intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Thực trạng quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên tại Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:70

178
lượt xem
37
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Thực trạng quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên tại Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh xác định thực trạng cũng như đánh giá những thuận lợi và khó khăn của việc lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên tại Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Từ đó, đưa ra giải pháp cho vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Thực trạng quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên tại Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

  1. THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ MỸ NGỌC THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÔNG TÁC LẤY Ý KIẾN SINH VIÊN VỀ HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY CỦA GIẢNG VIÊN TẠI ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Quản lý Giáo dục Mã số: LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGÔ ĐÌNH QUA : Tp. Hồ Chí Minh – 2010
  2. LỜI CÁM ƠN Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:  TS Ngô Đình Qua – Giáo viên hướng dẫn – Trường Đại học Sư phạm TPHCM  GS. TS. Frances Hoffmann, Học giả Chương trình Fulbright Việt Nam, Trường Đại học Connecticut, Hoa Kỳ.  Giám đốc và các bạn chuyên viên Trung tâm Khảo thí và Đánh giá Chất lượng Đào tạo, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.  Các CBQL, GV, SV tại các đơn vị thành viên Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh  Quý Thầy, Cô thuộc Khoa Tâm lý Giáo dục, Phòng Khoa học Công nghệ và Sau đại học – Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.  Quý Thầy, Cô tham gia giảng dạy lớp Cao học QLGD Khóa 17, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.  Các anh chị học viên lớp Cao học QLGD Khóa 17, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và làm luận văn. Trân trọng cám ơn! TPHCM, ngày 25 tháng 6 năm 2010 Tác giả luận văn NGUYỂN THỊ MỸ NGỌC
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết đầy đủ Viết tắt Giảng viên GV Cán bộ Quản lý CBQL Đánh giá giảng dạy ĐGGD Sinh viên SV Giáo dục đại học GDĐH Đại học ĐH Bộ Giáo dục và Đào tạo Bộ GD& ĐT Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh ĐHQG – HCM Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG - Trường ĐH KHTN HCM Trường Đại học Bách Khoa Trường ĐH BK Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Trường ĐH KHXH&NV Trường Đại học Công nghệ thông tin Trường ĐHCNTT Đảm bảo chất lượng ĐBCL Khảo thí KT Phòng Khảo thí và Đảm bào chất lượng KT&ĐBCL Nhà xuất bản NXB
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên đã được thực hiện khá sớm tại các trường đại học tiên tiến ở Châu Âu và Mỹ từ giữa thế kỷ 20. Một trong những động cơ chính khiến các trường tiến hành lấy ý kiến phản hồi từ người học là nhằm thu nhận thông tin ngược giúp giảng viên điều chỉnh, cải thiện hoạt động giảng dạy, tạo ra sự công bằng và minh bạch trong quá trình dạy học, phù hợp theo mô hình dạy học tích cực, đa chiều mà nhiều trường đại học trên thế giới hiện đang áp dụng, đồng thời tăng cường tính chủ động của sinh viên trong quá trình học tập. Việt Nam, sau khi tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO, ngày càng quan tâm nhiều đến vấn đề chất lượng giáo dục đại học, trong đó chủ đề lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên luôn được đề cập đến trong các quy định, chính sách, chủ trương và văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong thời gian gần đây. Ngày 01/11/2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) ban hành Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục trường đại học theo QĐ số 65/2007/QĐ-BGDĐT, yêu cầu các đơn vị tiến hành lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên thể hiện qua nội dung các tiêu chí 4.3 “ Nhà trường có kế hoạch và phương pháp đánh giá hợp lý các hoạt động giảng dạy của giảng viên; chú trọng việc triển khai đổi mới phương pháp dạy và học, phương pháp đánh giá kết quả học tập của người học theo hướng phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu và làm việc theo nhóm” (Tiêu chuẩn 4), và tiêu chí 6.9 “Người học được tham gia đánh giá chất lượng giảng dạy của giảng viên khi kết thúc môn học, được tham gia đánh giá chất lượng đào tạo của trường đại học trước khi tốt nghiệp” (Tiêu chuẩn 6). Tại Hội nghị toàn quốc về chất lượng giáo dục đại học ngày 05 tháng 01 năm 2008, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân đã phát biểu: “ Tất cả giảng viên đại học đều phải có năng lực giảng dạy, nghiên cứu và phải được đánh giá qua sinh viên và đồng nghiệp về trình độ chuyên môn, kĩ năng sư phạm, năng lực quản lí giáo dục”.[7] Ngày 20 tháng 02 năm 2008, Cục nhà giáo, Bộ GD & ĐT gửi công văn số 1276/BGDĐT – NG yêu cầu các trường đại học, học viện tổ chức lấy ý kiến phản hồi từ người học về hoạt động của giảng viên, trong công văn có hướng dẫn và nêu rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, cách thức tổ chức thực hiện công tác lấy ý kiến này tại các trường đại học [6].
  5. Hưởng ứng chủ trương của Bộ GD & ĐT, đã có rất nhiều trường đại học Việt Nam đã và đang tiến hành lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên, chương trình đào tạo, công tác hỗ trợ sinh viên… Một số trường do tham gia đánh giá ngoài của Bộ GD & ĐT, nên đã triển khai công tác này từ năm 2005 như Trường Đại học Bách Khoa Tp. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Thái Nguyên, Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Mình, Trường Đại học Cần Thơ… Tại Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG - HCM), một số đơn vị thành viên bao gồm trường Đại học Bách Khoa Tp. Hồ Chí Minh (ĐHBK), Đại học Khoa học tự nhiên (ĐHKHTN), Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (ĐHKHXH&NV), Khoa Kinh tế đã tiến hành lấy ý kiến sinh viên về chất lượng môn học và khóa học khi tham gia đề án trọng điểm cấp ĐHQG –HCM: “Thí điểm đánh giá chất lượng giảng dạy bậc đại học” năm 2005 do Tiến sĩ Nguyễn Đức Nghĩa và Tiến sĩ Vũ Thị Phương Anh đồng chủ nhiệm. Việc tham gia đề án trên đã góp phần giúp các đơn vị làm quen với công tác tổ chức lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên. Tóm lại, công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên là công tác liên quan mật thiết đến quản lý giáo dục tại các trường đại học. Công tác này đã được nghiên cứu và áp dụng trong thời gian dài tại các trường đại học trên thế giới nhưng lại khá mới mẻ đối với giáo dục đại học Việt Nam. Cho đến nay, vì hầu như các đơn đã đồng tình với những ý nghĩa tích cực mà công tác này mang lại như góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên, tạo điều kiện cho sinh viên phát huy vai trò trung tâm trong trường đại học và đặc biệt là giúp các nhà quản lý có thêm thông tin để quản lý tốt giảng viên của mình; nên gần như tất cả các tổ chức giáo dục kể cả trường đại học công và đại học tư đều tiến hành lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên. Đã có nhiều bài viết, báo cáo trình bày về việc thực hiện lấy ý kiến sinh viên tại các trường đại học trong các hội nghị, hội thảo liên quan đến công tác lấy ý kiến sinh viên. Tuy nhiên, tính đến giai đoạn hiện nay các nghiên cứu chuyên về lĩnh vực quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên chưa được thực hiện nên chúng tôi chọn đề tài “Thực trạng quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên tại ĐHQG - HCM” để nghiên cứu nhằm góp phần giúp các nhà quản lý tại các đơn vị trong và ngoài ĐHQG - HCM có thêm thông tin để cải tiến hoạt động quản lý của mình tốt hơn.
  6. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm xác định thực trạng quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên tại ĐHQG - HCM. Trên cơ sở mô tả và phân tích thực trạng, đề tài sẽ tìm ra những thuận lợi và khó khăn mà các đơn vị thường gặp trong quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên từ đó đề ra một số giải pháp thích hợp giúp các đơn vị cải tiến hoạt động quản lý của mình. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu - Khách thể: công tác quản lý tại các trường thành viên ĐHQGTPHCM - Đối tượng: thực trạng quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên tại ĐHQGTPHCM 4. Giả thuyết nghiên cứu Công tác quản lý việc lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên tại các trường thành viên ĐHQG - HCM có ưu điểm là được sự hưởng ứng nhiệt tình của các nhà quản lý, giảng viên và sinh viên, tuy nhiên việc lên kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát và sử dụng kết quả điều tra tại các đơn vị chưa được thực hiện đầy đủ và đồng bộ. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tham khảo tài liệu trong và ngoài nước về lý thuyết quản lý, lịch sử và thực tiễn quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài. - Tìm hiểu các văn bản liên quan đến chính sách, chủ trương lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bao gồm:  Bộ Tiêu chuẩn Kiểm định chất lượng giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành theo QĐ số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007  Công văn số 1276/BGDĐT – NG của Cục Nhà giáo, Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 20 tháng 02 năm 2008 về việc hướng dẫn tổ chức lấy ý kiến phản hồi người học về hoạt động giảng dạy của giảng viên. - Khảo sát thực trạng quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên tại các trường thành viên ĐHQG – HCM. - Mô tả và phân tích kết quả khảo sát thực trạng.
  7. - Tìm ra những thuận lợi và khó khăn đối với hoạt động quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên của các đơn vị. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần cải thiện công tác quản lý lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên tại các đơn vị thành viên. 6. Phương pháp luận nghiên cứu 6.1 Cơ sở phương pháp luận: là một số quan điểm được vận dụng trong đề tài. 6.1.1. Quan điểm hệ thống – cấu trúc Theo quan điểm hệ thống cấu trúc khi tiến hành nghiên cứu các hiện tượng giáo dục cần dựa trên cơ sở phân tích toàn diện, xác định các yếu tố hợp thành và mối quan hệ giữa các yếu tố của hệ thống để tìm ra quy luật phát triển của hiện tượng. Vận dụng quan điểm này vào phạm vi đề tài, chúng tôi nhận thấy công tác quản lý việc lấy ý kiến sinh viên cần được xem như một hệ thống với các yếu tố hợp thành như công tác kế hoạch hóa, công tác tổ chức, chỉ đạo thực hiện, công tác kiểm tra đánh giá. 6.1.2. Quan điểm lịch sử Đề tài sẽ áp dụng quan điểm lịch sử nhằm tìm hiểu, phát hiện sự phát triển của quá trình quản lý công tác lấy kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên trong một bối cảnh và thời gian cụ thể nhằm tìm ra những quy luật chung cho quá trình thực hiện công tác quản lý trên. 6.1.3. Quan điểm thực tiễn Quan điểm này đòi hỏi người nghiên cứu bám sát những yêu cầu của thực tiễn. Do đó, khi nghiên cứu chúng tôi cũng sẽ vận dụng quan điểm này nhằm phát hiện những mâu thuẫn, những khó khăn trong thực tiễn để từ đó lựa chọn ra những vấn đề nổi cộm, cấp thiết của đề tài. Ngoài ra, việc vận dụng quan điểm thực tiễn cũng góp phần giúp cho đề tài mang tính thực tế cao. 6.2. Phương pháp nghiên cứu 6.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: - Phân tích và tổng hợp lý thuyết: phân tích tài liệu để tìm hiểu những điểm cốt lõi của lý thuyết về quản lý, lý thuyết thông tin, hoạt động giảng dạy của giảng viên và công tác thu thập ý kiến sinh viên để đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên. - Phân loại và hệ thống hóa lý thuyết: Phương pháp này nhằm sắp xếp các lý thuyết có liên quan đến đề tài theo hệ thống nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận của đề tài.
  8. 6.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 6.2.2.1. Điều tra bằng bảng hỏi Mục đích điều tra: thu thập số liệu chứng minh cho giả thuyết. Cụ thể là nhằm điều tra thái độ của 3 đối tượng là cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên về công tác lấy ý kiến sinh viên để đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên và thực trạng tổ chức quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên tại các trường thành viên ĐHQG - HCM. Qua đó tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn chung của các đơn vị khi tiến hành tổ chức lấy ý kiến sinh viên để từ đó đề xuất một số giải pháp khắc phục góp phần cải tiến công tác quản lý lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên tại ĐHQG - HCM.  Nội dung điều tra bao gồm các nội dung chủ yếu sau: - Thái độ của các nhà quản lý, giảng viên, sinh viên về công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên - Công tác lập kế hoạch việc lấy ý kiến sinh viên của các nhà quản lý - Tình hình tổ chức, triển khai hoạt động lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên - Việc thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên của các nhà quản lý - Việc sử dụng kết quả thu thập được để điều chỉnh, nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên của các nhà quản lý  Đối tượng điều tra: cán bộ quản lý, giảng viên, sinh viên Cách chọn mẫu: Trong tổng số 7 trường thành viên của ĐHQG - HCM (ĐH Bách Khoa, ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH KHXH&NV, ĐH Quốc Tế, ĐH CNTT, Khoa Kinh tế và Viện MT-TN), chúng tôi đã dựa vào tính chất và qui mô đào tạo của từng đơn vị để chọn mẫu khảo sát. Do Viện Môi trường – Tài nguyên là một đơn vị chuyên nghiên cứu và chỉ đào tạo Sau đại học. Vì thế, người nghiên cứu đã chọn 6 trong 7 trường thành viên trên. Dựa trên tổng số cán bộ quản lý và cán bộ giảng dạy, sinh viên của từng đơn vị, người nghiên cứu chọn 20 % cán bộ giảng viên trong đó có 7 % là cán bộ quản lý, 13% là giảng viên và 3% đối tượng là sinh viên để thực hiện điều tra nghiên cứu, với tổng số phiếu phát ra là 2.334 phiếu. Các đối tượng được điều tra nghiên cứu được chọn lựa theo mẫu thuận tiện trong
  9. đó có quan tâm đến sự đa dạng về trình độ quản lý, trình độ chuyên môn, thâm niên, giới, giảng viên ở các khoa và bộ môn khác nhau, sinh viên học ở các năm, các ngành khác nhau… Mô tả mẫu khảo sát Danh sách các trường được chọn để khảo sát: a. Trường Đại học Bách Khoa b. Trường Đại học Khoa học Tự nhiên c. Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn d. Trường ĐH Quốc tế. e. Trường ĐH Công nghệ thông tin f. Khoa Kinh tế Tỷ lệ chọn mẫu được phân bố đều trong các trường theo tỷ lệ phần trăm số CBQL/CBGD/ SV trong trường và được trình bày ở bảng 1. Bảng 1. Số lượng phiếu khảo sát phát ra tại mỗi đơn vị thành viên so với tổng số CBQL, GV, SV. STT Tên trường Tổng số CBQL + 13% GV 7% Tổng 3% tổng GV CBQL số SV số SV 1 ĐH Bách Khoa 1480 192 103 20307 609 2 ĐH KHTN 901 117 63 10372 311 3 ĐH KHXH&NV 1008 131 70 9202 276 4 ĐH Công nghệ TT 150 20 10 2264 68 5 ĐH Quốc tế 255 33 18 1958 59 6 Khoa Kinh tế 366 48 26 6015 180 Tổng số phiếu phát 541 290 1503 ra
  10. Xây dựng bảng hỏi(phiếu khảo sát) Bảng hỏi được xây dựng dựa trên mục tiêu của đề tài với 3 mẫu phiếu dành cho 3 đối tượng là cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên. Bảng hỏi chủ yếu tập trung điều tra thái độ của 3 đối tượng trên về thực trạng quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên tại các trường thành viên ĐHQG – HCM (xem phụ lục 1, các mẫu phiếu điều tra của đề tài). a. Bảng hỏi dành cho cán bộ quản lý (CBQL): bao gồm 2 nội dung chính, thông tin cá nhân và nội dung điều tra. Trong mục thông tin cá nhân bao các thông tin về giới tính, tuổi, đơn vị công tác, thâm niên và chức vụ công tác. Trong mục nội dung điều tra thực trạng có 3 phần, phần một gồm 6 câu hỏi điều tra về mức độ hiểu biết công tác quản lý lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên của CBQL, phần 2 gồm 4 câu hỏi điều tra về thái độ của CBQL đối với công tác lấy ý kiến sinh viên (SV), phần ba gồm 16 câu điều tra thực trạng quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên tại trường và hai câu hỏi mở về các thuận lợi và khó khăn đối với việc quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên tại trường. b. Bảng hỏi dành cho giảng viên (GV): tương tự như bảng hỏi của CBQL, bảng hỏi GV bao gồm 2 nội dung chính là thông tin cá nhân và thực trạng quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên. Mục thông tin cá nhân có 6 câu hỏi về giới tính, tuổi, học vị, chức danh, đơn vị, thâm niên công tác. Mục nội dung điều tra có 2 phần. Phần một có 4 câu hỏi điều tra về thái độ của GV đối với công tác lấy ý kiến SV, phần hai gồm 12 câu điều tra về thực trạng quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên, 2 câu hỏi mở về những vấn đề cần cải thiện trong công tác quản lý lấy ý kiến sinh viên tại trường. c. Bảng hỏi dành cho sinh viên (SV): Bảng hỏi dành cho SV có ít câu hỏi hơn bảng hỏi của CBQL và GV vì có những vấn đề do sinh viên không trực tiếp tham gia nên có thể không nắm được thông tin để trả lời. Trong bảng hỏi SV, có 2 mục thông tin cá nhân và nội dung điều tra. Trong mục thông tin cá nhân có các câu hỏi về giới tính, tuổi, nơi và năm học. Trong mục nội dung có 5 câu hỏi về thực trạng quản lý công tác lấy ý kiến SV tại trường và 1 câu hỏi mở về biện pháp cải thiện hoạt động quản lý này tại trường. Số phiếu khảo sát thu được Với tổng số phiếu phát ra cho cả 3 đối tượng là: 2.334 phiếu (trong đó đối tượng giảng viên là 541 phiếu, cán bộ quản lý 290 phiếu và sinh viên là 1.503 phiếu). Tổng số phiếu thu về (hợp
  11. lệ) là 1.707 phiếu, đạt tỷ lệ 73% trong đó giảng viên là 438 phiếu (82%), cán bộ quản lý 217 phiếu (75%), và sinh viên là 1052 phiếu (70%). Số phiếu cụ thể ở từng đơn vị được trình bày ở bảng 2. Bảng 2. Số lượng phiếu thu về tại mỗi đơn vị thành viên STT Tên trường Số phiếu GV Số phiếu CBQL Số phiếu SV 1 ĐH Bách Khoa 155 83 376 2 ĐH KHTN 103 34 235 3 ĐH Quốc tế 27 14 59 4 ĐHKHXH&NV 100 60 203 5 ĐH Công nghệ TT 15 10 61 6 Khoa Kinh tế 38 16 116 Bỏ trống 2 Tổng cộng 438 217 1052 Thông tin về cán bộ quản lý (CBQL) Có 2/3 cán bộ có giới tính là nam, đa số ở độ tuổi dưới 50 (33.8% có độ tuổi từ 20 đến 30, 35.29% có độ tuổi từ 31 đến 40, 23.53% từ 41đến 50 và 7.35% có độ tuổi trên 50) tham gia trả lời bảng hỏi (câu hỏi số 1, 2). Có 35.02% thầy/cô tham gia các khóa bồi dưỡng về quản lý dưới một năm, 16.59 % trên một năm và 40.55 % (7.83% không trả lời) trả lời chưa từng tham dự các khóa học về quản lý (câu hỏi số 4). Về chức vụ công tác, có 2.76% là Hiệu trưởng, Hiệu phó, 58.53% là Trưởng phó các Phòng ban, Khoa, Bộ môn và 36.87% là chuyên viên, nhân viên làm việc trực tiếp tại các phòng ban (câu hỏi số 5). Về thâm niên công tác, có 64.98% thầy/cô có thâm niên công tác dưới 12 năm, 26.27% từ 12 đến 25 năm và 7.83% là trên 25 năm (câu hỏi số 6). Thông tin về giảng viên (GV) Có 2/3 cán bộ nam/nữ đa số ở độ tuổi dưới 50 trong đó 54.11% có độ tuổi từ 20 đến 30, 31.05% có độ tuổi từ 31 đến 40, 5.94 % từ 41 đến 50 và 8.9 % có độ tuổi trên 50 (câu hỏi số 1 và 2).
  12. Có 19.41 % giảng viên tham gia khảo sát có học vị tiến sĩ, 39.04 % học vị thạc sĩ, 41.55 % trình độ cử nhân (câu hỏi số 3). Về chức danh của giảng viên tham gia khảo sát, không có giáo sư tham gia, 3.88 % là phó giáo sư, 5.71% là giảng viên chính, 68.95 % là giảng viên và 16.44 % là trợ giảng (câu hỏi số 4). Về thâm niên công tác, có 78.08% giảng viên có thâm niên giảng dạy dưới 12 năm, 13.47% từ 12 đến 25 năm và 7.53 % trên 25 năm kinh nghiệm (câu hỏi số 6). Thông tin về SV Có khoảng 60% sinh viên nam và 40% sinh viên nữ tham gia trả lời bảng hỏi, 9.89 % sinh viên năm 1, 28.42 % sinh viên năm 2, và 31.56 % sinh viên năm 3 và 17.49 % sinh viên năm 4 (câu hỏi số 4). 6.2.2.2. Phỏng vấn  Mục đích phỏng vấn: thu thập số liệu chứng minh cho giả thuyết, hỗ trợ cho phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.  Đối tượng phỏng vấn Để có thông tin về quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên tại từng đơn vị thành viên của ĐHQG - HCM, tôi đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn qua điện thoại các Thầy/Cô đang làm quản lý tại các phòng ban chuyên trách về công tác này. Danh sách Thầy/Cô đã trả lời phỏng vấn: 1. ThS. Đỗ Thành Thanh Sơn, Trưởng Ban Đảm bảo chất lượng (ĐBCL), Trường ĐHBK. 2. PGS.TS. Nguyễn Hữu Phúc, Trưởng khoa Điện – Điện tử, Trường ĐHBK. 3. PGS.TS. Dương Anh Đức, Phó Hiệu trưởng Trường ĐHKHTN. 4. Ông Nguyễn Minh Tuấn, Trưởng Ban Dữ liệu và Đánh giá Chất lượng Đào tạo (ĐGCLĐT), Trường ĐHKHTN 5. Ông Nguyễn Minh Trí, Tổ kiểm định chất lượng giáo dục đại học, Khoa Kinh tế. 6. ThS. Lê Văn Ngọ, Trưởng Trung tâm Đảm bảo chất lượng (ĐBCL), Trường Đại học Quốc tế (ĐHQT). 7. Ông Dương Ngọc Hảo, Chuyên viên phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng (KT&ĐBCL), Trường Đại học Công nghệ thông tin (ĐHCNTT). 8. Ông Nguyễn Phương Duy, Chuyên viên phòng KT&ĐBCL, Trường Đại học KHXH&NV.
  13.  Nội dung phỏng vấn a. Quy trình, công cụ của công tác quản lý lấy ý kiến sinh viên về đánh giá hoạt động của giảng viên. b. Tình hình tổ chức, triển khai hoạt động lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên c. Việc thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên của các nhà quản lý d. Việc sử dụng kết quả thu thập được để điều chỉnh, nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên của các nhà quản lý 6.2.3. Phương pháp thống kê Chúng tôi sử dụng phần mềm excel để xử lý số liệu điều tra thu thập được. 7. Giới hạn của đề tài Đề tài nghiên cứu thực trạng quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên tại 6 đơn vị bao gồm: Trường Đại học Bách Khoa, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhăn văn, Trường Đại học Khoa học tự nhiên, trường Đại học Quốc tế, trường Đại học Công nghệ thông tin, Khoa Kinh tế.
  14. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ CÔNG TÁC LẤY Ý KIẾN SINH VIÊN VỀ HOẠT ĐỘNG GIẢNG DẠY CỦA GIẢNG VIÊN 1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề Công tác lấy ý kiến sinh viên được thực hiện đầu tiên tại các trường đại học Châu Âu. Trước đây, do cách học đại học vẫn theo kiểu truyền thống là thầy đọc trò ghi chép vì thế sinh viên phải nhớ những kiến thức đã học được trên lớp một cách cứng nhắt. Lúc đấy sinh viên đánh giá giảng viên bằng 2 hình thức, một thông qua Ủy ban Sinh viên (do Hiệu trưởng bổ nhiệm) có nhiệm vụ theo dõi và báo cáo lịch biểu lên lớp của giảng viên cho Ban giám hiệu. Như thế, nếu có giảng viên nào không tuân thủ theo lịch giảng dạy đã được sắp xếp và không báo với Ban giám hiệu trước, sinh viên sẽ phản ánh đến Ủy ban này. Hình thức thứ hai được thực hiện thông qua việc đóng học phí của sinh viên, như vậy nếu giảng viên nào có số lượng sinh viên đăng ký học đông nghĩa là giảng viên đó được sinh viên đánh giá cao. Đây là hai hình thức đánh giá sơ khai của sinh viên dựa trên hiệu quả giảng dạy của giảng viên (Rashdall, 1936).[39] Trước năm 1960, hầu hết những nghiên cứu về công tác lấy ý kiến sinh viên được thực hiện bởi Herman Remmers (thuộc đại học Purdue, Hoa Kỳ) và các đồng nghiệp của ông. Hàng loạt những nghiên cứu về các chủ đề liên quan đến công tác lấy ý kiến sinh viên như “Mối liên hệ giữa kết quả học tập của sinh viên và đánh giá giảng viên” (1930), “Độ tin cậy của việc lấy ý kiến sinh viên để đánh giá giảng viên”(1934), “So sánh sự khác biệt giữa ý kiến của sinh viên tốt nghiệp và cựu sinh viên” (Drucker and Remmers, 1951). Nhờ vào các nghiên cứu của mình mà Remmers được mệnh danh là cha đẻ của các nghiên cứu về việc thực hiện lấy ý kiến sinh viên.[39 ] Tuy đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện về công tác lấy ý kiến sinh viên nhưng đến cuối những năm 1950 công tác này mới được chú trọng. Chính sự bất hợp lý về chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy thụ động của giảng viên, cũng như các dịch vụ hỗ trợ ngày càng xuống cấp của các trường đại học từ cuối những năm năm mươi đã khiến sinh viên ý thức được vai trò cần chủ động trong học tập, họ bắt đầu yêu cầu nhà trường thay đổi, muốn tham gia vào quá trình điều hành của trường và muốn nhà trường cập nhật chương trình để họ có thể
  15. thích nghi với bên ngoài khi tốt nghiệp và việc tham gia góp ý về chất lượng giảng dạy, chương trình đào tạo là một trong những con đường để sinh viên nói lên tiếng nói của mình.[38], [39]. Lúc đầu, tại một số trường đại học lớn, sinh viên tự thiết lập hệ thống đánh giá và công bố kết quả thu thập được. Sau đó, các trường đại học mới bắt đầu xây dựng hệ thống lấy ý kiến. Nhà quản lý và giảng viên có thể sử dụng thông tin thu thập được để điều chỉnh hoạt động quản lý và giảng dạy của mình. Vào thời điểm bắt đầu triển khai lấy ý kiến sinh viên, giảng viên tự nguyện thiết kế phiếu để sinh viên đánh giá môn học do mình giảng dạy, từ đó tự cải thiện hoạt động giảng dạy còn các nhà quản lý dựa trên các thông tin thu thập được để đưa ra các quyết định về nhân sự, cải tiến chất lượng đào tạo. Những năm 1970 thật sự là thời điểm vàng của các nghiên cứu về quản lý công tác lấy ý kiến sinh viên và các trường đại học tự xây dựng hệ thống quản lý cho mình ngày càng nhiều, trong đó quy mô và hình thức tổ chức khá đa dạng tùy theo điều kiện thực tế của mỗi trường. Theo các nhà nghiên cứu và quản lý giáo dục, trong ba nguồn thông tin quan trọng để quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên (đánh giá của Trưởng bộ môn, ý kiến đồng nghiệp, ý kiến sinh viên) thì ý kiến sinh viên là nguồn thông tin quan trọng nhất vì sinh viên rõ ràng là đối tượng tiếp xúc và thiếp thu nhiều nhất từ hoạt động giảng dạy của giảng viên (Centra, 1977a). Từ những năm 1980 đến giai đoạn hiện nay, vẫn tiếp tục có nhiều nghiên cứu được thực hiện về lĩnh vực này.[39] Tại Mỹ, năm 1978, có khoảng 64 phần trăm các trường đại học thực hiện việc đánh giá giảng viên, vào năm 1993 có 93 phần trăm, con số này đến hiện nay là hơn 98 phần trăm. Trường ĐH Northridge, California, Hoa Kỳ là một trong những trường đại học sớm áp dụng hệ thống và quy trình quản lý sinh viên đánh giá giảng viên từ những năm 1970. Phần lớn công việc lấy ý kiến phản hồi của sinh viên được thực hiện ở cấp trường chứ không thực hiện đơn lẻ ở từng khoa và bộ môn. Cứ mỗi cuối một học phần, các nhà quản lý lại tiến hành lấy ý kiến sinh viên.[ 40] Công tác quản lý lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên là một công tác quản lý phức tạp, đòi hỏi có tính tổ chức cao và sự phối hợp nhịp nhàng giữa nhiều yếu tố, bộ phận trong nhà trường. Tại một số Khoa thuộc trường ĐH Cơ khí và Khoa học máy tính - Hoa Kỳ, nhà trường yêu cầu giảng viên phát phiếu hỏi trên giấy. Toàn bộ quá trình xây dựng kế hoạch, theo dõi, quản lý được Phòng Tổ chức (College Personnel Committee) thực hiện. Trong
  16. trường hợp, nếu Phòng Tổ chức và Phòng Đánh giá chất lượng cùng điều hành công tác lấy ý kiến sinh viên tại trường, thì Phòng Tổ chức sẽ là đơn vị theo dõi và thực hiện việc góp ý giảng viên, Phòng Đánh giá chất lượng sẽ là nơi thu thập và xử lý số liệu. Để có thể chuẩn bị cho công tác lấy ý kiến sinh viên, các cán bộ trong Khoa sẽ chuẩn bị phiếu hỏi và gửi cho từng giảng viên, thông thường là giữa một học phần. Một bộ phiếu bao gồm bảng hỏi, và một trang giấy trắng để sinh viên viết bất cứ những nhận xét gì. Mỗi gói phiếu như thế (packet) được dán tên của từng giảng viên một cách cẩn thận, sau đấy chính giảng viên sẽ là người gửi lại Khoa toàn bộ các bảng hỏi. Các bảng hỏi lại được gửi trực tiếp lên cho Phòng Đánh giá chất lượng để xử lý số liệu của từng lớp, và trả bản gốc (phiếu hỏi) về lại cho Khoa. Trưởng Khoa là người đọc các góp ý viết tay của sinh viên và viết báo cáo gửi lên Phòng Đánh giá chất lượng. Ngay sau khi sinh viên có điểm môn học của giảng viên nào đấy, các giảng viên đó sẽ nhận được một bản báo cáo hoàn chỉnh tổng hợp các ý kiến của sinh viên trong lớp mà Thầy/Cô đó đã dạy, tất nhiên trong báo cáo đã có phần đánh giá. Một bản nữa sẽ được gửi đến Phòng Tổ chức để theo dõi chất lượng giảng dạy của giảng viên. Hàng năm, bộ phận này sẽ theo dõi và so sánh hiệu quả giảng dạy của chính giảng viên đó trong các học kỳ và trong các năm trước với nhau để từ đó có những biện pháp thích hợp đối với từng giảng viên cụ thể như nâng lương hay đề nghị cắt hợp đồng. Ngoài ra, tại một số trường còn thực hiện các chính sách như khuyến khích sinh viên đóng góp ý kiến, đặc biệt là làm thế nào để duy trì hoạt động này. [39] Tại Ấn Độ, công tác lấy ý kiến sinh viên được triển khai rộng theo mô hình chung do Hội đồng Đánh giá và Kiểm định Quốc gia (National Assessment and Accreditation Council, viết tắt là NAAC) chủ trì quản lý. Thông thường nhà trường chỉ cần lấy những ý kiến cơ bản nhất của sinh viên, chẳng hạn như khảo sát xem sinh viên có hài lòng về môi trường học tập không, phương pháp giảng dạy, kinh nghiệm giảng dạy của giảng viên, chương trình, tài liệu…Hình thức hỏi là phát phiếu hỏi hoặc cho thảo luận theo từng lớp rồi gửi câu trả lời lại cho trường. Trước khi khảo sát, nhà trường sẽ thông báo với sinh viên là các ý kiến được bảo mật. Sau khi khảo sát, nhà trường cần chứng tỏ là có sử dụng các ý kiến đó thông qua một số điều chỉnh nhỏ về quản lý của mình, ngoài ra sinh viên sẽ được thông báo về việc nhà trường có thực hiện các ý kiến phản hồi hay không. [42] Theo mô hình tổ chức lấy ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên của Hội đồng Kiểm định và đánh giá quốc gia Ấn Độ, các trường đại học cần thực hiện ba khâu cơ bản
  17. khi tiến hành lấy ý kiến sinh viên. Khâu thứ nhất là thiết kế bảng hỏi, trong đó bao gồm mục đích, mục tiêu, nội dung lấy ý kiến và phương pháp lấy ý kiến. Khâu thứ hai là khâu chuẩn bị do bộ phận đảm bảo chất lượng của nhà trường phụ trách, bao gồm chuẩn bị biểu mẫu, quy trình, lịch trình, và danh sách giảng viên được lấy ý kiến. Cuối cùng là khâu tổ chức thực hiện liên quan đến các vấn đề như đối tượng phát phiếu, thời gian tổ chức lấy ý kiến, hướng dẫn bản hỏi cho giảng viên và sinh viên, xử lý thông tin và việc sử dụng kết quả lấy ý kiến.[43] Ngoài việc tổ chức lấy ý kiến sinh viên bằng hình thức phát phiếu, các trường đại học ngày nay còn tổ chức lấy ý kiến sinh viên qua mạng rất nhiều. Hình thức lấy ý kiến sinh viên qua mạng có điểm thuận lợi là giúp sinh viên và các nhà quản lý chủ động, tiết kiệm thời gian, chi phí hơn so với việc tổ chức lấy ý kiến bằng phiếu hỏi mà vẫn giữ được mục đích của việc lấy ý kiến sinh viên. Tuy nhiên, để việc lấy ý kiến qua mạng đạt hiệu quả nhà trường cần có các điều kiện như có đội ngũ chuyên gia về công nghệ thông tin và mạng nội bộ phải nhanh và được phổ biến đến tất cả sinh viên [48]. Tại Việt Nam, kể từ khi Bộ GD & ĐT ra Quyết định số 38/2004/QĐ-BGD&ĐT năm 2004 về việc ban hành Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học đã có nhiều trường triển khai các hoạt động đánh giá chất lượng giảng dạy thông qua ý kiến sinh viên. Một trong những trường đại học triển khai đầu tiên là Trường Đại học Nha Trang. Mục đích lấy ý kiến sinh viên của nhà trường là giúp các nhà quản lý tại các đơn vị có liên quan như Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo, Phòng Đảm bảo chất lượng và Khảo thí (ĐBCL&KT), các Khoa nắm được tình hình giảng dạy, chất lượng phục vụ và việc đáp ứng cơ sở vật chất của trường thông qua ý kiến phản hồi từ sinh viên. Bộ phận trực tiếp tổ chức lấy ý kiến là phòng ĐBCL&KT. Quy trình lấy ý kiến sinh viên tại Trường Đại học Nha Trang gồm tám bước như nhà trường thông báo kế hoạch lấy ý kiến SV, gửi bảng phân công cán bộ đi thu thập về phòng ĐBCL ĐT&KT, phân công cán bộ lấy phiếu, hướng dẫn cách thu thập thông tin, gửi kết quả khảo sát về phòng ĐBCL ĐT&KT để xử lý và lập báo cáo gửi cho Ban giám hiệu. Từng công việc cụ thể đều được xây dựng gắn liền với thời gian, đơn vị phụ trách và công cụ làm việc. [33]. Bảng 1.1. Quy trình tổ chức lấy ý kiến sinh viên tại trường Đại học Nha Trang Bước Nội dung Đơn vị thực Thời gian thực hiện Biểu hiện mẫu liên quan
  18. 1 Thông báo kế hoạch lấy ý Phòng ĐBCL 5 tuần trước khi kết thúc Mẫu phiếu kiến sinh viên ĐT & KT từng đợt giảng dạy thu thập thông tin 2 Gửi bản phân công cán bộ Các Khoa 3 tuần trước khi kết thúc đi thu thập về Phòng từng đợt giảng dạy ĐBCL ĐT & KT 3 Cán bộ được phân công lấy Cán bộ được 2 tuần trước khi kết thúc phiếu và được hướng dẫn phân công đợt giảng dạy cách thu thập thông tin tại Phòng ĐBCLĐT & KT 4 Cán bộ phát, thu và niêm Cán bộ được 1 tuần trước khi kết thúc phong các phiếu đã được phân công đợt giảng dạy thu thập tại các lớp 5 Nộp túi niêm phong về Cán bộ được Sau khi hoàn tất việc lấy Phòng ĐBCL ĐT & KT phân công ý kiến 6 Xử lý kết quả khảo sát Phòng ĐBCL ĐT & KT Gửi kết quả khảo sát cho Phòng ĐBCL Cuối đợt khảo sát 7 CBGD, Khoa và lưu tại ĐT & KT Phòng ĐBCL ĐT & KT 8 Lập báo cáo tổng hợp trình Phòng ĐBCL Cuối đợt khảo sát Ban Giám hiệu ĐT & KT Đối với hình thức lấy ý kiến sinh viên qua mạng, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, thuộc ĐHQG - HCM (ĐHKHTN) là một trong những đơn vị đầu tiên triển khai công tác này. Nhà trường đã xây dựng công cụ và quy trình tổ chức lấy ý kiến sinh viên về môn học và khóa học, trong đó có bao gồm cả hoạt động giảng dạy của giảng viên. Nhà trường đã đề nghị các sinh viên tham gia đánh giá môn học tại website http://www.hcmus.edu.vn/ với các hướng dẫn cụ thể như cách đăng nhập tài khoản, chọn phiếu khảo sát… Các sinh viên khi tham gia đánh giá sẽ được đề xuất cộng tối đa 10 điểm vào điểm rèn luyện trong năm học theo Quy chế của nhà trường. 1.2. Cơ sở lý luận 1.2.1. Lý luận về quản lý 1.2.1.1 Khái niệm quản lý Quản lý là một khái niệm rộng mang tính tổng quát cao. Quản lý vừa là một khoa học, vừa là nghệ thuật trong việc điều khiển một hệ thống xã hội ở tầm vĩ mô và vi mô. Ngày nay, thuật ngữ quản lý trở nên rất phổ biến nhưng thật khó để có thể đưa ra một định nghĩa toàn diện và
  19. thống nhất. Có ý kiến cho rằng quản lý là hoạt động nhằm đảm bảo sự hoàn thành công việc thông qua sự nỗ lực của người khác, nhưng cũng có ý kiến cho rằng quản lý là một hoạt động cần thiết đảm bảo sự phối hợp các nỗ lực cá nhân để đạt mục tiêu chung của nhóm. Có rất nhiều khái niệm về quản lý: Theo Tailor thì "Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc gì, hãy chú ý đến cách tốt nhất, kinh tế nhất mà họ làm".[17 ] Theo Fayel thì "Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”.[ 10] Theo Hard Koont thì "Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt giúp con người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định".[10 ] Theo Peter F Druker thì "Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của nó không nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó không nằm ở sự logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích".[20 ] Theo A. Fayol, nhà lý luận quản lý kinh tế, thì “Quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra”.[17 ] Từ các nhận định trên có thể hiểu “Quản lý là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục tiêu đã đề ra”. [17 ] 1.2.1.2. Khái niệm quản lý giáo dục Hoạt động quản lý giáo dục được bắt nguồn và dựa trên các nguyên tắc quản lý trong công nghiệp và thương mại. Hầu hết trước đây các lý thuyết và mô hình về quản lý giáo dục dựa trên các mô hình quản lý công nghiệp, dần dần bằng sự quan sát, kinh nghiệm mà các nhà giáo dục đã điều chỉnh các mô hình này đáp ứng các yêu cầu đặc trưng riêng của ngành giáo dục. Quản lý giáo dục được hiểu là quản lý các hoạt động giáo dục một cách hiệu quả trong tình huống thực tế. Theo các nhà thực hành có một khoảng cách khá lớn giữa việc hiểu lý thuyết quản lý và thực hiện các lý thuyết đó trong tình huống thực tiễn. Theo Hoyle (1986) rõ ràng có sự chênh lệch giữa việc hiểu và ứng dụng lý thuyết quản lý. Mặc dù cả lý thuyết và thực hành đều quan trọng, nhưng đối với các nhà quản lý giáo dục thì việc ứng dụng lý thuyết cực kỳ quan
  20. trọng[17], ví dụ việc quản lý một trường tiểu học nhỏ ở một vùng sâu, vùng xa chắc chắn sẽ khác rất nhiều so với quản lý một trường đại học tại một thành phố lớn. Khái niệm “quản lý giáo dục” có nhiều cấp độ trong đó it nhất có hai cấp độ quản lý chủ yếu là quản lý cấp vĩ mô và cấp vi mô. Quản lý vĩ mô tương ứng với việc quản lý bao quát toàn hệ thống, quản lý vi mô là quản lý những hoạt động có quy mô nhỏ hơn và chịu sự chi phối của quản lý vĩ mô. Theo chương VII của Luật giáo dục Việt Nam năm 2005, quản lý giáo dục hay quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo bao gồm các nội dung chính sau:  Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục;  Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục; ban hành điều lệ nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục khác;  Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ;  Tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất lượng giáo dục;  Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục;  Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục;  Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục;  Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục;  Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực giáo dục;  Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục;  Quy định việc tặng danh hiệu vinh dự cho người có nhiều công lao đối với sự nghiệp giáo dục;  Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2