc, Nghinh Tường, Thần Sa, Thượng Nung, Vũ Chấn, Cúc Đường, La Hiên, Lâu Thượng, Phú Thượng, Tràng Xá, Liên Minh, Phương Giao, Liên Minh, Bình Long và Dân Tiến. 9
  15. Địa hình Võ Nhai được chia thành 3 vùng rõ rệt: - Vùng núi cao, gồm 6 xã: Nghinh Tường, Sảng Mộc, Thượng Nung, Cúc Đường, Thần Sa, Vũ Chấn, có đất rừng đa dạng với tập đoàn cây, con phong phú, tạo nên cảnh đẹp tự nhiên. Nơi đây có khối núi đá vôi Thượng Nung đồ sộ nhất tỉnh Thái Nguyên, rộng tới 300 km2, độ cao từ 500 đến 600 mét, kéo dài từ Thần Sa qua Nghinh Tường, đến Liêm Thuỷ (huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn). - Vùng thấp, gồm 3 xã La Hiên, Lâu Thượng, Phú Thượng và thị trấn Đình Cả, có địa hình tương đối bằng phẳng, được tạo nên bởi những thung lũng chạy dọc theo Quốc lộ 1B, hai bên là hai dãy núi cao có độ dốc lớn. - Vùng gò đồi, gồm 5 xã: Tràng Xá, Liên Minh, Dân Tiến, Bình Long và Phương Giao, có nhiều đồi đất hình bát úp, bị chia cắt bởi các dòng sông, khe suối và xen lẫn núi đá vôi. Thời trước, Võ Nhai nổi tiếng là nơi rừng thiêng nước độc. Sách Đồng Khánh địa dư chí, viết: “Trong huyện rừng núi liên tiếp, khí núi nặng nề. Khí trời nhiều lạnh rét. Khí đất ẩm thấp. Cuối xuân trời vẫn còn lạnh, mùa hè thì chỉ hơi nóng, đầu thu đã bắt đầu lạnh, đến mùa đông thì rét đậm. Hằng ngày khoảng trước giờ Tỵ, sau giờ Thân thì không nhìn thấy núi”. Võ Nhai mang đặc điểm chung của khí hậu miền núi Bắc Bộ, nhưng có phần khắc nghiệt hơn. Trong năm có hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình hằng năm khoảng 23oC. Chế độ nhiệt này tạo cho Võ Nhai có thế mạnh trong việc phát triển các loại cây trồng nhiệt đới, cận nhiệt đới, nhất là các loại cây ăn quả như vải, na, bưởi...Lượng mưa trung bình hằng năm 1.941,5 mm và phân bổ không đều, chủ yếu tập trung vào các tháng mùa mưa, khoảng 1.765 mm (chiếm 91% tổng lượng mưa cả năm) [33]. Huyện Võ Nhai có mật độ song, suối khá lớn, nhưng phân bố không đều. Ngoài nguồn nước mặt từ sông, suối, còn có các mạch nước ngầm. Võ Nhai có 10
  16. hai con sông nhánh thuộc hệ thống sông Cầu và sông Thương, được phân bố ở khu vực phía Bắc và phía Nam huyện. Sông Nghinh Tường có chiều dài 46 km, bắt nguồn từ những dãy núi của vòng cung Bắc Sơn (Lạng Sơn), chảy qua các xã Nghinh Tường, Sảng Mộc, Thượng Nung, Thần Sa, rồi đổ ra sông Cầu. Khoảng 40% chiều dài dòng chảy là vùng đá vôi, thung lũng thường hẹp và sâu, vách đá dựng đứng. Sông Rong bắt nguồn từ xã Phú Thượng, chảy qua thị trấn Đình Cả, Tràng Xá, Dân Tiến, Bình Long, sang địa phận tỉnh Bắc Giang và đổ về sông Thương. Trong lòng đất có các mỏ chì, kẽm ở Thần Sa với quy mô, trữ lượng nhỏ, không tập trung; vàng ở Thần Sa, Sảng Mộc, Liên Minh; phốt pho ở La Hiên (trữ lượng khoảng 60.000 tấn). Ngoài ra, còn có đá xây dựng, cát, sỏi, sét xi măng ở La Hiên, Cúc Đường... Huyện Võ Nhai có những thắng cảnh nổi tiếng, như quần thể hang động Phượng Hoàng, suối Mỏ Gà, hang Nà Kháo, hang Huyền. Ngoài ra, Võ Nhai còn có những di tích lịch sử, văn hoá như mái đá Ngườm, rừng Khuôn Mánh... 1.2. Nguồn gốc tộc ngƣời 1.2.1. Khái quát về tộc ngƣời Mông trƣớc khi đến huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên Tộc người Mông là một trong 54 thành phần dân tộc Việt Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh thành của cả nước; chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Điện Biên, Sơn La. Theo số liệu cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, Việt Nam có 1.068.189 người thuộc tộc người Mông, đứng thứ 8 trong bản danh sách các dân tộc ở Việt Nam. Các nhà nghiên cứu dân tộc học đều có ý kiến cho rằng, phần lớn tộc người Mông di cư vào Việt Nam từ Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam (Trung Quốc), sớm nhất khoảng 350 năm và muộn nhất là 100 năm về trước, theo 3 đợt lớn. Đợt thứ nhất, cách đây trên 300 năm, người Mông từ Quý Châu di cư 11
  17. sang Đồng Văn, Mèo Vạc của tỉnh Hà Giang. Cuộc thiên di này được dân ca Mông ghi lại: Người HMông ta ở Qúi Châu đến/ Vì người HMông ta không biết chữ/ Thua kiện người Hán ta mới đi. Đợt thứ hai, cách ngày nay khoảng 200 năm, sau thất bại của phong trào khởi nghĩa của người Mông ở Quý Châu (1776 - 1820). Họ vào theo hai hướng chính: Một hướng tiếp tục tràn vào cao nguyên Đồng Văn rồi đi sang Bảo Lạc (Cao Bằng), Bắc Mê, Xín Mần, Hoàng Su Phì (Hà Giang); một hướng vào vùng đất Xi Ma Cai và Mường Khương rồi xuống Văn Bàn (Lào Cai), Phong Thổ, Sìn Hồ, Điện Biên (Lai Châu). Đợt thứ ba là cuộc thiên di lớn nhất cách đây khoảng từ 120 đến 160 năm. Từ Phong Thổ (Lai Châu), Xi Ma Cai và Mường Khương (Lào Cai), họ đi sâu vào vùng Tây Bắc, đến Tủa Chùa, Tuần Giáo (Lai Châu), Thuận Châu, Sông Mã (Sơn La). Một bộ phận từ Mù Căng Chải sang Bắc Yên, Phù Yên rồi xuống vùng núi Mộc Châu (Sơn La) và điểm dừng cuối cùng là vùng núi Tây Thanh Hóa. Cũng trong thời gian này, một nhóm người Mông ở Xiêng Khoảng (Lào) đã tràn vào vùng núi Thanh - Nghệ và cư trú tập trung ở huyện Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An. Quá trình di cư của tộc người Mông luôn mang tính dòng họ và lịch sử di cư của tộc người này luôn gắn liền với lịch sử di cư của các dòng họ. Thậm chí, chỉ cần nghe bài cúng “Chỉ đường” cho người chết về với tổ tiên của các dòng họ là ta có thể biết nguồn gốc của họ bắt đầu từ nơi nào (bởi lẽ đơn giản, thầy cúng của các dòng họ bao giờ cũng cúng đưa hồn người chết của dòng tộc qua các miền đất mà họ đã sinh sống, đến tận vùng đất cuối cùng mà họ còn nhớ, và từ đó hồn người chết mới lên trời về “đất tổ tiên”). Không chỉ tộc người Mông ở cao nguyên Đồng Văn mà nhiều nhóm Mông từ biên giới đến nội địa, từ Đông Bắc sang Tây Bắc Việt Nam đều nhớ cái tên Pàn Tầu Làng. Điều đó chứng tỏ địa danh này gắn bó chặt chẽ với lịch sử di cư của nhiều nhóm tộc người Mông ở Việt Nam. Nếu giai đoạn di cư thứ nhất và thứ hai là quá trình hình thành những vùng tộc người Mông chính ở Việt Nam, thì đến giai đoạn ba, những vùng có tộc người Mông tiếp tục được củng cố và trở nên khá ổn 12
  18. định như ngày nay. Quá trình di cư của tộc người này vào Việt Nam thể hiện rõ niềm mong ước to lớn của họ là tìm được mảnh “đất lành” để sinh sống. Tộc người Mông đã coi nơi này như quê hương mới của mình. Trước khi di cư đến Việt Nam, người Hán gọi người Mông là Mèo. Tộc danh Mèo theo âm Hán - Việt là Miêu. Đây là một tộc người sớm biết trồng lúa nước ở vùng hồ Bành Lãi và hồ Động Đình (Trung Quốc), dần dần trở thành tên gọi chính thức. Theo truyền thuyết, tổ tiên của tộc người Mông đã ở vùng Bành Lãi (Giang Tây) và Động Đình (Hồ Nam) ở Trung Quốc từ hàng nghìn năm trước Công nguyên. Trong suốt hàng chục thế kỉ, tộc người Mông di cư theo hướng tây - tây nam, tập trung đông ở Hồ Nam, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây và trung tâm là Quý Châu. Người Mông vốn có gốc gác là những cư dân trồng lúa nước. Tên gọi Miêu theo Hán tự trên có bộ thảo là cây cỏ, dưới có chữ điền là ruộng phần nào khẳng định tộc người Mông có nguồn cội cư trú ở lưu vực các con sông với nghề trồng lúa nước. Văn học dân gian của tộc người Mông cũng luôn nhắc tới ruộng, trâu, sông nước,... như một sự phản ánh quá khứ họ từng sinh sống ở những vùng đất đai có sông ngòi và làm nhiều ruộng như một ước mơ, như một sự phản ánh hiện thực xa xưa với một sự luyến tiếc, hàm chứa sự so sánh giữa quá khứ và thực tại. Cũng theo truyền thuyết thì xưa kia, tộc người Mông cũng có một quốc gia riêng với biểu tượng là hình đôi sừng trâu và màu cờ đỏ. Ngày nay, một số vùng tộc người Mông ở Hà Giang, Lào Cai vẫn ít nhiều còn để lại những dấu ấn ấy qua các phong tục, biểu hiện cụ thể ở tấm vải đỏ treo trước cửa nhà; người chết không phân biệt già trẻ đều có tấm vải đỏ che miệng; hình bộ sừng trâu dùng làm chốt cửa trên hai cánh cửa chính của mỗi nhà. Với hơn 300 năm di cư đến nước ta, tộc người Mông đã tự khai sơn phá thạch dựng nên làng bản và trở thành một thành viên của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đồng bào đã sát cánh kề vai cùng các tộc người láng giềng đổ mồ hôi và xương máu để giữ gìn và bảo vệ chủ quyền Quốc gia Việt Nam của 13
  19. mình. Dải cao nguyên Đồng Văn - Mèo Vạc, nơi có tộc người Mông sống tập trung đông nhất, nơi còn lưu giữ được những yếu tố văn hóa cổ truyền nhất xứng đáng được coi là trung tâm văn hóa truyền thống của tộc người Mông ở Việt Nam và Đông Nam Á. Khi di cư vào Việt Nam, người Mông vẫn mang theo tên gọi quen thuộc của mình là Mèo. “Đến tháng 3 năm 1979, trên cở sở kết quả điều tra nghiên cứu, có tham khảo ý kiến của các đại biểu người Mèo, theo đề nghị của Ủy ban Dân tộc của Chính phủ, danh mục thành phần 54 dân tộc ở Việt Nam được chính thức công bố thay cho danh mục cũ gồm 62 dân tộc. Từ đó đến nay, dân tộc Mèo ở Việt Nam được gọi là H’Mông. Tuy nhiên, theo bảng danh mục đó, tộc danh Mèo vẫn có giá trị pháp lí như H’Mông” [4]. Nhưng “Do sự phát âm khó khăn, từ năm 1992 đến nay, Nhà nước ta thống nhất phiên âm tên gọi của đồng bào là “Mông” và dùng cách viết “Mông” thay cho “H’Mông” [4, 28]. Sau đó, ngày 4/12/2001, Hội đồng Dân tộc của Quốc hội (khóa X) ban hành Công văn số 09-CV/HĐDT về vấn đề đọc và ghi đúng tên gọi các dân tộc. Công văn ghi rõ: “Tên gọi dân tộc Mông, nếu viết bằng chữ phổ thông là ngôn ngữ chính thức của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì viết là dân tộc Mông”. Ở Việt Nam, tộc người Mông thường cư trú ở độ cao từ 800m đến 1500 m so với mực nước biển, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào [33]. Những xóm làng của tộc người Mông, tiếng Mông gọi là “Giao” (Jaol), nơi tập trung đông cũng chỉ vài chục nóc nhà, còn phần nhiều lẻ tẻ, thường ở trên các triền núi hoặc cao nguyên. Khí hậu mát mẻ về mùa hè, nhưng cũng hết sức giá lạnh về mùa đông. Điều kiện đi lại, giao lưu rất khó khăn. Nước phục vụ cho sinh hoạt thiếu thốn, thậm chí là khan hiếm. Cho nên, tộc người Mông giỏi canh tác nương rẫy hơn làm ruộng nước. Ở những nơi chỉ toàn núi đá như Mèo Vạc (Hà Giang), người dân đưa đất từ nơi khác tới, đổ vào những hốc đá để tra ngô. Sống trên các vùng cao quanh năm sương phủ, sự hẻo lánh làm 14
  20. cho đời sống xã hội Mông chậm phát triển; kinh tế hoàn toàn mang tính chất tự cấp, tự túc, lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Chính vì hoàn cảnh sống vất vả và khó khãn nên phần lớn đồng bào Mông sống du canh, du cư hoặc đã định cư nhưng còn du canh. Ngày nay, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cùng với sự nỗ lực của mình, cuộc sống của tộc người Mông đã có những cải thiện đáng kể. Lịch sử của người Mông ở Việt Nam là lịch sử của những cuộc thiên di, là một bản trường ca đầy bi tráng, mỗi thế hệ đồng bào đã viết lên trang sử đau thương và hào hùng của tộc người mình. Lịch sử đau thương và hào hùng cùng với điều kiện sống khắc nghiệt đã hun đúc thành một diện mạo tâm hồn người Mông với bản lĩnh can trường, dũng cảm, chai sạn tới chắc nịch như đá núi với một sức chịu đựng dỏe dai. 1.2.2. Tộc ngƣời Mông ở huyện Võ Nhai (1975 - 2015) Theo số liệu điều tra của Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, Võ Nhai có 14 xã, 1 thị trấn với số dân (tính đến năm 2015) là 68.518 khẩu thuộc 8 thành phần dân tộc anh em cùng chung sống. Trong đó: Dân tộc Kinh chiếm 32,1%, Tày: 22,7%, Nùng: 20,2%, Dao: 14,1%, Mông: 6,2%, Sán Chay: 4,3%, Sán Dìu: 0,3%, Mường: 0,1% [14, 19]. Năm 1975, có 9 hộ tộc người Mông, gồm 53 nhân khẩu, di cư về Võ Nhai, cư trú thành bản riêng tại các xã Thượng Nung, Dân Tiến. Năm 1979, bên cạnh việc phục vụ nhiệm vụ chiến đấu, huyện Võ Nhai thành lập Ban Phòng không sơ tán và hậu cần do đồng chí Lâm Văn Thơ (Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện làm Trưởng ban); đồng thời còn thành lập Ban Đón tiếp nhân dân các tỉnh biên giới phía Bắc và hướng dẫn nhân dân địa phương sơ tán khi chiến tranh xảy ra. Đặc biệt, đối với 174 hộ (1.327 khẩu) đồng bào Mông sơ tán từ tỉnh Cao Bằng về định cư trên địa bàn huyện, Huyện ủy chỉ thị cho các xã: “Cần tạo mọi điều kiện giúp đỡ đồng bào ổn định đời sống. Hạn chế đến mức thấp nhất các mặt tiêu cực có thể xảy ra như di chuyển ra đình đi khắp nơi 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2