intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:114

290
lượt xem
86
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ.

 

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ

  1. NGUY?N TH? LAN H??NG LỜI CẢM ƠN QU?N L? HO?T ??NG T? H?C  Trong   suốt   quá   trình   học   tập   tại   trường  Đại   học   Giáo   dục   ­  C?A SINH VI?N KHOA NG?N NG? V? V?N HO? NGA  ĐHQGHN và triển khai đề  tài “Quản lý hoạt động tự học của sinh viên   TR??NG ??I H?C NGO?I NG? ­ ??I H?C QU?C GIA H? N?I khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ ­ Đại học   ??P ?NG Y?U C?U ??O T?O THEO H?C CH? T?N CH? Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ” tác giả  luôn được sự  quan tâm giúp đỡ  nhiệt tình và đầy trách nhiệm của của các  thầy cô trong trường  Đại học Giáo dục ­  ĐHQGHN, các thầy cô trường  Chuy?n ng?nh:  Qu?n l? gi?o d?c Đại học NgoM? s?:  ại ngữ  ­  ĐHQGHN, nh 601405ững người  đã hết sức nhiệt tình giúp  đỡ tác giả hoàn thành nhiệm vụ.  Tác giả xin được dành những dòng chữ đầu tiên của luận văn này để  bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo đã quan tâm,  LU?N V?N TH?C S? QU?N L? GI?O D?C giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt là PGS.TS  Đặng Quốc Bảo, người thầy đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá  trình làm đề tài nghiên cứu này. Mặc dù  đã có nhiều cố  gắng song do khả  n ăng nghiên cứu của tác  Ng??i h??ng d?n khoa h?c: PGS.TS ??NG QU?C B?O giả  có hạn, kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học còn ít do đó  luận văn không tránh khỏ             i thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự  đóng  góp chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, các bạn  đồng nghiệp để luận văn  H? N?I ­ 2009 ngày càng hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng  12  năm 2009 Tác giả luận văn H? N?i ­ 2009         Nguyễn Thị Lan Hương 1
  2. 2
  3. DANH MỤC VIẾT TẮT Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH, HĐH Cố vấn học tập  CVHT Đại học Quốc gia Hà Nội ĐHQGHN Học sinh sinh viên HSSV Học sinh HS Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga Khoa NN&VH Nga Ký túc xá KTX Sinh viên SV Trung học phổ thông THPT Trường Đại học Ngoại ngữ Trường ĐHNN Xã hội chủ nghĩa XHCN 3
  4. MỤC LỤC    Trang MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 2 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 2 5. Giả thuyết khoa học 3 6. Phạm vi đề tài nghiên cứu 3 7. Phương pháp nghiên cứu 3 8. Cấu trúc luận văn 3 Chương 1.  CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 5 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 5 1.1.1. Những quan điểm về tự học 5 1.1.2. Những quan điểm về việc dạy và học theo tín chỉ 7 1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài 9 1.2.1. Sinh viên 9 1.2.2. Quản lý, các chức năng quản lý 10 1.2.3. Dạy ­ Học 14 1.2.4. Tự học 16 1.3. Dạy học theo tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải biết tự học 17 1.3.1. Học chế tín chỉ 17 1.3.2. Dạy ­ học theo học chế tín chỉ 20 1.3.3. Dạy học theo học chế tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải biết tự  23 học 1.4. Quản lý tự học theo học chế tín chỉ 28 1.4.1. Vị trí, vai trò của công tác quản lý sinh viên trong các trường đại  28 học 1.4.2. Quản lý tự học – Các nội dung quản lý tự học 28 1.4.3. Các biện pháp quản lý tự học 32 Tiểu kết chương 1 33 Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC  34 4
  5. CỦA   SINH   VIÊN   KHOA   NN&VH   NGA   TRƯỜNG   ĐHNN  ­  ĐHQGHN 2.1. Khái quát về trường ĐHNN­ĐHQGHN 34 2.1.1.Quá trình thành lập trường ĐHNN­ĐHQGHN 34 2.1.2. Mục tiêu chiến lược phát triển của Trường 34 2.1.3. Quy mô và chất lượng đào tạo của trường 36 2.1.4. Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ 38 2.1.5. Đặc điểm của sinh viên 40 2.2. Thực trạng hoạt động tự  học của sinh viên khoa NN&VH  43 Nga trường ĐHNN­ĐHQGHN trước yêu cầu đào tạo theo học chế  tín chỉ 2.2.1. Đặc điểm của sinh viên và đặc điểm đào tạo của khoa NN&VH  43 Nga 2.2.2. Đội ngũ cán bộ và giảng viên khoa NN&VH Nga 46 2.2.3. Cơ sở vật chất của khoa NN&VH Nga 48 2.2.4. Thực trạng hoạt  động tự  học của sinh viên khoa NN&VH  49 Nga 2.3. Thực trạng công tác quản lý hoạt  động tự  học của sinh  54 viên khoa NN&VH Nga 2.3.1. Thực trạng về công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận  54 thức về vai trò tự học 2.3.2. Thực trạng về  hoạt  động giảng dạy của giảng viên trong  56 Khoa 2.3.3. Thực trạng hoạt động của đội ngũ cố vấn học tập 61 2.4. Đánh giá chung về thực trạng … 63 2.4.1. Những điểm mạnh 63 2.4.2. Những điểm yếu 63 Tiểu kết chương 2 65 Chương 3. NHỮNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC  66 CỦA SINH VIÊN KHOA NN&VH NGA TRƯỜNG ĐHNN­ĐHQGHN  ĐÁP ỨNG YẾU CẦU ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ 5
  6. 3.1. Nguyên tắc xác định các biện pháp 66 3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa 66 3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống 66 3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn 67 3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính chất lượng 67 3.2. Biện pháp quản lý hoạt động tự  học của sinh viên khoa  67 NN&VH Nga trường ĐHNN­ĐHQGHN… 3.2.1. Biện pháp 1. Thay đổi nhận thức của giảng viên và sinh viên  67 trước yêu cầu dạy và học theo học chế tín chỉ  lấy tự  học làm cốt,  tăng cường trao đổi, thảo luận và có chỉ đạo chặt chẽ 3.2.2. Biện pháp 2. Xây dựng hệ  thống cố  vấn học tập có chất  71 lượng hướng dẫn sinh viên tự học có hiệu quả 3.2.3. Biện pháp 3. Quản lý hoạt  động giảng dạy của giảng viên  75 thúc đẩy giảng viên cải tiến phương pháp giảng dạy giúp sinh viên tự  học tốt 3.2.4. Biện pháp 4. Hoàn thiện cơ  sở  vật chất, trang thiết bị  phù  79 hợp với yêu cầu đào tạo theo tín chỉ tạo điều kiện cho sinh viên tự  học 3.2.5. Biện pháp 5. Phối kết hợp  đồng bộ  giữa các  đơn vị  chức  81 năng hướng tới hoạt động tự học của sinh viên theo học chế tín chỉ 3.3. Mối liên quan của các biện pháp 84 3.4. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp 86 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 90 1. Kết luận 90 2. Khuyến nghị 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 PHỤ LỤC 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Nhân loại đang bước vào thế  kỷ  21 với sự  phát triển nhanh chóng  của khoa học và công nghệ. Kinh tế  tri thức đang ngày càng mở  rộng, với  quá trình toàn cầu hoá có  ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của mỗi  quốc gia, mỗi dân tộc, từng cộng đồng, từng gia đình và cá nhân. Việt Nam chúng ta cũng đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,  hiện  đại hoá đất nước, nhằm  đưa Việt Nam trở  thành một nước công  nghiệp, văn minh hiện đại và hội nhập quốc tế. Điều đó đặt ra nhiệm vụ  cho ngành giáo dục­ đào tạo là phải “…đào tạo con người Việt Nam phát  triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề  nghiệp,  trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tính  tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho  người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê và ý chí vươn  lên”. Tự  học là một yêu cầu không thể  thiếu đối với mỗi công dân nói  chung, thế hệ trẻ, sinh viên nói riêng. Tự học đã trở thành vấn đề cấp thiết  đối với giáo dục và đào tạo nước ta. Hoạt động tự  học có ý nghĩa quyết  định biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Để hoạt động tự học  của sinh viên đạt được những thành quả như mong đợi thì đổi mới công tác  quản lý giáo dục được xem như giải pháp quan trọng.  Chuyển đổi phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ tạo sự thay đổi  lớn về  phong cách, thói quen dạy ­ học của cả  thầy và trò.  Đối với hình  thức đào tạo này thì khối lượng giờ dạy trên lớp sẽ giảm đi, mà giờ tự học,  tự nghiên cứu của sinh viên sẽ tăng lên. Vì vậy việc tự học, tự nghiên cứu  của sinh viên có vai trò hết sức quan trọng, mang tính quyết định hiệu quả  7
  8. chất lượng đào tạo. Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga nói riêng và trường Đại học Ngoại  ngữ ­ Đại học Quốc gia Hà Nội nói chung, trong các hội thảo về nâng cao   chất lượng học tập của sinh viên, hội nghị  nghiên cứu khoa học cũng đã  nhiều năm đề cập đến vấn đề tự học của sinh viên … và làm  thế nào để  kích thích sinh viên ngoại ngữ  tích cực hơn nhằm nâng cao kết quả  học  tập. Đồng thời cũng đã có một số  giải pháp như: đổi mới phương pháp  giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực, tính sáng tạo, đặc biệt là công  tác quản lý, tổ  chức của trường đối với hoạt động tự  học song các biện  pháp đó chưa được chú ý và quan tâm  đúng mức nên kết quả  vẫn chưa  được như mong muốn. Do vậy, ngoài việc đổi mới phương pháp dạy học  thì việc cải tiến một số biện pháp trong công tác quản lý để nâng cao hoạt  động tự  học cho sinh viên của trường là một vấn đề  cấp thiết. Nhất là  trong giai đoạn hiện nay, trường Đại học Ngoại ngữ ­ Đại học Quốc gia  Hà Nội đang chuyển đổi sang đào tạo theo học chế  tín chỉ  thì vấn đề  tự  học càng trở nên là vấn đề đặc biệt quan tâm.  Chính vì vậy tôi đã chọn hướng nghiên cứu với tên đề tài: “Quản lý   hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường   Đại học Ngoại ngữ ­ Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào   tạo theo học chế  tín chỉ” làm đề  tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp  của mình.  2. Mục đích nghiên cứu  Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất biện pháp quản  lý hoạt động tự  học của sinh viên  nhằm nâng cao chất lượng đào tạo  ở  khoa Ngôn ngữ  và Văn hoá Nga  trường Đại học Ngoại ngữ  ­ ĐHQGHN  đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ. 8
  9. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động tự học của sinh viên các trường đại  học 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa  Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ ­ ĐHQGHN 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ­  Nghiên cứu lý luận về quản lý hoạt động tự học của sinh viên. ­ Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa  Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ ­ Đại học Quốc gia Hà  Nội. ­ Đề  xuất biện pháp quản lý hoạt động tự  học của  sinh viên khoa Ngôn  ngữ và Văn hoá Nga đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ. 5. Giả thuyết khoa học Nếu tìm  được biện pháp quản lý hoạt động tự  học của sinh viên  khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ ­ Đại học Quốc  gia Hà Nội phù hợp, đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ  thì chất  lượng hoạt động học tập của sinh viên sẽ được nâng cao, đáp ứng mục tiêu  đào tạo của nhà trường trong giai đoạn hiện nay.  6. Phạm vi đề tài nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa  Ngôn ngữ và Văn hoá Nga Trường Đại học Ngoại ngữ ­ Đại học Quốc gia  Hà Nội từ năm học 2006­2007 đến nay. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:  ­ Thu thập, nghiên cứu, phân tích xử lý tài liệu. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:  9
  10. ­ Phương pháp quan sát ­ Phương pháp điều tra bảng hỏi ­ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm ­ Phương pháp chuyên gia. 7.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ:   ­ Sử dụng công cụ thống kê để xử lý số liệu. 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội  dung luận văn trình bày trong 3 chương Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài. Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn  ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ   ­ Đại học Quốc gia Hà  Nội theo học chế tín chỉ. Chương 3:   Biện pháp quản lý hoạt động tự  học của sinh viên khoa Ngôn  ngữ  và Văn hoá Nga  trường Đại học Ngoại ngữ  ­ Đại học Quốc gia Hà  Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ. 10
  11. Chương 1:  CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu  1.1.1. Những quan điểm về tự học: Trong lịch sử  phát triển giáo dục, tự  học là vấn  đề  được quan tâm  nghiên cứu từ  lâu cả  về  lý luận và thực tiễn, nhằm phát huy vai trò của   người học và nâng cao chất lượng của hoạt động tự  học. Song từng giai  đoạn lịch sử  nhất  định,  ở  mỗi quốc gia tự  học  được nghiên cứu  đề  cập  dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Khổng Tử  (551­479 trước công nguyên), nhà tư  tưởng nổi tiếng và  nhà sư phạm vĩ đại của Trung Quốc, về phương pháp giáo dục ông đã đề  cao việc tự  học, tự  luyện, tu nhân, trú trọng phát huy mặt tích cực, sáng  tạo, năng lực nội sinh. Đề cập đến việc học tập, Khổng Tử xác định “Học  nhi thời tập chí”, việc học tập theo ông phải gắn liền với thực hành  để  thông suốt những điều đã học. Ông đề cập và nhấn mạnh mối quan hệ tác  động giữa việc học tập và tư duy trong học tập, ông cho đó là hai yếu tố  ràng buộc không thể  thiếu của một vấn đề: “Học nhi bất tư vong, tư nhi  bất học tất  đãi”. Ông cho rằng học mà không nghĩ thì mờ  tối, nghĩ mà  không học thì khó nhọc, mất công. Do vậy, với ông việc học tập và tự học   là cần thiết và gắn bó mật thiết với nhau. Socrat (469­309 trước công nguyên) đã từng nêu khẩu hiệu “Anh hãy  tự  biết lấy anh” qua  đó, mong muốn học trò phát hiện ra “chân lý” bằng  cách đặt câu hỏi để dần dần tìm ra kết luận. Raja Roy Singh, nhà giáo dục  Ấn Độ  trong tác phẩm “Giáo dục cho  thế  kỷ  XXI, những triển vọng của Châu Á Thái Bình Dương”  đã  đưa ra  quan  điểm về  quá trình “Nhận biết dạy­ học”, và ông chủ  trương rằng  người học phải là người tham gia tích cực vào quá trình “Nhận biết dạy ­   11
  12. học”. Theo ông “Sự học tập do người học chủ đạo” Một trong những đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất trong xã hội học  tập là tư tưởng tự học tập suốt đời. Vì “việc học không bao giờ là muộn”  (Ngạn ngữ), hay “Bác học không có nghĩa là ngừng học” (Đác­uyn). Quan  niệm tự  học và học tập suốt đời nổi lên trong thời đại ngày nay như một  chìa khoá mở cửa đi vào thế kỉ 21 ­ thế giới của nền kinh tế tri thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh, một tấm gương sáng ngời về ý chí quyết tâm  trong tự  học, tự  rèn luyện. Người luôn cho rằng học tập giúp con người  tiến bộ, nâng cao phẩm chất, mở rộng hiểu biết, làm thay  đổi hiệu quả lao  động. Người  đã  động viên toàn dân: “Phải tự  nguyện, tự  giác xem công  việc học tập là nhiệm vụ  của người cách mạng, phải cố gắng hoàn thành  cho được do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập” Khi bàn về  vấn đề tự học, giáo sư Tạ  Quang Bửu cũng đã viết “Tự  học là khởi nguồn của phong cách tự  đào tạo đồng thời là cái  nôi nuôi  dưỡng sự  sáng tạo. Ai giỏi tự  học ngay từ  khi ngồi trên ghế  nhà trường,  người đó sẽ tiến xa hơn”. Tự  học ­ tự  đào tạo là một vấn đề  được nghị  quyết Đại hội Đảng  toàn quốc lần thức VIII và Trung ương II (khoá VIII) đề cập đến rất đậm  nét: “Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự  học, sáng tạo của học sinh” (NQ ĐH VIII), “bảo  đảm   điều kiện và thời  gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, phát triển mạnh phong trào tự học  ­ tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân…” Trong bối cảnh  đẩy mạnh CNH, HĐH  đất nước, hội nhập kinh tế  quốc tế hiện nay, nhất là khi nước ta chính thức là thành viên của tổ chức  thương mại thế giới (WTO), đã đặt ra những yêu cầu mới cho giáo dục và  đào tạo. Đòi hỏi GD­ĐT phải tự  đổi mới. Một trong những nội dung  đổi  12
  13. mới giáo dục  được  đề  cập nhiều hơn cả  là  đổi mới phương pháp dạy ­  học, nhất là phương pháp học tập ­ tự học . Trong khoa học, đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu về  vấn  đề  tự  học như: “Quá trình dạy ­ tự  học” của giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn,  giáo sư  Vũ   Văn  Tảo;   “Luận  bàn về   kinh nghiệm  tự   học” của  giáo  s ư  Nguyễn Cảnh Toàn, “Tự  học ­ chìa khoá vàng của giáo dục” của giáo sư  Phan Trọng Luận, và nhiều công trình nghiên cứu về  tự  học của các giáo  sư, tiến sĩ, các nhà nghiên cứu giáo dục như: Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt,  Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị  Đức…với mục đích nâng cao hiệu quả tự học  của sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. 1.1.2. Những quan điểm dạy và  học theo tín chỉ: Xuất phát từ đòi hỏi quy trình đào tạo phải tổ chức sao cho mỗi sinh   viên có thể  tìm được cách học thích hợp nhất cho mình, đồng thời trường  đại học phải nhanh chóng thích nghi và đáp  ứng được những nhu cầu của  thực tiễn cuộc sống, vào năm 1982 Viện  Đại học Harvard  đã quyết  định  thay thế hệ thống chương trình đào tạo niên chế cứng nhắc bằng hệ thống  chương trình mềm dẻo cấu thành bởi các môđun mà mỗi sinh viên có thể  lựa chọn một cách rộng rãi. Có thể xem đó là điểm mốc khai sinh học chế  tín chỉ. Đến đầu thế kỷ 20 hệ thống tín chỉ  được áp dụng rộng rãi hầu như  trong mọi trường  đại học Hoa Kỳ. Tiếp sau  đó, nhiều nước lần lượt áp  dụng hệ thống tín chỉ trong toàn bộ hoặc một bộ phận của tr ường đại học  của mình: các nước Bắc Mỹ, Nhật Bản, Philippin,  Đài  Loan, Hàn Quốc,  Thái Lan, Malaisia, Indonesia, Ấn Độ… Tại Trung Quốc từ cuối thập kỷ 80   đến nay hệ  thống tín chỉ  cũng lần lượt được áp dụng  ở  nhiều trường đại  học. Vào năm 1999, 29 Bộ  trưởng đặc trách giáo dục đại học  ở  các nước  13
  14. trong   Liên   minh   Châu   Âu  đã   ký  Tuyên   ngônBoglona  nhằm   hình   thành  Không gian Giáo dục đại học Châu Âu thống nhất vào năm 2010, một trong  các nội dung quan trọng của Tuyên ngôn đó là triển khai áp dụng học chế  tín chỉ  trong toàn hệ  thống giáo dục đại học để  tạo thuận lợi cho việc cơ  động hoá, liên thông hoạt động học tập của sinh viên trong khu vực Châu  Âu và trên thế giới.  Trước năm 1975, một số trường đại học chịu ảnh hưởng của Mỹ tại  Miền Nam Việt Nam đã áp dụng tín chỉ: Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại  học Thủ Đức… Trong quá trình “Đổi mới”  ở nước ta từ cuối 1986 chuyển nền kinh  tế  kế  hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị tr ường theo định hướng xã  hội chủ  nghĩa, GDĐH  ở  nước ta cũng có nhiều thay  đổi. Hội nghị  Hiệu  trưởng đại học tại Nha Trang hè 1987 đã đưa ra nhiều chủ trương đổi mới  GDĐH, trong  đó  có chủ  trương triển khai trong các trường  đại học quy  trình đào tạo 2 giai đoạn và môđun hoá kiến thức. Theo chủ trương đó, học  chế “học phần”  đã ra đời và triển khai trong toàn bộ hệ thống các tr ường  đại học và cao  đẳng nước ta từ  năm 1988  đến nay. Học chế  học phần  được xây dựng trên tinh thần tích luỹ  dần kiến thức theo các môđun (môn  học) trong quá trình học tập, tức là theo ý tưởng học chế  tín chỉ  xuất phát  từ Mỹ. Tuy nhiên, về một số phương diện, học chế học phần chưa thật sự  mềm dẻo như học chế  tín chỉ  của Mỹ, do đó nó được gọi là “sự  kết hợp  niên chế  với tín chỉ”, tuy nhiên những khó khăn về  đời sống xã hội nói  chung và trong các trường đại học nói riêng lúc đó chưa cho phép đặt vấn  đề thực hiện học chế môđun hoá triệt để. Vào năm 1993, khi những khó khăn chung của đất nước và của các  trường đại học có phần dịu bớt, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương tiến  14
  15. thêm một bước, thực hiện học chế  học phần triệt   để  hơn, theo mô hình  học chế  tín chỉ  của Mỹ. Trường  Đại học Bách Khoa thành phố  Hồ  Chí  Minh là nơi đầu tiên áp dụng học chế  tín chỉ  từ  năm 1993, rồi các trường  Đại học  Đà  Lạt,  Đại học Cần Thơ,  Đại học Thuỷ  Sản Nha Trang… và  một số trường đại học khác áp dụng từ năm 1994 và các năm sau đó. Trường  Đại học Ngoại ngữ  ­  ĐHQGHN bắt  đầu chuyển  đổi sang  đào tạo theo học chế  tín chỉ  từ  năm học 2006­2007. Mặc dù trong các hội  thảo về  nâng cao chất lượng học tập của sinh viên, hội nghị  nghiên cứu  khoa học cũng đã  đề  cập nhiều  đến vấn đề  tự  học của sinh viên nhưng  nghiên cứu về  hoạt động tự  học theo học chế  tín chỉ  thì vẫn còn mới lạ,   nhất là đối với sinh viên khoa Ngôn ngữ  và Văn hoá Nga, nhiều sinh viên  ngay từ khi đăng ký dự thi vào khoa đó không phải vì học giỏi ngôn ngữ đó,  cũng không phải vì niềm say mê mà chủ yếu là giải pháp tình thế dẫn  đến  kết quả học tập của các em không được cao. Chính vì vậy, là một cán bộ  quản lý sinh viên của khoa, tác giả  đi sâu vào việc nghiên cứu tìm ra các  biện pháp quản lý hoạt động tự  học của sinh viên khoa Ngôn ngữ  và Văn  hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ  ­ ĐHQGHN góp phần nâng cao hiệu  quả  hoạt động tự  học của sinh viên khoa NN&VH Nga  nói riêng và nâng  cao chất lượng giáo dục của Nhà trường trong xu hướng đào tạo theo học  chế tín chỉ. 1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài 1.2.1. Sinh viên:    Thuật ngữ  “sinh viên” có nguồn gốc từ  tiếng La tinh “student” có   nghĩa là người làm việc, học tập nhiệt tình, người tìm kiếm, khai thác tri  thức.   Nó  được   dùng   tương  đương   với   từ   “student”   trong   tiếng   Anh,  “Etudiant” trong tiếng Pháp   và “Cmgenm” trong tiếng Nga   để  chỉ  những  15
  16. người đang theo học ở bậc đại học, được phân biệt với học sinh đang học  ở phổ thông. Theo X.L.Rubinsen quan niệm: “sinh viên” là đại biểu của một nhóm  xã hội đặc biệt được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng để chuẩn  bị cho hoạt động lao động và sản xuất vật chất cho xã hội. Nhóm sinh viên  rất cơ động được tổ chức theo một mục đích xã hội nhất định nhằm chuẩn  bị  thực hiện vai trò xã hội với trình độ  nghề  nghiệp cao trong lĩnh vực xã  hội, sinh viên là nguồn lực bổ sung cho  đội ngũ tri thức được đào tạo thành  người lao động có tay nghề cao tham gia hoạt động tích cực. Quy chế  công tác HSSV trong các trường đạo tạo của Bộ  Giáo dục  và đào tạo thì “sinh viên” là người đang học hệ Đại học và Cao đẳng. Như thế, nếu không xét về  hình thức gọi tên thì sự ra đời của thuật  ngữ “sinh viên” đã gắn liền với lịch sử ra đời của trường đại học (hơn 700  năm đối với SV thế giới và gần 300 năm đối với sinh viên Việt nam). Theo cách phổ  biến hiện nay trong xã hội thì khái niệm “sinh viên”  được Nhà nước thể  chế  hoá, pháp lý hoá thuật ngữ  này bằng luật  định.  Trong Luật giáo dục đã thống nhất cách gọi đối với sinh viên như sau: Sinh viên là người đang học tại các trường cao đẳng, trường đại học  [3,tr.73]. Như  vậy, tất cả  những người đang học  ở  bậc cao đẳng và đại học  đều được gọi là sinh viên. Ngày nay, “học, học nữa, học mãi” (Lênin) là khẩu hiệu của toàn xã  hội và học tập là công việc suốt đời. Các trường cao đẳng và đại học mở  rộng cửa cho tất cả những ai có nguyện vọng và điều kiện không phân biệt  lứa tuổi, giới tính, giàu nghèo…  đều có thể  học bằng nhiều con  đường,  hình thức khác nhau: chuyên tu, tại chức, văn bằng 2… Do  đó, với khái  16
  17. niệm SV như trên thì ngoại diên của nó rất rộng. Tuy  nhiên,  trong  giới  hạn  của  đề  tài  này   chỉ   nghiên  cứu   với  đối  tượng là sinh viên hệ chính quy thì có thể thu hẹp nội hàm của khái niệm này  như sau: ­ Đó là những người đã tốt nghiệp trung học phổ thông ­ Họ đã vượt qua kỳ thi tuyển sinh đại học và đỗ vào trường ­ Họ thuộc nhóm thanh niên nam, nữ từ 17 đến 25 tuổi ­ Họ chưa có nghề nghiệp, việc làm xác định do đó còn lệ  thuộc gia đình về kinh tế ­ Họ  là nhóm xã hội đặc biệt gồm những thanh niên xuất  thân từ  các tầng lớp xã hội khác nhau  đang trong quá  trình   học   tập,   chuẩn   bị   nghề   nghiệp   chuyên   môn  để  bước vào một nhóm xã hội mới là tầng lớp tri thức trẻ.  1.2.2. Quản lý, các chức năng quản lý 1.2.2.1. Quản lý:  Thuật ngữ “quản lý” (từ Hán Việt) gồm hai quá trình tích nhau. Quá  trình “quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ổn định”. Quá trình  “lý” gồm sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ thống (tổ chức) vào thế “phát  triển”. Nếu chỉ “quản” thì tổ  chức dễ trì trệ, nếu chỉ  “lý” thì tổ  chức phát  triển không bền vững. Do  đó  trong “quản” phải có “lý” và ngược lại  để  làm cho hệ thống ở trạng thái cân bằng động, vận động phù hợp, thích ứng  và có hiệu quả   trong môi trường tương tác giữa các nhân tố  bên trong và  các nhân tố bên ngoài tổ chức [9, tr.1]. Quản lý là sự  điều khiển một hệ  thống hoạt động xã hội  ở  tầm vĩ  mô cũng như vi mô vì vậy có nhiều cách tiếp cận khác nhau,  ở  mỗi cách  tiếp cận có những định nghĩa khác nhau. 17
  18. K.Marx đã từng nói đến sự  cần thiết của quản lý: “Bất kỳ  một lao  động xã hội nào được tiến hành trên một quy mô tương đối lớn cũng đều  cần có sự quản lý, nó xác lập mối quan hệ hài hoà giữa các công việc riêng   rẽ và thực tiễn những chức năng chung nhất xuất phát từ sự vận động của  toàn cơ cấu sản xuất khác với vận động của từng bộ  phận độc lập trong  nền sản xuất ấy. Một nghệ sĩ vĩ cầm tự  điều khiển mình, còn dàn nhạc thì  phải có nhạc trưởng” [4, tr.480]. Còn theo H.Koontz “ Quản lý là một hoạt  động thiết yếu, nó  đảm  bảo sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được mục đích của  tổ  chức. Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môi tr ường mà trong  đó con người có thể    đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền  bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [12, tr.33]. F.W.Taylor (1856­1915), người được coi là cha đẻ của thuyết quản lý  khoa học đã nêu lên tư tưởng cốt lõi trong quản lý là: “Mọi loại công việc  dù nhỏ  nhất  đều phải chuyên môn hoá và phải quản lý chặt chẽ”. Theo  ông: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần làm và cái đó  làm thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”. Các tác giả  Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị  Mỹ  Lộc cho rằng:  “Hoạt  động quản lý là tác  động có  định hướng, có chủ  định của chủ  thể  quản lý (người quản lý)  đến khách thể  quản lý (người bị  quản lý) trong  một tổ chức nhằm cho tổ chức vận hành và đạt mục đích của tổ chức” [19,  tr.1]. Tác giả  Nguyễn Minh Đạo cho rằng: “Quản lý là sự  tác động có tổ  chức, định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý về mặt chính  trị, văn hoá, xã hội, kinh tế… bằng một hệ  thống các luật lệ, các chính  sách, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ  thể  nhằm tạo ra  18
  19. môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng”[20, tr.7]. Tóm lại, hoạt  động quản lý luôn tồn tại hai thành tố  đó là chủ  thể  quản lý và khách thể  quản lý. Chủ  thể  quản lý có thể  là cá nhân hay một  nhóm người có chức năng quản lý,  điều khiển tổ  chức  để  tổ  chức vận  hành và đạt được mục tiêu. Khách thể quản lý là những người chịu sự tác  động chỉ đạo của chủ thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung. 1.2.2.2. Chức năng quản lý: Chức năng của quản lý là tập hợp các nhiệm vụ mà chủ thể quản lý   phải thực hiện  để  đạt mục  đích, mục tiêu quản lý  đề  ra. Có nhiều cách  phân chia về chức năng quản lý nhưng cơ bản thống nhất ở bốn chức năng  cơ bản: ­ Chức năng lập kế hoạch: Lập kế hoạch là quá trình ấn định những nhiệm vụ, những mục tiêu  và phương pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đó. Lập kế  hoạch là phương pháp tiếp cận hợp lý  để  đạt những mục  tiêu định trước, là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý vì nó  gắn liền với việc lựa chọn chương trình hành động trong tương lai. Kế  hoạch là văn bản trong đó xác định mục tiêu, mục đích của một  tổ  chức và những con đường, các biện pháp, cách thức để  đạt được mục  tiêu, mục đích đó. Chức năng kế hoạch hoá có 3 nội dung cơ bản là: + Xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức; + Xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về  các nguồn lực của tổ chức để đạt được mục tiêu này. + Quyết  định xem những hoạt  động nào là cần thiết  để  đạt  được các mục tiêu, xác định các hoạt động ưu tiên. ­ Chức năng tổ chức: 19
  20. Tổ  chức thực hiện kế  hoạch là quá trình sắp xếp và phân phối các  nguồn lực để thực hiện các mục tiêu đã đề ra, là sự sắp đặt một cách khoa  học cho con người, công việc một cách hợp lý, là sự phối hợp các tác  động  bộ phận tạo nên một tác động tích hợp mà hiệu quả của nó lớn hơn nhiều  so với tổng số các hiệu quả của các tác động thành phần. Công tác tổ chức  bao gồm: + Xác định cấu trúc bộ máy + Tiếp nhận và phân phối các nguồn lực theo cấu trúc bộ máy. + Xác lập cơ chế  phối hợp giữa các bộ  phận, các thành viên  trong tổ chức ­ Chức năng chỉ đạo: Chỉ  đạo là quá trình  điều khiển,  điều hành, tác  động, huy  động và  giúp đỡ con người, tổ chức trong hệ thống thực hiện nhiệm vụ. Chỉ  đạo là  quá trình tác động, liên kết các thành viên trong tổ chức, tập hợp,  động viên  họ  hoàn thành những công việc nhất  định  để  đạt  được mục tiêu của tổ  chức. Nội dung của chức năng chỉ đạo bao gồm: + Chỉ huy, ra lệnh. + Động viên, khen thưởng + Theo dõi, giám sát + Uốn nắn, sửa chữa, chỉnh lý ­ Chức năng kiểm tra: Để  hoàn thành chức năng lãnh  đạo, người lãnh  đạo hệ  thống cần  thiết và phải thực hiện chức năng kiểm tra của quản lý. Lãnh  đạo mà  không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo. Kiểm tra theo lý thuyết hệ  thống chính là thiết lập mối quan hệ  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2