intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Thực trạng và biện pháp quản lý hoạt động học ở Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:105

138
lượt xem
30
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở khảo sát thực trạng công tác quản lý hoạt động học ở trường luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Thực trạng và biện pháp quản lý hoạt động học ở Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao kết quả hoạt động học và chất lượng đào tạo của nhà trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Thực trạng và biện pháp quản lý hoạt động học ở Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh

  1. THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Thuận THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TRUNG ƯƠNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Quản lý Giáo dục Mã số: 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
  2. LỜI CẢM ƠN  Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Khoa học công nghệ - Sau đại học, Khoa Tâm lý trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.  Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô đã tận tình giảng dạy, chỉ dẫn cho tôi những tri thức, kinh nghiệm, bài học quý báu.  Đặc biệt, xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Hạnh đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.  Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo và toàn thể giảng viên, cán bộ, công nhân viên trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện cho tôi cả về thời gian, tinh thần, vật chất trong suốt 3 năm qua.  Xin chân thành cảm ơn các anh, chị học viên lớp cao học khóa 18, chuyên ngành Quản lý giáo dục đã chia sẻ tinh thần, tình cảm cho tôi trong suốt khóa học. TP.Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2009 Nguyễn Thị Thuận
  3. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. Các chữ viết tắt AN : Âm nh c CĐSP TW TP.HCM : Cao đ ng S ph m Trung ng thành ph H Chí Minh CBQL : Cán b qu n lý DH : Dạy học GD : Giáo dục GDĐB : Giáo dục Đặc biệt GV : Giảng viên HTNL : Học tập ngoài lớp MN : Mầm non MT : Mỹ thuật SP : Sư phạm SV : Sinh viên F : S phi u N : Tổng số X : Trung bình
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dạy học là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, cùng với hoạt động giáo dục, hoạt động dạy học góp phần tạo nên chất lượng giáo dục – đào tạo của nhà trường. Dạy học là hoạt động kép gồm hai hoạt động. Dạy do giáo viên đảm nhận và học do học sinh đảm nhận. Dạy hướng đến học, điều khiển học và làm cho học thành công. Vì thế học là họat động trung tâm và là xuất phát điểm của hoạt động dạy học. Nếu quản lý họat động học tốt sẽ tạo nên chất lượng và hiệu quả cao cho họat động dạy học. Tuy nhiên, trong thực tiễn dạy và học thì họat động dạy thường được chú ý, quan tâm và đầu tư nhiều hơn so với họat động học. Ngay trong công tác quản lý trường học thì quản lý họat động dạy cũng được dành quá nhiều thời gian và công sức của các nhà quản lý so với quản lý hoạt động học. Nghiên cứu về hoạt động dạy học, trong đó nghiên cứu về họat động dạy và quản lý hoạt động dạy có rất nhiều đề tài được thực hiện, chẳng hạn như “Cải tiến quản lý quá trình dạy học nhằm thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học” (Luận văn Thạc sĩ của Hoàng Cơ Chinh) [6]; “Thực trạng về quản lý hoạt động giảng dạy ở các trường tiểu học thành phố Cà Mau (Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học chuyên ngành Quản lý Giáo dục của Mai Văn Lợi) [28]; “Thực trạng quản lý hoạt động giảng dạy tại trường Đại Học Mở TP. Hồ Chí Minh (Luận văn Thạc sĩ giáo dục học của Nguyễn Thị Nhận) [35]... Song nghiên cứu về hoạt động học và quản lý hoạt động học thì chưa có nhiều công trình triển khai. Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương thành phố Hồ Chí Minh trước đây là trường Cao đẳng Sư phạm Mẫu giáo Trung ương 3 chuyên đào tạo giáo viên mầm non có trình độ cao đẳng đáp ứng yêu cầu giáo dục của các trường mầm non phía Nam. Sinh viên thi tuyển vào trường này đa phần là từ các tỉnh phía Nam, các em học và ở nội trú tại trường nên việc quản lý họat động học của họ có nhiều thuận lợi nhưng cũng có nhiều khó khăn so với các trường đào tạo nghề khác. Từ những lý do và sự phân tích ở trên, chúng tôi chọn đề tài: “Thực trạng và biện pháp quản lý hoạt động học ở trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương thành phố Hồ Chí Minh” được thực hiện. 2. Mục đích nghiên cứu
  5. Trên cơ sở khảo sát thực trạng công tác quản lý hoạt động học ở trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương thành phố Hồ Chí Minh, đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao kết quả hoạt động học và chất lượng đào tạo của nhà trường. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1 Khách thể: Quản lý hoạt động dạy học của trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương thành phố Hồ Chí Minh. 3.2 Đối tượng: Thực trạng và biện pháp quản lý hoạt động học tại trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương thành phố Hồ Chí Minh. 4. Giả thuyết khoa học Hiện nay, sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện hoạt động học và đạt được kết quả nhất định nhưng vẫn còn thiếu tính tự giác, tích cực và độc lập. Nguyên nhân của thực trạng này có thể do động cơ học tập, phương pháp học tập của sinh viên hoặc do hoạt động dạy,… trong đó công tác quản lý hoạt động học của sinh viên chưa khoa học và kém hiệu quả. Cần đề ra các biện pháp quản lý hoạt động học hợp lý nhằm nâng cao kết quả hoạt động học và chất lượng đào tạo của nhà trường. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu. 5.2 Khảo sát thực trạng công tác quản lý hoạt động học ở trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương thành phố Hồ Chí Minh. 5.3 Đề xuất một số biện pháp quản lý nâng cao kết quả hoạt động học của sinh viên ở trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương thành phố HCM. 6. Giới hạn đề tài Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu công tác quản lý hoạt động học ngoài lớp của sinh viên hệ chính quy trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương thành phố Hồ Chí Minh. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1 Phương pháp luận  Quan điểm hệ thống – cấu trúc: Xem xét hoạt động học trong mối tương quan với hoạt động dạy và các thành tố của hoạt động dạy.  Quan điểm hoạt động – nhân cách: Tác động đến các yếu tố của hoạt động học như động cơ, tính tích cực,… thông qua hoạt động, mà ở đây là hoạt động dạy và hoạt động học.
  6.  Quan điểm lịch sử: Nghiên cứu hoạt động học ngoài lớp của sinh viên trong điều kiện dạy, học hiện tại, ở đó, các điều kiện phục vụ học ngoài lớp thuận lợi và phong phú. 7.2 Phương pháp nghiên cứu 7.2.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài. 7.2.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn  Phương pháp thăm dò bằng phiếu: Sử dụng phiếu gồm các câu hỏi kín và các câu hỏi mở về công tác quản lý hoạt động học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương thành phố Hồ Chí Minh.  Phương pháp quan sát hoạt động học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương thành phố Hồ Chí Minh ngoài giờ lên lớp, ở Ký túc xá.  Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện với sinh viên, giảng viên và cán bộ quản lý nhằm tìm hiểu sâu hoạt động học và quản lý hoạt động học.  Phương pháp xin ý kiến chuyên gia. 7.2.3 Phương pháp toán thống kê: Sử dụng phần mềm SPSS for window để xử lý số liệu.
  7. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1 . Tổng quan vấn đề nghiên cứu ● Nghiên cứu về học trong quan hệ với dạy. Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà giáo dục lỗi lạc cũng đã quan tâm nghiên cứu hoạt động học trong quan hệ với hoạt động dạy, đặc biệt nhấn mạnh tính tích cực, độc lập của người học. Khổng Tử (551 – 479 Tr.CN) là người rất coi trọng tính tích cực nhận thức của học sinh. Theo ông, thầy giáo chỉ giúp học trò cái mấu chốt nhất, còn mọi vấn đề khác học trò phải từ đó mà tìm ra: “Không tức giận vì muốn biết thì không gợi mở cho, không bực vì không rõ thì không bày vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc mà không suy ra ba góc kia thì không dạy nữa” [Lịch sử giáo dục thế giới, 47, tr.60]. - Nhà sư phạm vĩ đại J.A.Comenxki (1592-1670) đã đưa ra những yêu cầu cải tổ nền giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Theo ông, dạy học phải làm như thế nào để người học tự tìm tòi, suy nghĩ để tự nắm bắt lấy bản chất của sự vật và hiện tượng. - Các nhà giáo dục ở thế kỉ XVIII và XIX như Pextalodi (1746-1827), Disterverg (1790-1886), Usinxki (1824-1870)... đã nhấn mạnh cách làm cho người học giành lấy kiến thức bằng con đường tự khám phá, tự tìm tòi. Những tư tưởng về vấn đề học trong quan hệ với hoạt động dạy của các nhà giáo dục tiền bối đến nay vẫn còn giá trị, đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển của nền giáo dục hiện đại, gợi ra một hướng đi đúng đắn khi nghiên cứu về hoạt động học của người học, đặc biệt là học ngoài giờ lên lớp. - Các nhà giáo dục hiện đại đã đi sâu nghiên cứu khoa học giáo dục và tiếp tục khẳng định vai trò của hoạt động học trong quan hệ với hoạt động dạy, tìm kiếm những cách thức để nâng cao hiệu quả, chất lượng học ở người học dưới sự chỉ đạo của giáo viên trong quá trình dạy học. Bàn về các phương pháp học tập H.A. Rubakin đã trình bày trong cuốn “Tự học như thế nào”: sẽ có hứng thú với việc học khi nó mang lại một cái gì mới mẻ, thiết thực cho cuộc sống của bạn; phải tin vào sức mạnh và khả năng của mình và phải nỗ lực hết khả năng để học một cách thường xuyên và có hệ thống [45]
  8. M.U.Piskunov và X.G.Luconhin chỉ ra những phương pháp học cần thiết đảm bảo cho người học đạt kết quả cao. Trong đó các tác giả rất coi trọng phương pháp đọc sách, coi đó là phương pháp quan trọng nhất của hoạt động học ngoài giờ lên lớp. Các khía cạnh của học (đọc sách), cũng được các tác giả L.P.Doborop bàn đến trong tác phẩm “Những khía cạnh tâm lý của việc đọc sách” và A.Primacopxki với cuốn “Phương pháp đọc sách”; N.A.Rubakin bàn đến trong cuốn “Tự học như thế nào”: đọc sách phải đào sâu suy nghĩ, phải hiểu, phải kiểm tra lại (ngẫm nghĩ những điều trong sách, đưa nó vào trong cuộc sống, kiểm tra chúng... phải so sánh, phân loại, tổng hợp để những kiến thức đọc được không lẫn lộn như một mớ bòng bong. Tác giả cũng nêu trình tự đọc sách: đọc tựa đề – mục lục - đọc toàn bộ sách - đọc sâu (nghiên cứu); đọc phải trả lời các câu hỏi: cái gì là chính, cái gì là phụ? có phải bao giờ sự kiện ấy cũng xảy ra như thế không? làm thế nào thay đổi sự kiện ấy?...[45, tr.51] Hai nhà giáo dục Ấn Độ S.D.Sharma và Shakti R.Ahmed, trong tác phẩm “Phương pháp dạy học ở trường đại học” đã trình bày hoạt động học ngoài giờ lên lớp như một hình thức dạy học có hiệu quả. - Các nhà giáo dục học Việt Nam như Đặng Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ [14], Nguyễn Cảnh Toàn [48; 49; 50], Trịnh Quang Từ [52], Nguyễn Kì [20; 21], Nguyễn Ngọc Bảo và Hà Thị Đức [2], Võ Quang Phúc [38],... đã có nhiều công trình nghiên cứu về học ngoài giờ lên lớp. Trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã đề cập đến nhiều lĩnh vực liên hệ đến hình thức học này, từ khái niệm, các hình thức học, phương pháp học cho đến các biện pháp sư phạm của người dạy nhằm nâng cao chất lượng hoạt động học ngoài giờ lên lớp. Những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng học ngoài lớp cũng được các tác giả nghiên cứu trong công trình như động cơ, mục đích học tập, hứng thú học tập bộ môn,... hay những nguyên nhân khách quan như tài liệu tham khảo, việc tổ chức thi cử... Nhìn chung các tác giả trong và ngoài nước đều xem học và học ngoài giờ lên lớp như là bộ phận của hoạt động dạy học, một thành phần không thể thiếu được của quá trình dạy học, mà đỉnh cao của học là tự tìm tòi, tự khám phá. ● Nghiên cứu về quản lý hoạt động học ngoài giờ lên lớp cũng được bàn đến trong đề tài : “Quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực tự học cho học sinh trung học phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh” (Luận văn Thạc sĩ của Lê Khắc Mỹ Phượng) [40]; “Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên trường sĩ quan lục quân 2” (Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học của Trần Bá Khiêm) [19]; “Thực trạng công tác quản lý của Hiệu trưởng đối
  9. với hoạt động tự học của học sinh THPT, huyện Thốt Nốt, Cần Thơ” (Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học của Lê Thị Thanh Tú) [51]. Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến việc quản lý hoạt động tự học của học sinh, sinh viên trong quan hệ với hoạt động dạy, mà cụ thể là phương pháp dạy học; đến các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng để nâng cao năng lực tự học của học sinh; hoặc các biện pháp nặng về mặt hành chính trong việc quản lý hoạt động tự học của học viên. 1.2. Hoạt động học ngoài lớp của sinh viên 1.2.1. Khái niệm hoạt động học tập ngoài lớp của sinh viên Trong cuộc sống thường ngày, từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, lúc nào con người cũng học được một cái gì đó – học trong cuộc sống. Cách học này chỉ đưa lại cho con người những tri thức tiền khoa học. Song thực tiễn đòi hỏi con người phải có những tri thức khoa học thực sự, năng lực thực tiễn mới thì phương thức học trong cuộc sống trở nên bất lực không đáp ứng được. Một phương thức đặc thù (phương thức nhà trường) mới có khả năng tổ chức để cá nhân tiến hành một hoạt động đặc biệt, gọi là hoạt động học. Vậy, “học” là khái niệm dùng để chỉ việc học diễn ra theo phương thức hàng ngày, còn “hoạt động học” là khái niệm dùng để chỉ việc học diễn ra theo phương thức đặc thù nhằm lĩnh hội những hiểu biết mới, kỹ năng, kỹ xảo mới. Trong luận văn này, chúng tôi nói đến hoạt động học. Hoạt động học là sự chiếm lĩnh kinh nghiệm của nhân loại dưới ảnh hưởng của những tác động dạy. - Động cơ học tập của sinh viên rõ ràng và mãnh liệt vì gắn với động cơ nghề nghiệp, động cơ thành đạt. - Mục đích học tập của sinh viên cũng cụ thể, rõ ràng, rộng hơn và luôn gắn với nghề nghiệp. Việc chuyển hóa giữa mục đích và phương tiện học tập trong quá trình học tập diễn ra nhanh chóng và hiệu quả. - Các hành động học tập của sinh viên mang tính chất học tập, vừa mang tính chất nghiên cứu khoa học vừa sức. - Các phương tiện và điều kiện học tập của sinh viên rộng và phong phú. Sinh viên huy động tất cả các nguồn lực trong tay và gần trong tầm tay phục vụ cho việc học tập và lập nghiệp.
  10. Từ những phân tích ở trên, theo chúng tôi hiểu hoạt động học tập của sinh viên là quá trình chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và giá trị nghề nghiệp dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Việc chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng và đạo đức nghề của sinh viên diễn ra ở trên lớp có sự hướng dẫn trực tiếp của giảng viên và còn diễn ra ở ngoài lớp có sự hướng dẫn gián tiếp của giảng viên. Hoạt động học tập diễn ra ở ngoài lớp là sự tiếp nối việc học ở trên lớp mà không có sự hướng dẫn trực tiếp của giảng viên vì sự hướng dẫn được diễn ra trước đó. Học tập ở ngoài lớp cũng có cấu trúc của hoạt động học như động cơ học, mục đích và nhiệm vụ học tập, các hành động học, các phương tiện và điều kiện học tập. Tuy nhiên, học tập ngoài lớp có những đặc trưng như sau: - Nhu cầu, động cơ học tập phải cao, phải đủ mạnh để thúc đẩy hoạt động học tập diễn ra. - Tính tự giác, tích cực, tự chủ, tính độc lập cao trong quá trình sinh viên tự tổ chức và điều khiển hoạt động học tập ngoài lớp. - Ý chí trong học tập phải mạnh để giúp sinh viên vượt qua những khó khăn trên con đường áp dụng phương pháp học, theo đuổi việc học đến cùng. - Tự kiểm tra, tự đánh giá và tự điều chỉnh thường xuyên hoạt động học để đạt được mục đích, nhiệm vụ học tập được giao. Từ những đặc điểm trên, theo chúng tôi có thể hiểu học tập ở ngoài lớp là một bộ phận của hoạt động dạy học mà ở đó người học tự lực giải quyết các nhiệm vụ học tập nhằm vận dụng tri thức hình thành kỹ năng, củng cố và bổ sung, hệ thống hóa tri thức, kỹ năng, hoặc chuẩn bị cho việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng mới ở trên lớp dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giảng viên. 1.2.2. Ý nghĩa của học tập ngoài lớp - Học tập ở ngoài lớp giúp sinh viên vận dụng tri thức, củng cố, đào sâu kiến thức, khái quát và hệ thống hoá kiến thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. - Học tập ngoài lớp cho phép người học tiến theo nhịp độ riêng phù hợp với năng lực của bản thân, điều đó giúp người học chủ động lựa chọn và quyết định một phong cách học hiệu quả.
  11. - Học tập ngoài lớp giúp sinh viên tự lực nắm vững tri thức, kĩ năng kĩ xảo về nghề nghiệp tương lai, họ tự vận động từng bước biến vốn kinh nghiệm lịch sử của loài người thành vốn tri thức riêng của cá nhân - vai trò chủ thể hoạt động nhận thức được thể hiện ở trình độ cao. - Học tập ngoài lớp hình thành và rèn luyện năng lực, hứng thú, thói quen, phương pháp tự học thường xuyên. - Học ngoài lớp hình thành niềm tin khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, tính kiên trì, óc phê phán, bồi dưỡng lòng say mê nghiên cứu khoa học... - Học tập ngoài lớp cho phép sinh viên tự kiểm tra mức độ lĩnh hội kiến thức, kỹ năng làm cơ sở cho tự điều chỉnh hoạt động học và tự học của chính sinh viên. Vì những lẽ trên, việc khơi dậy, phát triển khả năng học tập ngoài lớp cho sinh viên sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có của mỗi người, kết quả học tập sẽ được nâng cao. 1.2.3. Mục đích của hoạt động học tập ngoài lớp Học tập ở ngoài lớp là bộ phận của hoạt động dạy học nên cũng chung mục đích là lĩnh hội tri thức, kỹ năng và giá trị. Tuy nhiên, mục đích trội của hoạt động học tập ở ngoài lớp của sinh viên hướng đến: - Mở rộng, đào sâu tri thức, kỹ năng, - Vận dụng tri thức hình thành kỹ năng, - Củng cố tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đã được hình thành, - Tự kiểm tra, đánh giá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,… Rõ ràng là mục đích chính của học tập ngoài lớp ít gắn với việc lĩnh hội tri thức mới mà chủ yếu là củng cố, vận dụng tri thức, kỹ năng, bổ sung, hoàn thiện tri thức, kỹ năng đã lĩnh hội, hoặc chuẩn bị cho việc lĩnh hội khái niệm mới ở trên lớp. Chúng ta cũng biết, hoạt động học tập ở trên lớp bị khống chế về mặt thời gian nên sinh viên không kịp nắm chắc khái niệm hoặc vận dụng khái niệm vào thực tiễn để hình thành kỹ năng. Nên học tập ngoài lớp là hoạt động học tập tiếp theo hoạt động học tập ở trên lớp. Do đó, học tập ngoài lớp cũng có các nhiệm vụ, nội dung cụ thể, xác định. 1.2.4. Nội dung học tập ngoài lớp của sinh viên  Ôn tập Việc ôn và tập (vẫn quen gọi chung là ôn tập) được diễn ra ngay sau khi học xong một bài, nhưng nó cũng được diễn ra khi học xong một chương, một phần hay môn học. Nó giúp
  12. sinh viên xác nhận lại thông tin đã lĩnh hội, tổ chức lại thông tin, góp phần củng cố và khắc hoạ thông tin để có thể sử dụng thông tin có hiệu quả trong hoạt động thực hành ở nhiều mức độ khác nhau. Ôn tập gồm hai hoạt động, đó là hoạt động ôn và hoạt động luyện tập. Hoạt động ôn gồm hàng loạt các hoạt động cụ thể nhằm mục đích nhắc lại, xem lại, lặp lại bài học với tất cả những tương tác đã xảy ra trong giờ học chứ không đơn thuần là nhắc lại lời thầy giảng như: * Xem lại bài ghi Xem lại bài ghi được thực hiện ngay khi nội dung của bài giảng vẫn còn rất mới đối với họ, nhờ vậy họ có thể làm rõ ràng được những ý mà họ chưa hiểu và bổ sung thêm các chi tiết mà họ đã bỏ sót. Khi ôn lại bài học, sinh viên nên tiến hành theo các bước sau: - Nhớ lại tư tưởng chủ đạo của bài giảng (bài giảng nói về vấn đề gì, giải quyết vấn đề gì và giải quyết như thế nào). - Nhớ lại cấu trúc các phần, các mục và từng nội dung trong mỗi mục. Chỉ giở vở xem lại khi đã cố gắng mà vẫn không nhớ lại được. * Bổ sung bài ghi bằng các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau - Sau khi đã nhớ lại cấu trúc của bài học và những nội dung quan trọng, sinh viên cần tìm đọc những tài liệu liên quan đến bài học được giảng viên chỉ định và qua trao đổi với bạn khi học nhóm, làm bài tập thực hành ứng dụng để chỉnh lý, bổ sung, mở rộng, đào sâu cho nội dung bài học. Công việc này giúp sinh viên hiểu đúng bản chất khái niệm. - Nhận diện cấu trúc của từng phần và toàn bài, giúp sinh viên tái nhận bài học dưới dạng cô đọng. Đây là bước khái quát hoá, hệ thống hoá khái niệm, bỏ đi những dấu hiệu không bản chất như những biện luận, ví dụ minh họa mà đã được đưa vào để thông hiểu khái niệm. Sinh viên có thể sử dụng sơ đồ hoặc bảng hệ thống để hệ thống hoá các khái niệm trong một bài, một chương hoặc nhiều chương,… * Dựng lại bài học Là khâu mở rộng khái niệm với tất cả các góc cạnh, bình diện phong phú của nó. Chúng tôi đưa ra hai mức sau: - Dựng lại một khái niệm (chúng tôi gọi là “viết các đoạn văn), sinh viên có thể chọn một khái niệm cơ bản, quan trọng trong bài học và viết về khái niệm đó với tất cả hiểu biết liên quan đến khái niệm bằng ngôn ngữ của chính họ – viết đoạn văn. - Dựng lại bài học. Khi sinh viên đã hiểu đúng bản chất các khái niệm và có kỹ năng viết, họ có thể dựng lại cả bài học bằng tất cả những thông tin liên quan đến nội dung bài học
  13. mà sinh viên không chỉ tiếp thu từ bài diễn giảng trên lớp, mà còn bao gồm cả những thông tin liên quan đến bài học được sinh viên tiếp thu từ nhiều nguồn khác nhau. Như vậy, những việc làm trên không chỉ liên quan đến quá trình ghi nhớ tri thức, củng cố tri thức hoặc xác lập kết quả nắm vững tri thức bài học của sinh viên, mà còn liên quan đến hoạt động thực hành của họ, nó cho phép sinh viên chuyển dịch kiến thức từ cấu trúc gốc (bài giảng của giáo viên, tài liệu và sách đọc) sang cấu trúc bài viết do sinh viên xác lập dựa trên kết quả tư duy logic, nhờ đó tư duy phát triển, rèn luyện tính độc lập trong quá trình xử lý thông tin theo khả năng của mình, làm cho thông tin từ bài giảng, bài ghi chép của sinh viên mang ý nghĩa vận dụng kiến thức đã học phục vụ cho các tình huống học tập khác - công tác thực hành. Luyện tập (thực hành) Tập hay thực hành là vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Thực hành có nhiều mức độ khác nhau như luyện tập gắn liền với từng môn, từng chuyên đề được áp dụng sau khi học xong một bài, một chương hoặc thực hành bộ môn hoặc liên môn được tiến hành sau khi học xong một môn (bài tập nghiên cứu – “bài tập lớn”),… Thực hành có thể theo mẫu hoặc không theo mẫu. Các bài luyện tập có thể là: - Vận dụng kiến thức đã học để giải thích các hiện tượng trong thực tế cuộc sống, thực tiễn nghề nghiệp. Ví dụ, dùng những kiến thức về đặc điểm tâm sinh lý trẻ mầm non, giáo dục trẻ mầm non để giải thích các biểu hiện về tâm lý, phương pháp giáo dục trẻ trong gia đình, ở trường mầm non,… - Giải các bài tập theo các bước và phương pháp, phương tiện đã được hướng dẫn. Ví dụ, thiết kế trò chơi cho trẻ mầm non hoặc xử lý các tình huống giáo dục mầm non, hoặc giải quyết các tình huống về quản lý giáo dục ở bậc mầm non. - Bài tập thực hành bộ môn. - Bài tập nghiên cứu trong đợt thực tập nghề nghiệp. - Làm khóa luận hay đồ án tốt nghiệp. * Bài tập thực hành bộ môn thường được gọi là “bài tập lớn” hay “niên luận”, đó là một loại công trình nghiên cứu - học tập được sinh viên hoàn thành để thay thế cho bài kiểm tra hoặc thi hết môn học, kết thúc học phần. Bài tập nghiên cứu của sinh viên phản ánh mức độ vận dụng tổng hợp các kiến thức trong một môn học, kiến thức giữa các môn khoa học (môn khoa học cơ bản, cơ sở và môn khoa học chuyên ngành); phản ánh mức độ vận dụng
  14. các phương pháp nghiên cứu khoa học vào nghiên cứu một vấn đề nhỏ liên quan đến nghề nghiệp tương lai và thể hiện bằng kết quả nghiên cứu. - Bài tập nghiên cứu của sinh viên cao đẳng, đại học phải đảm bảo các yêu cầu sau đây: + Phải giải quyết được các nhiệm vụ nghiên cứu của một đề tài nhỏ về mặt lý luận hoặc thực tiễn, hoặc kết hợp cả hai mặt đó. + Phải đảm bảo tính logic khoa học, được trình bày rõ ràng, sáng sủa, sạch đẹp, đảm bảo yêu cầu về nội dung và hình thức của một bài tập nghiên cứu. - Quy trình thực hiện bài tập nghiên cứu + Lựa chọn và chính xác hoá đề tài. + Lập kế hoạch nghiên cứu gồm: xác định mục tiêu (nhiệm vụ nghiên cứu), vạch ra những nội dung cụ thể, lựa chọn phương pháp thực hiện, và các bước thực hiện. + Đọc các tài liệu tham khảo và ghi chép theo các mục mà sinh viên đã xác định; khảo sát thực trạng (nếu có) giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu. + Xử lý số liệu đã thu thập được (tóm tắt các ghi chép, xử lý số liệu thực tế bằng toán thống kê). + Viết kết quả nghiên cứu, gồm viết nháp lời giới thiệu; viết nháp nội dung bài tập; viết nháp phần kết luận của bài tập; xem xét lại những gì đã viết, kiểm tra lại tính liên kết, chặt chẽ rõ ràng và đảm bảo rằng đã trả lời được những yêu cầu mà bài tập đặt ra; sắp xếp lại và kiểm tra lỗi chính tả, lỗi kỹ thuật và in bản cuối. Rõ ràng là quy trình làm bài tập nghiên cứu đã cho phép sinh viên được rèn luyện hàng loạt các kỹ năng học tập đã nêu và phân tích ở những phần trên (như kỹ năng đọc sách và ghi chép khi đọc sách; kỹ năng tóm tắt từ các ghi chép; kỹ năng sắp xếp các ý tưởng và liên kết các khái niệm theo một cấu trúc mới hợp lý với nhiệm vụ học tập; kỹ năng dựng lại một chủ đề bằng ngôn ngữ của cá nhân và kỹ năng quản lý thời gian và quản lý việc học tập).  Chuẩn bị đề cương thảo luận nhóm hay đề cương seminar - Xác định được cấu trúc của chủ đề. - Xác lập kế hoạch thực hiện chủ đề (nội dung, các bước thực hiện, thời gian và phương tiện). - Thu thập thông tin liên quan đến chủ đề từ nhiều nguồn khác nhau (bài giảng trước đây, sách và tài liệu tham khảo,... liên quan đến chủ đề.
  15. - Phân tích và thông hiểu thông tin thu thập được từ các nguồn tư liệu. - Lựa chọn và sắp xếp thông tin theo một logic hợp lý. - Viết tham luận về chủ đề học tập - Tóm tắt tham luận và trình bày trước tập thể lớp trong giờ seminar Để tiến hành bài tập này, sinh viên làm việc theo nhóm vì thế có sự phân công và hợp tác giữa các thành viên trong nhóm nhằm hoàn thành nhiệm vụ học tập chung; chia sẻ thông tin và kinh nghiệm giữa các thành viên trong nhóm. Nhờ vậy hình thành cho sinh viên ý thức trách nhiệm, khả năng làm việc cùng nhau... Bài tập dạng này có tác dụng rèn luyện hàng loạt kỹ năng học tập như lập kế hoạch học tập một chủ đề; kỹ năng tìm và thu thập thông tin; kỹ năng xử lý thông tin; kỹ năng nhận diện cấu trúc chủ đề; kỹ năng viết kết quả nghiên cứu chủ đề học tập theo ngôn ngữ của chính người học; kỹ năng trình bày và bảo vệ quan điểm trước tập thể... * Học tập theo nhóm nhỏ - Nhóm học tập được nói ở đây thường là nhóm học tập được hình thành do giáo viên bộ môn phân công, có thể tồn tại trong suốt học kỳ, năm học hoặc có thể được thay đổi theo nhiệm vụ học tập cụ thể. - Khi học tập theo nhóm, sinh viên phải tuân theo các yêu cầu sau: + Tự giác nhận nhiệm vụ do nhóm phân công. + Tích cực, độc lập và sáng tạo thực hiện nhiệm vụ được giao như nghiên cứu tài liệu, xử lý thông tin, sắp xếp thông tin đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ học tập. + Hợp tác với các thành viên khác trong quá trình giải quyết nhiệm vụ chung của nhóm. + Lắng nghe và chia sẻ ý kiến trong thảo luận nhóm. + Dùng luận cứ, dữ liệu để bảo vệ ý kiến của mình, và cũng biết từ bỏ ý kiến khi nhận ra sự bất hợp lý.  Nghiên cứu sách và tài liệu tham khảo Việc đọc sách đem lại nhiều lợi ích cho sinh viên như bổ sung, mở rộng, đào sâu những kiến thức đã lĩnh hội thông qua bài giảng trên lớp; hoàn thành các nhiệm vụ học tập; tiếp cận với sự phát triển của khoa học và nghề nghiệp tương lai; bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, hứng thú học tập và nghiên cứu; nâng cao trình độ văn hoá cá nhân… Để hoạt động này có kết quả, sinh viên cần lưu ý các yêu cầu sau:
  16. - Xác định mục đích đọc sách và lựa chọn sách đọc Mục đích đọc sách chi phối toàn bộ quá trình đọc sách như tránh cho sinh viên đọc sách tràn lan, tốn thời gian, công sức và không đem lại hiệu quả học tập, qui định cả hướng khai thác thông tin trong cuốn sách. Có mục đích lâu dài và mục đích trước mắt như tìm kiếm luận cứ hay sự khẳng định cho một kết luận hay một tư tưởng; tìm kiếm thông tin để hoàn thành một nhiệm vụ học tập nào đó; tích luỹ thông tin để viết bài tham luận khoa học hay làm luận văn tốt nghiệp... - Lựa chọn sách đọc Trong điều kiện bùng nổ thông tin như hiện nay, sách, báo, tài liệu tham khảo vô cùng phong phú. Để nhanh chóng tìm đúng cuốn sách cần tìm, sinh viên có thể căn cứ vào: + Nhiệm vụ học tập do giáo viên bộ môn nêu ra khi học một chương, một phần hay môn học. + Sinh viên phải có kỹ năng sử dụng các loại thư mục sách ở các thư viện như tìm sách theo chủ đề, tìm theo tên tác giả, tên sách. Hiện nay “thư viện điện tử” được sử dụng trong một số trường đại học, sinh viên còn phải có kỹ năng tìm sách qua máy tính vừa nhanh và hiệu quả hơn nhiều. + Các loại sách mà sinh viên cần đọc phục vụ cho việc học tập của bản thân như sách, báo, tài liệu tham khảo của môn học, các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến chuyên ngành sinh viên đang học, các văn bản quy định về giáo dục và đào tạo, tạp chí chuyên ngành và sách tra cứu. * Đọc sách nghiên cứu phục vụ cho việc học tập ngoài lớp nên tuân theo các bước sau: Bước 1- Đọc lướt nhằm tìm hiểu khái quát nội dung chung của cuốn sách một cách nhanh chóng, trên cơ sở ấy mà đánh giá xem có nên dành thêm thời gian để đọc chi tiết không. - Khi đọc lướt cần lưu ý xem tên sách, tên tác giả, nơi và nhà xuất bản ở trang đầu tiên của cuốn sách. Sau đó xem mục lục với các chương mục cụ thể để làm quen với nội dung và cấu trúc của cuốn sách. Khi xem các đề mục lớn được trình bày trong sách nên cố gắng phán đoán nội dung có thể được đề cập trong từng mục. - Đọc cẩn thận lời giới thiệu để nắm được chủ đề của cuốn sách, liên hệ với tất cả những điều đã biết về chủ đề đó và nhớ lại các thông tin hay khái niệm liên quan.
  17. - Đọc kết luận và tóm tắt ở cuối sách để thấy được nội dung cô đọng nhất, những khẳng định của tác giả về những vấn đề được trình bày, và những vấn đề chưa được giải quyết đầy đủ, phương hướng tiếp tục phát triển của chúng. Lúc này, sinh viên cần giải thích được một cách ngắn gọn chủ đề của sách và quyết định có nên đọc kỹ hơn không. Nếu sinh viên quyết định đọc chi tiết hơn và ghi chép lại bài đọc, sinh viên nên bắt đầu bằng cách viết lời giải thích ngắn gọn về nội dung sách trong khung chủ đề trên trang ghi chép của mình. Trong khi đọc lướt, sinh viên không nên ghi chép gì cả. Bước 2- Đọc kĩ (hay đọc sâu). Đối với mỗi sách, đọc một lần hay nhiều lần, đọc lướt hay đọc nghiền ngẫm phụ thuộc vào mục đích đọc. Nếu chỉ đọc với mục đích sưu tầm, trích dẫn một số dẫn chứng thì có thể đọc một lần; nếu với mục đích nghiên cứu để nắm vững nội dung cả cuốn sách thì phải đọc đi, đọc lại nhiều lần. Đọc lần đầu là lần đọc có tính chất chuẩn bị và mục đích là nắm được bước đầu nội dung toàn bộ cuốn sách hoặc một phần nào đó. Đọc lần hai, lần ba, không nên “tất cả bắt đầu từ đầu”, mà chỉ đi sâu vào những luận điểm cơ bản hoặc những chỗ mà lần đầu đọc chưa hiểu. Khoảng cách giữa hai lần đọc sẽ diễn ra sự suy nghĩ của người học về tài liệu, điều đó giúp cho việc thông hiểu và ghi nhớ được tốt hơn. Khi đọc sâu cần ghi chép lại những thông tin quan trọng, liên quan đến nhiệm vụ học tập. - Ghi chép khi đọc sách Ghi chép trong khi đọc sách là một việc làm cần thiết. Việc ghi chép có tác dụng: - Cung cấp những tài liệu cơ bản chuẩn bị cho seminar, cho việc ôn tập và làm bài kiểm tra. - Nâng cao khả năng tư duy và ngôn ngữ của người học. - Động viên sự chú ý, giảm mệt mỏi và kiểm tra mức độ lĩnh hội tài liệu ở người đọc. Vì thế, tuỳ theo mục đích nghiên cứu, tuỳ theo giá trị kiến thức và nội dung cuốn sách mà chọn những hình thức ghi chép khác nhau như ghi trích dẫn, ghi tóm tắt, ghi theo luận đề, đề cương, ghi tự do. Khi ghi chép thông tin từ sách và tài liệu đọc cần ghi tên sách, tên tác giả, số trang tài liệu trích dẫn để sử dụng trong các sản phẩm học tập của bản thân. 1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động học ngoài lớp
  18. Hoạt động tập ngoài lớp là một bộ phận của hoạt động dạy học nên nó cũng chịu ảnh hưởng, chi phối bởi các yếu tố thuộc cấu trúc của hoạt động dạy học như nội dung, người học, người dạy và môi trường.  Nội dung môn học Nội dung môn học là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ mà sinh viên cần lĩnh hội trong quy trình đào tạo. Nội dung môn học mới lạ, gắn với thực tế cuộc sống, thực tiễn nghề nghiệp trong tương lai, nội dung môn học không quá khô khan, trừu tượng, mà được thiết dưới dạng các tình huống có vấn đề sẽ có tác dụng thu hút hứng thú, kích thích tính tìm tòi khám phá ở sinh viên.  Người học (sinh viên) Sinh viên – chủ thể của hoạt động, người chịu trách nhiệm chính đối với hoạt động ngoài giờ lên lớp. Vì thế, các yêu tố bên trong như động cơ, hứng thú học tập, trình độ phát triển trí tuệ, tri thức, kỹ năng được hình thành trước đó, cả phong cách học, cá tính đều ảnh hưởng đến hoạt động học và kết quả học tập ngoài giờ lên lớp. Các yếu tố bên ngoài sinh viên như thời gian dành cho việc học ngoài lớp, điều kiện kinh tế và các phương tiện, điều kiện phục vụ cho hoạt động học ngoài lớp đều có tác động đến việc duy trì và đảm bảo cho hoạt động học tập ngoài lớp có kết quả.  Người dạy (giảng viên cao đẳng, đại học) Giảng viên (cao đẳng, đại học) là chủ thể của hoạt động dạy, giữ vai trò chỉ đạo, tổ chức, điều khiển và điều chỉnh hoạt động dạy học, nên dạy cũng ảnh hưởng và chi phối hoạt động học tập ngoài lớp của sinh viên. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giảng dạy của giảng viên, đặc biệt khả năng điều khiển hoạt động học tập của sinh viên bằng cách thiết kế hệ thống nhiệm vụ tự học trên lớp và ngoài lớp một cách hợp lý sẽ đòi hỏi và thôi thúc sinh viên thực hiện các hoạt động học tập ngoài lớp nhằm hoàn thành các nhiệm vụ học tập được giao. Tinh thần trách nhiệm với nghề dạy học, cao hơn nữa là tình yêu với nghề và nỗi đam mê chuyên ngành giảng dạy của giáo viên, phong cách giảng dạy năng động và khoa học, điều kiện kinh tế ổn định sẽ là điều kiện tốt để giảng viên dành nhiều thời gian, tâm sức cho hoạt động dạy và hoạt động học tập của sinh viên trên lớp cũng như ngoài lớp.  Môi trường dạy học Môi trường dạy học được hiểu là môi trường rộng và môi trường hẹp, môi trường vật chất và môi trường tin thần. Hoạt động học tập ngoài lớp của sinh viên sẽ không thể diễn ra
  19. và đạt kết quả cao nếu không có các điều kiện phục vụ cho hoạt động học tập này như hệ thống tài liệu tham khảo trên thư viện trường, hệ thống internet, phòng học, thời gian và không gian mà nhà trường dành cho sinh viên tự học ở ngoài lớp,… Sự quan tâm, động viên khích lệ của giảng viên dạy bộ môn, những can thiệp, giúp đỡ kịp thời, hợp lý của giảng viên trước những khó khăn mà sinh viên gặp phải khi tiến hành học tập ngoài lớp; sự quan tâm hỗ trợ kiểm tra, đôn đốc của phòng đào tạo, đoàn thanh niên, ban tự quản ký túc xá,… tất cả những điều kiện trên hội tụ lại thành môi trường dạy học được sinh viên khai thác và sử dụng tối ưu phục vụ cho việc giải quyết các nhiệm vụ học ngoài lớp mà giảng viên giao cho. Trong bốn yếu tố đã phân tích ở trên, hai yếu tố chính là dạy (giảng viên) và học (sinh viên). Giữa hai yếu tố dạy và học thì dạy hướng đến học, thúc đẩy học và làm cho học thành công. Vì thế, dạy (giảng viên) là yếu tố quan trọng có tác dụng khơi mào, duy trì và kết thúc hoạt động học tập ngoài lớp này và mở ra một hoạt động học tập ngoài lớp khác ở sinh viên. 1.3. Quản lý hoạt động học ngoài lớp 1.3.1. Khái niệm quản lý hoạt động học ngoài lớp Hoạt động học tập ngoài lớp là một bộ phận của hoạt động dạy học, nên quản lí hoạt động học tập ngoài lớp mang đầy đủ các đặc điểm, chức năng, tính chất của hoạt động quản lý của nhà trường nói chung và quản lý hoạt động dạy học nói riêng như chủ thể, đối tượng quản lý, nội dung quản lý, phương pháp quản lý, phương tiện quản lý,… Vì thế, chúng tôi hiểu quản lý hoạt động học tập ngoài lớp của sinh viên là những tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến sinh viên và hoạt động học tập của sinh viên nhằm đạt được các mục tiêu dạy học của nhà trường. - Chủ thể quản lý hoạt động học tập ngoài lớp của sinh viên bao gồm nhiều bộ phận theo quan hệ dọc và quan hệ ngang, đó là Ban giám hiệu, Tổ bộ môn, phòng Đào tạo, đội ngũ giảng viên, phòng Công tác sinh viên, Đoàn thanh niên, giáo viên chủ nhiệm,… Mỗi bộ phận, thành viên của tổ chức quản lý này đảm nhận những vai trò, vị trí khác nhau. Cụ thể:  Ban giám hiệu chỉ đạo chung, huy động và thống nhất các nguồn lực, nhân lực tác động đến hoạt động học tập ngoài lớp của sinh viên. Phân công trách nhiệm quản lý hoạt động học ngoài lớp đến từng phòng ban, cá nhân. Ban giám hiệu quản lý hoạt động học ngoài lớp của sinh viên theo kế hoạch.  Giáo viên bộ môn là người quản lý trực tiếp hoạt động học tập ngoài lớp của sinh viên bằng hệ thống nhiệm vụ học tập; gợi ý các nguồn tài nguyên thực hiện các nhiệm vụ học ngoài lớp, phối hợp với các lực lượng khác đôn đốc, kiểm tra hoạt động học ngoài lớp,
  20. đặc biệt đánh giá kết quả hoạt động ngoài lớp, làm cho hoạt động này trở nên có ý nghĩa đối với sinh viên nhằm duy trì động cơ, hứng thú học tập ngoài lớp ở họ.  Phòng Đào tạo, Đoàn thanh niên, Ban quản lý ký túc xá và giáo viên chủ nhiệm là những lực lượng phối hợp tổ chức, đôn đốc, và tạo điều kiện về cơ sở vật chất, về thời gian giúp sinh viên thực hiện có kết quả hoạt động học ngoài lớp.  Các nguồn lực khác như phòng Kế hoạch tài chính, phòng Quản trị thiết bị, Thư viện hỗ trợ và phục vụ hoạt động học tập ngoài lớp của SV. - Đối tượng chịu sự quản lý hoạt động học ngoài lớp là sinh viên. Tuy nhiên quản lý sinh viên nhưng thực chất là quản lý hoạt động học ngoài lớp của họ như quản lý nhiệm vụ học ngoài lớp, quản lý quá trình học ngoài lớp và quản lý kết quả học ngoài lớp,… Quản lý hoạt động học ngoài lớp của sinh viên cũng theo 4 chức năng như lập kế hoạch hoạt động học tập ngoài lớp, tổ chức hoạt động học tập ngoài lớp của sinh viên, chỉ đạo và kiểm tra, điều chỉnh hoạt động học tập ngoài lớp của sinh viên.  Lập kế hoạch hoạt động học tập ngoài lớp của sinh viên Lập kế hoạch hay còn gọi là kế hoạch hóa là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý, là cái khởi điểm của một chu trình quản lý. Lập kế hoạch là quá trình xác lập mục tiêu, thời gian, biện pháp, dự báo trước kế hoạch và quyết định phương thức để thực hiện mục tiêu đó. Chẳng hạn như mỗi giảng viên lên kế hoạch học ngoài lớp của sinh viên từ nội dung học tập, thời gian và yêu cầu cần đạt đến cho từng nhiệm vụ học ngoài lớp.  Tổ chức là quá trình thiết lập cấu trúc quan hệ giữa các thành viên, các bộ phận. Từ đó, chủ thể quản lý tác động đến đốí tượng quản lý một cách có hiệu quả bằng cách điều phối các nguồn lực của tổ chức như nhân lực, vật lực và tài lực. Trong quá trình xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý cần tính đến các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đó là những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống cụ thể có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tổ chức thực hiện. Ví dụ như, dự kiến trên kế hoạch học ngoài lớp của sinh viên trong một học kỳ Ban giám hiệu yêu cầu các phòng ban như phòng Đào tạo, phòng Quản trị thiết bị, Thư viện,… sắp xếp phòng học ngoài giờ lên lớp, sử dụng các điều kiện và phương tiện như thư viện, máy vi tính, phòng học bộ môn, theo dõi việc sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị đã được sắp xếp,… tránh tình trạng trùng lắp hoặc sử dụng không hết các nguồn lực phục vụ học ngoài lớp của sinh viên.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2