intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Chia sẻ: Tomhum999 Tomhum999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

32
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở khoa học của hoạt động quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội; vận dụng trong quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; đề xuất các giải pháp hoàn thiện nội dung quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của nhà nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HUỲNH THỊ THẢO TRANG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG ĐẮK LẮK, NĂM 2017
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HUỲNH THỊ THẢO TRANG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG MÃ SỐ: 60 34 04 03 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS TS. ĐẶNG KHẮC ÁNH ĐẮK LẮK, NĂM 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Nội dung nghiên cứu và kết quả trình bày trong Luận văn là trung thực. Dữ liệu sử dụng trong Luận văn đều dựa trên kết quả sưu tầm chọn lọc và các tài liệu tham khảo tin cậy đã được liệt kê tại Danh mục tài liệu tham khảo. Đắk Lắk, ngày 15 tháng 9 năm 2017 Tác giả Huỳnh Thị Thảo Trang
  4. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập và làm luận văn tốt nghiệp cao học, được sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo Học viện Hành chính Quốc gia và Phân viện Khu vực Tây Nguyên, đặc biệt là PGS TS. Đặng Khắc Ánh, sự tham gia góp ý của bạn bè, đồng nghiệp cùng với sự nỗ lực của bản thân. Đến nay, tác giả đã hoàn thành luận văn thạc sĩ với đề tài: Quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô tại Học viện Hành chính Quốc gia và Phân viện Khu vực Tây Nguyên đã giúp tôi hoàn chỉnh kiến thức cần thiết của Khóa Cao học Quản lý công. Xin cảm ơn lãnh đạo Sở Nội vụ đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi để theo Khóa học. Xin cảm ơn các anh, chị, em đồng nghiệp tại phòng Tổ chức, biên chế - Sở Nội vụ đã hỗ trợ, giúp tôi trong quá trình công tác, học tập và thực hiện Luận văn. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến PGS TS. Đặng Khắc Ánh - người Thầy trực tiếp hướng dẫn đã tận tình giúp đỡ với tinh thần trách nhiệm cao nhất, đồng thời luôn động viên tinh thần trong thời gian tôi thực hiện và hoàn thành Luận văn này. Tôi cũng đặc biệt cảm ơn gia đình tôi và những người bạn thân thiết của tôi đã luôn động viên, tạo điều kiện thuận lợi nhất để tôi theo đuổi việc học tập và thực hiện Luận văn. Xin được trân trọng tất cả những ý kiến nhận xét của Quý Thầy, Cô, đồng nghiệp, các bạn và tất cả những người quan tâm. Tác giả Huỳnh Thị Thảo Trang
  5. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 41 Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC HỘI 8 1.1 Một số khái niệm cơ bản .................................................................... 8 1.2 Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội 15 1.3 Nội dung, phương thức quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội............................................................................................... 20 1.4 Kinh nghiệm quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội 25 Tiểu kết Chương 1................................................................................ 34 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK 37 2.1 Khái quát hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 37 2.2 Thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ................................................................................ 48 2.3 Đánh giá kết quả quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............................................................ 55 Tiểu kết Chương 2 ............................................................................ 60 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK 62 3.1 Phương hướng quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk .............…………………………….......... 62 3.2 Giải pháp quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ......................................................................... 67 3.3 Khuyến nghị ....................................................................................... 72 Tiểu kết Chương 3 ................................................................................ 74 KẾT LUẬN .................................................................................................... 76 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 78 PHỤ LỤC
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Các hội quần chúng là những nhân tố tích cực trong hệ thống chính trị của nước ta. Hoạt động của các hội đã và đang góp phần tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước, các hội càng có nhiều thuận lợi để hoạt động và phát triển đa dạng, phong phú hơn, cùng toàn dân phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, các tổ chức hội quần chúng ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng về loại hình tổ chức, mục tiêu, tôn chỉ và phương thức hoạt động. Tính đến cuối năm 2016, cả nước có 52.565 hội; riêng tỉnh Đắk Lắk có 939 hội, trong đó cấp tỉnh 64 hội, cấp huyện 197 hội; cấp xã 678 hội [28]. Các hội ngày càng phát huy vai trò, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk trên nhiều phương diện: tập hợp, phản ánh yêu cầu, nguyện vọng cũng như bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của quần chúng nhân dân; tham gia có hiệu quả vào việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa; giám sát, tư vấn và phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của nhà nước; huy động các nguồn lực để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần giải quyết những khó khăn về kinh tế - xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, tăng cường sự hiểu biết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong việc giải quyết các vấn đề có tính chất toàn cầu. Các tờ báo và tạp chí, bản tin do hội là cơ quan chủ quản đã tích cực cung cấp thông tin, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của nhà nước và góp phần thực hiện giám sát, phản biện xã hội. 1
  7. Công tác quản lý nhà nước về hoạt động các tổ chức hội được đổi mới: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hội tương đối đầy đủ và tiếp tục được bổ sung, cụ thể hóa; hoạt động quản lý nhà nước đổi mới theo hướng tạo điều kiện cho các hội thành lập đúng quy định và hỗ trợ hội hoạt động. Cùng với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hội được xây dựng đã tạo cơ sở pháp lý để tổ chức, công dân Việt Nam thành lập hội, tham gia hoạt động hội và có nhiều đóng góp trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội cũng như quy định cơ chế, chính sách để các hội hoạt động ngày càng hiệu quả, đúng định hướng. Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, thường xuyên, kịp thời của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp tăng cường công tác quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở, ban, ngành và chính quyền các cấp đối với tổ chức và hoạt động của hội quần chúng trên địa bàn tỉnh đã tạo được nền nếp trong trình tự, thủ tục giải quyết công việc của các tổ chức hội. Tuy vậy, hiện nay vẫn còn một số hạn chế trong quản lý nhà nước đối với hội như: Trình tự, thủ tục thành lập hội qua nhiều công đoạn, điều kiện khắt khe (phải có trụ sở, phải có đủ số lượng người...) là một trong những yếu tố làm hạn chế quyền lập hội của công dân. Quy định các hội có tính chất đặc thù được hưởng một số quyền “đặc thù” như: tham gia xây dựng cơ chế, chính sách; thực hiện một số hoạt động quản lý nhà nước, dịch vụ công; tư vấn, phản biện và giám định xã hội; được cấp kinh phí hoạt động theo số biên chế được giao; bảo đảm kinh phí để thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao và hỗ trợ cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động,... trong nhiều trường hợp có thể gây ra tình trạng thiếu công bằng giữa các hội và dễ dẫn đến xu hướng “hành chính hóa” tổ chức hội. Quy định chế độ thù lao đối với người đã nghỉ hưu giữ chức danh lãnh đạo chuyên trách tại các hội dẫn đến bất cập đối với các đối tượng khác giữ chức danh lãnh đạo chuyên trách hội. Một số hội được thành lập nhưng không hoạt động hoặc chỉ hoạt động “cầm chừng” nhưng cơ 2
  8. quan quản lý nhà nước chuyên ngành không quản lý được. Quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức hội là một nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước của tỉnh Đắk Lắk nhằm phát huy tính tích cực của các tổ chức hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đây cũng là một nội dung thiết thực góp phần thực hiện cụ thể đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước trong việc hỗ trợ các tổ chức hội hoạt động hiệu quả. Với lý do đó, tôi chọn Đề tài “Quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo Cao học chuyên ngành Quản lý Công. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hiện đã có một số đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan đến quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức phi chính phủ và tổ chức hội như: - “Vị trí, vai trò các hiệp hội quần chúng ở nước ta” (1996), Nxb Lao động của tác giả Nguyễn Khắc Mai, nghiên cứu một số vấn đề về khái niệm cơ bản, tính chất, vai trò các hiệp hội quần chúng và quan hệ Đảng và nhà nước với các hiệp hội quần chúng. Trong đó, tác giả cho rằng các tổ chức quần chúng có bốn vai trò chính: tham gia bảo vệ và phát triển xã hội, quan tâm tới quyền lợi của thành viên, tự giáo dục và quy định xã hội [18]. - “Vai trò của các hội trong đổi mới và phát triển đất nước” (2002), Nxb Chính trị Quốc gia của tác giả Thang Văn Phúc, nghiên cứu đặc điểm, vai trò của các hội ở Việt Nam và hoạt động của các Hội Trung ương, các chi hội địa phương, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài và sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động của các hội và các tổ chức phi Chính phủ trong đổi mới và phát triển đất nước [19]. - “Quản lý nhà nước đối với tổ chức phi chính phủ” (2002), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, của tác giả Phạm Kiên Cường, cung cấp những lý luận cơ bản về tổ chức phi chính phủ và quản lý tổ chức phi chính phủ, trên cơ sở 3
  9. đó làm phương pháp luận để nghiên cứu các vấn đề thực tiễn về quản lý nhà nước đối với tổ chức phi chính phủ [8]. Liên quan đến quản lý nhà nước đối với các hội quần chúng ở các góc độ khác nhau, một số Luận văn thạc sĩ cũng đã triển khai nghiên cứu về vấn đề này như: - “Hoàn thiện nội dung quản lý nhà nước đối với các hội quần chúng ở nước ta hiện nay” (luận văn Cao học Quản lý hành chính công (2006), Học viện Hành chính Quốc gia) của tác giả Ngô Anh Tuấn, làm rõ thực trạng nội dung quản lý nhà nước và những giải pháp hoàn thiện nội dung quản lý nhà nước đối với các hội quần chúng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay [24]. - “Quản lý nhà nước đối với các tổ chức hội quần chúng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận” (luận văn Cao học Quản lý hành chính công (2008), Học viện Hành chính Quốc gia) của tác giả Đỗ Thái Dương, tập trung giải quyết vấn đề xóa bỏ tình trạng “nhà nước hóa” các tổ chức hội quần chúng và hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức hội quần chúng trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, qua đó thúc đẩy sự tham gia của các tổ chức hội quần chúng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương [9]. - “Quản lý nhà nước đối với Hội có tính chất đặc thù trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận” (luận văn Cao học Quản lý hành chính công (2013), Học viện Hành chính Quốc gia) của tác giả Nguyễn Văn Thọ, nghiên cứu về thực trạng hoạt động của các hội có tính chất đặc thù và các giải pháp, phương hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hội có tính chất đặc thù trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận [23]. Tuy nhiên, vẫn chưa có đề tài nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Do đó, đề tài nghiên cứu “Quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” là nghiên cứu mới để đánh giá 4
  10. đúng thực trạng của hoạt động quản lý nhà nước và đề ra các giải pháp, chính sách đúng đắn và phù hợp nhằm quản lý các tổ chức hội hoạt động đúng quy định pháp luật, đường lối, chủ trương của Đảng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội của công dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, tác giả đề xuất các giải pháp hoàn thiện nội dung quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của nhà nước. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích này, Luận văn đưa ra 03 nhiệm vụ nghiên cứu sau: Một là, khái quát cơ sở khoa học quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội. Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Ba là, đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện nội dung quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong những năm tiếp theo. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: hoạt động quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội theo quy định của pháp luật. - Về không gian: đề tài nghiên cứu, điều tra hoạt động trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. - Về thời gian: tập trung vào phân tích, đánh giá trong giai đoạn 2012 - 2016. 5
  11. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, dựa trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trong thời kỳ đổi mới. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn: nghiên cứu cơ sở khoa học quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội và thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; - Phương pháp phân tích: phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016; - Phương pháp so sánh: so sánh công tác quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội ở một số địa phương, từ đó rút ra một số kinh nghiệm đối với tỉnh Đắk Lắk; - Phương pháp lập bảng, biểu: lập một số biểu đồ minh họa tình hình số lượng các tổ chức hội và kinh phí hoạt động của các tổ chức hội giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Về lý luận Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở khoa học của hoạt động quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội; vận dụng trong quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 6.2. Về thực tiễn Phân tích thực trạng hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh 6
  12. Đắk Lắk thời gian qua. Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Phân tích phương hướng và đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới. Kết quả nghiên cứu của tác giả có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong học tập, giảng dạy, nghiên cứu môn học Quản lý nhà nước đối với tổ chức phi Chính phủ trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội quần chúng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bảng, biểu, phụ lục; nội dung Luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội. Chương 2: Thực trạng hoạt động của các tổ chức hội và quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Phương hướng, giải pháp quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 7
  13. Chƣơng 1 CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC HỘI 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm về hội Khái niệm “hội” được thế giới xem xét, nhìn nhận là một trong những thành tố của xã hội dân sự trong mối quan hệ với nhà nước, thị trường, được thể hiện một cách phổ quát. Pháp là một trong những quốc gia có luật về hội sớm nhất , tại Điều 1 Luật về Hội ngày 01/7/1901 của Pháp đưa ra định nghĩa: “Hội là hợp đồng giao kết hai hoặc nhiều người cùng đóng góp, bằng kiến thức và sinh hoạt thường xuyên, vào việc thực hiện một mục đích không phải là mục đích để chia lời. Về mặt hiệu lực, hiệp hội được điều chỉnh bởi các nguyên tắc chung của pháp luật áp dụng cho hợp đồng và trái vụ” [22]. Một số quốc gia hiện vẫn sử dụng luật dân sự để điều chỉnh các hội (như Thái Lan, Hà Lan, Italia…) vì coi hội cũng chỉ là một chủ thể của đời sống dân sự. Chẳng hạn, Điều 1274 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan đưa ra định nghĩa: “Hợp đồng thành lập hội liên hiệp là một hợp đồng, qua đó, nhiều người thoả thuận hợp nhau lại để cùng tiến hành một hoạt động chung ngoài mục đích chia lời” [21]. Theo nghiên cứu của Viện nghiên cứu chính sách của trường Đại học Johns Hopkins ở khoảng 40 quốc gia trên thế giới, bao gồm cả các nước phát triển và các nước đang phát triển trong thời kỳ 1995-1998, cho rằng các tổ chức hội và xã hội dân sự chiếm vị trí quan trọng cả về kinh tế, chính trị xã hội và thể chế trên thế giới. Theo quan điểm của tổ chức này, ngoài các định nghĩa về mặt luật pháp của các quốc gia khác nhau về hội (theo tài liệu gốc tiếng Anh là cụm từ “civil society organisation” - tổ chức xã hội dân sự), có 2 cách nhìn nhận về 8
  14. các tổ chức hội cần xem xét: Một là, dựa vào nguồn tài chính của các tổ chức này. Nguồn tài chính của các tổ chức hội chủ yếu là đóng góp cá nhân không phải do các giao dịch từ thị trường hay từ ngân sách nhà nước. Theo khái niệm này, các đặc điểm của các tổ chức hội như tính tự nguyện và tính phi lợi nhuận không được nhấn mạnh. Hai là, theo chức năng tổ chức, hội có các đặc trưng như sau: - Có cấu trúc và tổ chức hoạt động thường xuyên cho dù có được đăng ký chính thức hay không. Nghĩa là hội bao gồm cả các tổ chức phi chính thức, nằm ngoài khu vực nhà nước và thị trường. - Có thể nhận tiền từ nhà nước, nhưng không phải là một bộ phận của nhà nước. - Không vì mục tiêu lợi nhuận: hội có thể làm ra lợi nhuận nhưng không để phân phối cho cá nhân như chủ sở hữu, giám đốc. - Tự quản nghĩa là hội có quyền tự xây dựng cơ chế hoạt động, tự chấm dứt hoạt động và kiểm soát các vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của hội. - Tự nguyện: tham gia làm thành viên của hội là hoàn toàn tự nguyện không theo đòi hỏi của pháp luật hoặc cưỡng chế bởi bất cứ ai. Theo cách nhìn nhận này, hội sẽ không bao hàm các đảng phái chính trị [21]. Ở Việt Nam, nhận thức về hội hiện nay còn nhiều tranh luận, chưa thực sự thống nhất. Trong một thời gian dài, cùng với khái niệm “Xã hội dân sự”, hội được coi là vấn đề khá nhạy cảm, nên chưa được nghiên cứu, tìm hiểu đầy đủ. Điều này dẫn đến những cách nhìn phiến diện, thiếu tích cực về vị trí, vai trò của hội trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về hội trong bối cảnh đất nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ xã hội và hội nhập quốc tế, nhất là triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 là điều cần thiết. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu và các nhà quản lý đều cho rằng hội là một trong những thành tố của “Xã hội dân sự”. Vì vậy, việc nghiên cứu khái niệm về hội cũng như các vấn đề liên quan đến hội cần phải đặt trong tổng thể 9
  15. của một tập hợp các chủ thể xã hội dưới khái niệm chung là “Xã hội dân sự”; đồng thời cần xem xét quan hệ của “hội” với tư cách là một thành tố trong “Xã hội dân sự” với các thành tố khác. Do đó có thể thấy rằng, việc đưa ra khái niệm về hội hết sức khó khăn, do những đặc thù như sau: Thứ nhất, về mặt ngôn ngữ, hội là từ được quen dùng ở Việt Nam để chỉ các tổ chức quần chúng, khi mà trong các văn bản của Đảng và các sách báo xuất bản trước đây chúng ta vẫn thường thấy xuất hiện cụm từ “hội quần chúng”. Dịch ra tiếng Anh, hội sẽ tương đương với “Association”, nhưng khi tìm hiểu khái niệm này nội hàm của hội theo cách hiểu ở Việt Nam không đồng nhất với nội hàm của khái niệm “Association”. Trong khi đó, các nước trên thế giới khi nói đến khu vực xã hội dân sự, người ta thường nhắc tới tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, dù ở mỗi quốc gia có cách định nghĩa và diễn giải khác nhau. Thứ hai, về cách tiếp cận khái niệm, hội được thế giới xem xét, nhìn nhận là một trong những thành tố của “Xã hội dân sự” trong mối quan hệ với nhà nước, thị trường. Trong khi đó, ở nước ta, hội được coi là một trong những thành tố của hệ thống chính trị, bao gồm: Đảng, nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng. Với nhận thức như trên, hội theo cách hiểu của ở Việt Nam không bao gồm các nhóm và tập thể tự nguyện khác do nhân dân tự nguyện bột phát, tức thời lập ra (các nhóm đó không có điều lệ, không có đóng góp vật chất, sức lực, trí tuệ, không có hệ thống tổ chức thống nhất, cố kết không chặt chẽ và không thường xuyên hành động). Trong khi đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 tổ chức quần chúng trực thuộc (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) cũng là các hội quần chúng tự nguyện, nhưng được tổ chức theo các nguyên tắc chặt chẽ hơn, quan hệ chặt chẽ và trực tiếp hơn với đảng cầm quyền, chịu sự lãnh đạo 10
  16. và chỉ đạo trực tiếp của đảng cầm quyền, làm nòng cốt trong mọi hoạt động và tổ chức của các hội quần chúng. Theo quan niệm của Việt Nam, hội không bao gồm đảng chính trị và các tổ chức tôn giáo. Hiện nay, Nghị định số 45/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội chỉ điều chỉnh đối với những hội có tư cách pháp nhân, có hội viên. Các tổ chức như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; các tổ chức giáo hội không thuộc sự điều chỉnh của quy định về hội [5]. Tuy nhiên, các tác giả Việt Nam vẫn chưa thực sự đồng thuận với quan niệm này của các nhà làm luật. Một số ý kiến cho rằng hội nên được hiểu bao gồm các quỹ, trung tâm, viện nghiên cứu... (trừ các quỹ, trung tâm do hội lập ra), các tổ chức phi chính phủ hay không? Trong khi có ý kiến cho rằng hội bao gồm cả hội có hội viên và hội không có hội viên (các quỹ, trung tâm, viện nghiên cứu...) thì hầu hết các ý kiến khác lại đề xuất khái niệm, đặc trưng của hội có thêm yếu tố là có hội viên. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về hội như sau: Hội là tổ chức liên kết tự nguyện của nhân dân với sự tham gia chính thức của ít nhất ba cá nhân hoặc tổ chức, hoạt động thường xuyên, không vì mục đích lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội, hội viên hoặc vì lợi ích công cộng. Hội bao gồm hội có tư cách pháp nhân và hội không có tư cách pháp nhân. Trên cơ sở các đặc điểm của hội, hội có bốn tính chất như sau: Một là, tính tự nguyện, bất kỳ hội nào được lập ra đều xuất phát dựa trên ý chí, nguyện vọng của mỗi cá nhân, tự do khỏi mọi sự ép buộc. Dấu hiệu đặc trưng này thể hiện quyền tự do của cá nhân trong việc tham gia hoặc không tham gia một tổ chức hội nhất định. Một tổ chức được thành lập do có sự ép buộc các cá nhân tham gia không thể được coi là tổ chức hội. Sau khi 11
  17. hội được thành lập, cá nhân, tổ chức có thể tự nguyện xin vào và cũng có thể tự nguyện xin ra khỏi hội. Tính chất tự nguyện còn được biểu hiện trong việc lựa chọn mục tiêu, nội dung hoạt động theo nguyện vọng, sở thích, sở trường của tập thể hội viên. Tính chất tự nguyện của hội chính là biểu hiện tính tích cực xã hội của các thành viên trong xã hội nhằm thực hiện nhu cầu, lợi cích của mình, biếu lộ sự đóng góp của mình với xã hội. Tính chất tự nguyện của hội bền vững tới mức độ trở thành một trong những nguyên tắc hoạt động nội bộ và hoạt động quan hệ đối ngoại của tất cả các hội. Nhờ tính chất này, các hội dễ liên hiệp với nhau, hợp tác với nhau và cũng dễ tách khỏi nhau khi không thống nhất nội dung phối hợp. Tính chất tự nguyện của hội cũng là một trong những sự khác biệt giữa nó với các tổ chức nhà nước. Hai là, tính tự quản, là biểu hiện của cách thức quản lý của mỗi tổ chức hội. Mô hình tổ chức tự quản được hiểu là các hội viên của hội tự quyết định cách thức quản lý của tổ chức mà mình tham gia thông qua Điều lệ của tổ chức, mà không có sự can thiệp từ bên ngoài, dù cho đó có thể là cơ quan nhà nước hoặc nhà tài trợ. Nói cách khác, các hội viên của hội tự quyết định những nội dung quản lý của tổ chức mình như: việc kết nạp thành viên, bầu ban lãnh đạo, quy trình ra quyết định, tôn chỉ mục đích hoạt động, phương thức hoạt động. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là nhà nước hoàn toàn đứng ngoài quá trình tổ chức và hoạt động của hội. Với chức năng duy trì trật tự công cộng, nhà nước luôn có mối quan tâm đối với việc đảm bảo quyền và tự do của mỗi hội viên khỏi mọi sự vi phạm có thể có từ phía tổ chức hội; đồng thời, đảm bảo sao cho tôn chỉ, mục đích hoạt động của hội phù hợp với trật tự công cộng, không xâm phạm tới quyền và tự do của các chủ thể khác trong xã hội. Do vậy, nhà nước dùng pháp luật định ra một số yêu cầu về nội dung cần phải có của Điều lệ, qua đó giúp nhà nước có được thông tin nhất định về công tác quản lý, tổ chức và hoạt động của mỗi tổ chức hội nhằm đáp ứng 12
  18. những mối quan tâm nêu trên của nhà nước. Ba là, tính không vì mục đích lợi nhuận, đây thực chất là đặc trưng phân biệt tổ chức hội với Nhà nước (là tổ chức hoạt động mang tính quyền lực công) và doanh nghiệp, công ty (là tổ chức hoạt động vì mục đích lợi nhuận). Các hoạt động của hội thường hướng tới một hoặc những mục tiêu: tương trợ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên; hoạt động vì cộng đồng, vì xã hội trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, như: y tế, giáo dục, môi trường,… - là những hoạt động bổ trợ, bổ sung vào những việc, những nơi mà năng lực và nguồn lực của nhà nước không đảm đương được; chia sẻ, hưởng thụ những giá trị văn hoá, nghệ thuật. Hội viên của hội không tham gia hội với ý định tìm kiếm lợi nhuận, mà hướng tới việc đáp ứng những nhu cầu của cá nhân và xã hội do họ lựa chọn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, hội là tổ chức không vì mục đích lợi nhuận, nhưng hội vẫn có thể có những hoạt động có lợi nhuận. Vấn đề quan trọng cần được xác định không phải là bản thân (hành vi) hoạt động có lợi nhuận, mà là ở chỗ lợi nhuận thu được được sẽ sử dụng như thế nào. Hội có thể thực hiện những hoạt động thu lợi nhuận, nhưng lợi nhuận đó khi thu về sẽ được sử dụng cho hoạt động của hội theo đúng điều lệ, mà không chia cho bất kỳ một cá nhân nào trong hội. Tất nhiên, trong quá trình hoạt động, một số hội viên đảm nhận một số nhiệm vụ chuyên trách có thể được trả tiền công, tiền lương, đó không phải là sự chia lời. Bốn là, tính tự trang trải về tài chính, tổ chức hội hoạt động dựa vào nguồn tài chính do các hội viên đóng góp, do sự quyên góp của nhân dân, sự tài trợ tình nguyện của doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế và có thể bằng cả sự hỗ trợ tài chính từ nguồn ngân sách nhà nước. Nhà nước thường hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước cho các hội trên cơ sở đấu thầu hoặc giao việc nhằm thực hiện bổ sung những dự án, hoặc chương trình chính sách xã hội. Tính chất tự trang trải về tài chính là một đặc điểm rất quan trọng của 13
  19. tổ chức hội. Việc tự trang trải tài chính hoạt động là một thách thức khiến cho các hội phải hoạt động năng động, dành được uy tín trước các nhà tài trợ bằng chất lượng công việc, bằng phong cách làm việc minh bạch, công khai, có trách nhiệm. Tự trang trải tài chính hoạt động cũng là một yếu tố khiến cho hội ở vào vị thế độc lập với khu vực nhà nước và thị trường. Thực hiện tốt việc trang trải về tài chính, hội sẽ có khả năng làm tốt chức năng giám định, phản biện xã hội đối với chính sách và hoạt động của nhà nước và thị trường, làm cho nhà nước và thị trường hoạt động minh bạch và có trách nhiệm hơn [21]. 1.1.2. Khái niệm Quản lý nhà nước và Quản lý nhà nước về tổ chức hội Để nghiên cứu khái niệm quản lý nhà nước, trước hết cần làm rõ khái niệm “quản lý”. Thuật ngữ “quản lý” thường được hiểu theo những cách khác nhau tuỳ theo góc độ khoa học khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu. Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Mỗi lĩnh vực khoa học có định nghĩa về quản lý dưới góc độ riêng của mình và nó phát triển ngày càng sâu rộng trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại, phát triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến phạm vi rộng lớn hơn tầm quốc gia, quốc tế, đồng thời đều phải thừa nhận và chịu một sự quản lý nào đó. Thuật ngữ quản lý ngày nay đã ngày càng trở nên phổ biến nhưng chưa có khái niệm thống nhất. Có ý kiến cho rằng quản lý là hoạt động bảo đảm cho sự hoàn thành công việc thông qua sự nỗ lực của người khác. Cũng có ý kiến cho rằng quản lý là một hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt mục đích của nhóm. Có ý kiến lại đơn giản hơn khi coi quản lý là sự có trách nhiệm về một cái gì đó. Từ những ý chung về quản lý nêu trên và xét quản lý với tư cách là một 14
  20. hành động, có thể khái niệm: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra. Theo Giáo trình Quản lý Hành chính đại cương: Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa [15, tr.10]. Quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội là công việc của nhà nước được thực hiện thông qua việc ban hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý hoạt động các tổ chức hội, nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương nói riêng, cả nước nói chung. Luật pháp và những văn bản quy định về quản lý các tổ chức hội của nước ta đã thể hiện rõ các mục tiêu của quản lý nhà nước đối với hoạt động các tổ chức hội là duy trì nghiêm minh những điều khoản đã được ghi trong luật và các văn bản pháp quy liên quan và đang có hiệu lực. Như vậy, quản lý nhà nước về hoạt động của các tổ chức hội là quá trình nhà nước sử dụng các công cụ như chính sách, luật pháp, bộ máy và các nguồn lực khác để kiểm soát hoạt động của các tổ chức hội nhằm đảm bảo việc định hướng, điều chỉnh các tổ chức hội hoạt động đúng định hướng của nhà nước. 1.2. Sự cần thiết quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động của các tổ chức hội Cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang phấn đấu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một nhà nước của dân, do dân, vì dân, thực chất là giải quyết tốt mối quan hệ nhà nước, thị trường và dân. Trong những năm qua, với mục tiêu phát triển kinh tế là trọng tâm, 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2