intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quốc tế học: Vấn đề di cư quốc tế của người Hmông ở Tây Bắc Việt Nam từ năm 1991 đến nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:93

43
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu lịch sử tộc người Hmông; phân tích nhằm làm rõ thực trạng vấn đề di cư quốc tế đa chiều, phức tạp của người Hmông nói chung, người Hmông ở Tây Bắc Việt Nam nói riêng từ đổi mới, nhất là từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay. Đánh giá những tác động từ di cư quốc tế của người Hmông đối với đời sống xã hội tộc người và những tác động liên quan đến mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các quốc gia có liên quan.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quốc tế học: Vấn đề di cư quốc tế của người Hmông ở Tây Bắc Việt Nam từ năm 1991 đến nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------- ĐINH VĂN NHẠC VẤN ĐỀ DI CƯ QUỐC TẾ CỦA NGƯỜI HMÔNG Ở TÂY BẮC VIỆT NAM TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC Hà Nội - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------ ĐINH VĂN NHẠC VẤN ĐỀ DI CƯ QUỐC TẾ CỦA NGƯỜI HMÔNG Ở TÂY BẮC VIỆT NAM TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế Mã số: 60 31 02 06 Người hướng dẫn khoa học: TS Đậu Tuấn Nam Hà Nội-2015
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................ 4 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 9 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 10 5. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 11 6. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 11 Chương 1: QUÁ TRÌNH DI CƯ QUỐC TẾ CỦA NGƯỜI HMÔNG VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ............................................................... 12 1.1. Khái niệm ................................................................................................ 12 1.2. Quá trình di cư của người Hmông trong lịch sử .................................... 13 1.2.1. Lịch sử tộc người và quá trình di cư của người Hmông ................... 13 1.2.2. Quá trình di cư của người Hmông đến Việt Nam và phân bố dân cư .... 19 1.3. Các nhân tố tác động đến di cư quốc tế của người Hmông ở Tây Bắc Việt Nam......................................................................................................... 22 1.3.1. Ở cấp độ quốc tế và khu vực ............................................................. 22 1.3.2. Ở cấp độ trong nước .......................................................................... 24 1.3.3. Các nhân tố từ đời sống văn hoá - xã hội tộc người ......................... 32 1.3. Tiểu kết chương 1 ................................................................................... 37 Chương 2: TÌNH HÌNH DI CƯ QUỐC TẾ CỦA NGƯỜI HMÔNG Ở TÂY BẮC VIỆT NAM TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY .................................... 39 2.1. Khái quát tình hình di cư ở Việt Nam.................................................. 39 2.2. Tình hình di cư quốc tế của người Hmông ở Tây Bắc từ 1991 đến nay. 46 2.2.1. Tình hình xuất cư .............................................................................. 48 2.2.2. Tình hình nhập cư ............................................................................. 54 2.3. Tiểu kết chương 2 ................................................................................... 56 1
  4. Chương 3: NHỮNG TÁC ĐỘNG VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................... 58 3.1. Những tác động từ di cư quốc tế của người Hmông ở Tây Bắc từ 1991 đến nay .................................................................................................. 58 3.1.1. Đối với nơi nhập cư........................................................................... 58 3.1.2. Đối với nơi xuất cư ........................................................................... 70 3.1.3. Đối với người Hmông di cư .............................................................. 72 3.1.4. Đối với quan hệ quốc tế giữa nơi xuất cư và nơi nhập cư ................ 75 3.2. Một số khuyến nghị giải pháp quản lý vấn đề di cư quốc tế của người Hmông ............................................................................................................ 80 3.2.1. Một số dự báo.................................................................................... 80 3.2.2. Một số khuyến nghị giải pháp về chính sách của Việt Nam đối với vấn đề di cư ................................................................................................. 81 3.3. Tiểu kết chương 3 ................................................................................... 83 KẾT LUẬN .................................................................................................... 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 86 2
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tây Bắc là vùng lãnh thổ Việt Nam tiếp giáp với các tỉnh Bắc Lào và Nam Trung Quốc. Vùng đất này có trên 20 dân tộc thiểu số cùng sinh sống, trong đó có những tộc người có mặt ở cả 2, thậm chí 3 quốc gia. Do đó, trong lịch sử, vùng đất này vẫn thường diễn ra hoạt động xuất, nhập cư qua biên giới của các tộc người thiểu số như: Thái, Khơ mú, Hmông, Hà Nhì... Trong đó nổi lên hoạt động di cư đa chiều, phức tạp của người Hmông cả trong lịch sử cũng như hiện nay. Vấn đề di cư của người Hmông không chỉ diễn ra với các quốc gia láng giềng có chung đường biên giới, mà còn xuyên/liên biên giới với nhiều quốc gia, không chỉ ở khu vực Đông Nam Á (Lào, Thái Lan, Campuchia, Mianmar...) mà cả với nhiều quốc gia khác trên thế giới (Mỹ, Pháp, Australia...). Hoạt động di cư quốc tế của người Hmông không những tác động tới đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội tộc người, mà còn tác động đến các mối quan hệ quốc tế, hợp tác phát triển giữa Việt Nam với các quốc gia.... Như vậy, có thể nói di cư quốc tế của người Hmông ở Tây Bắc Việt Nam là vấn đề khá nhạy cảm cần được nghiên cứu, nhằm làm rõ thực trạng và những tác động của nó đối với cả nơi xuất cư và nhập cư, nguyên nhân của di cư xuyên biên giới; trên cơ sở đó gợi ý giải pháp khả thi cho công tác quản lý đối với vấn đề di cư quốc tế của người Hmông, hạn chế đến mức thấp nhất tác động của di cư phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, đoàn kết và hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia, dân tộc trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay. Xuất phát từ nhận thức trên cho thấy nghiên cứu “Vấn đề di cư quốc tế của người Hmông ở Tây Bắc Việt Nam từ năm 1991 đến nay” là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 3
  6. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Di cư quốc tế là vấn đề luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều ngành khoa học: kinh tế học lao động, nhân học, quốc tế học, khu vực học, quan hệ quốc tế... Tuy nhiên, mỗi khoa học tiếp cận và giải quyết vấn đề di cư quốc tế theo quan điểm chuyên ngành và tuỳ thuộc vào bối cảnh của từng quốc gia, hay phạm vi quốc tế. 2.1. Các nghiên cứu của nước ngoài Một là, những công trình bàn về lý thuyết di cư với ý nghĩa tạo khung lý thuyết cho nghiên cứu di cư nói chung và di cư quốc tế nói riêng. Người mở đầu cho xây dựng lý thuyết xã hội học di dân là Ravenstein E.G (1985), The Laws of Migration (Quy luật của di cư), công trình này đã rút ra 6 quy luật của di cư. Tiếp đến là Evertt S. Lee (1966), A Theory of Migration (Lý thuyết di cư) đã xây dựng lý thuyết lực hút, lực đẩy khi giải thích nguyên nhân di cư cũng như phân loại các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến quá trình dịch chuyển dân cư. Hai là, những nghiên cứu về lịch sử di cư. Qua đó cho thấy các hình thái di cư quốc tế (cả di cư giữa các lãnh địa tộc người thời kỳ tiền nhà nước và di cư xuyên biên giới thời kỳ có nhà nước) diễn tiến cùng quá trình sinh tồn và phát triển của con người, chịu tác động bởi nhiều nguyên nhân khác nhau như áp lực tăng trưởng dân số trước giới hạn của không gian sinh tồn, tình trạng khan hiếm lương thực - thực phẩm, bất ổn sinh kế, biến đổi môi trường hoặc xung đột xã hội… Trong nhóm này, trước hết phải kể đến các nghiên cứu về di cư của người Hmông, ở nhóm này có François Marie Savina (1924), Histoire des Miao (Lịch sử người Mèo). Nhất là nghiên cứu của các nhà khoa học Trung Quốc gồm có: Dương Phúc Tuyền, Đoàn Ngọc Minh, Quá Tịnh (1999), Vân Nam thiểu số dân tộc khái lãm; Hùng Ngọc Hữu 4
  7. (2003), Miêu tộc văn hóa sử; Vương Văn Quang (2001), Trung Quốc nam phương dân tộc sử; Hà Bình (2004), Nguồn gốc các dân tộc Miêu – Dao, sự thiên di và phát tiển đến khu vực bán đảo Trung Nam, Luận văn tập; Vưu Trung (1998), Miêu, Dao tộc cổ đại sử tự lược, Tây Nam dân tộc nghiên cứu. Các nghiên cứu này bàn về nguồn gốc người Hmông, quá trình lịch sử di cư của người Hmông qua các thời kỳ, mà ở đó, nó gắn với các triều đại phong kiến phương Bắc. Ba là, các nghiên cứu về toàn cầu hóa, trong đó có nêu vấn đề di cư quốc tế, quản lý xuất cư và nhập cư trên bình diện quốc tế, hợp tác giữa các nước về quản lý di cư quốc tế, tác động thuận và nghịch của di cư quốc tế đối với phát triển. Thuộc nhóm này có các nghiên cứu về quan hệ quốc tế nảy sinh từ quá trình di cư quốc tế, chính sách của các chính phủ trong việc can thiệp vào di cư để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực. Các nghiên cứu của Manolo Abella (2004), Cooperation in managing labour migration in a globalizing world (Hợp tác quản lý di cư lao động trong một thế giới toàn cầu hóa); International Organization for Migration (2003), Labour migration in Asia: Trends, challenges and policy responses in countries of origin (Di cư lao động châu Á: Những xu hướng, thách thức và phản ứng chính sách của các quốc gia có người xuất cư) đã chỉ ra nhu cầu quản trị toàn cầu, đặc biệt vai trò của các định chế quốc tế như Tổ chức Di cư quốc tế (IOM) hoặc Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)…. Ngoài vai trò của các định chế quốc tế, các nghiên cứu này còn nhấn mạnh đến sự cần thiết hợp tác giữa các nước trong quản lý người xuất cư và nhập cư, đặc biệt là kiểm soát tình trạng buôn bán người xuyên biên giới... Những nội dung này gợi mở nhiều điều bổ ích cho quản lý di cư ở Việt Nam, nhất là phối hợp giữa các nước, giữa Việt Nam với các tổ chức quốc tế về vấn đề di cư, không ngừng hoàn thiện năng lực hoạch định và thực thi các chính sách can thiệp vào di cư quốc tế. 5
  8. Bốn là, các nghiên cứu đề cập trực tiếp về di cư từ Việt Nam ra nước ngoài trong lịch sử, di cư hôn nhân của các tộc người thiểu số vùng biên giới. Trước hết là những nghiên cứu chung về lịch sử di dân Việt Nam, tình trạng hôn nhân liên tộc người… Điển hình là công trình của M. Giovanna Merli (1997), Estimation of International Migration for Vietnam, 1979-1989 (Ước lượng về di cư quốc tế ở Việt Nam, 1979-1989); The Human Rights Solidarity for Women and Migration (2001), Migrant Women and Inter-ethnic Marriage (Phụ nữ di cư và hôn nhân liên tộc người) bàn về vai trò của di cư với phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa hoặc hình thành quan hệ tộc người mới thông qua hôn nhân. Năm là, các nghiên cứu về tình hình nhập cư từ nước ngoài vào Việt Nam, bao gồm cả nhập cư lao động, nhập cư truyền giáo… và di cư xuyên biên giới của những người đồng tộc sống giáp ranh giữa Việt Nam với Lào, Campuchia, Trung Quốc. Có thể nói, giai đoạn từ 1991 đến nay, người nước ngoài nhập cư Việt Nam ít hơn người Việt Nam xuất cư ra nước ngoài, nên cũng ít thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu nước ngoài. Chiếm số lượng nhiều nhất là các bài báo, chuyên khảo đề cập đến quá trình di cư xuyên biên giới của các nhóm cư dân thiểu số sống dọc biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia và Việt Nam - Trung Quốc. Di cư tự do xuyên biên giới của những người đồng tộc là vấn đề rất phức tạp trong quản lý dân cư ở vùng biên giới hiện nay. Về tình hình di dân tự do xuyên biên giới giữa Việt Nam với Lào, Campuchia có nghiên cứu của Skeldon Ronald (2010), Di cư bất hợp pháp trong tiểu vùng Mê Kông. Một trong những tộc người di dân với số lượng lớn là người Hmông… 2.2. Nghiên cứu ở trong nước Trong phạm vi này, vấn đề di cư quốc tế chỉ được đề cập khiêm tốn, song có thể tìm thấy ở những nhóm sau: 6
  9. Một là, các nghiên cứu về toàn cầu hóa, trong đó có đề cập đến di cư lao động quốc tế, di cư hôn nhân quốc tế, di cư học tập quốc tế gắn với quá trình dịch chuyển tư bản, lao động, hàng hóa – dịch vụ, chuyển giao công nghệ trên phạm vi toàn cầu. Ở phần này, điển hình là chuyên khảo của Ủy ban Dân tộc (2008), Cơ hội và thách thức đối với vùng dân tộc thiểu số khi Việt Nam gia nhập WTO đã cảnh báo những khó khăn thách thức đối với các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, nếu không được khắc phục sẽ có nguy cơ tạo lực đẩy tiếp tục di cư nội địa và di cư xuyên biên giới, đặc biệt đối với các tộc người sống ở biên giới, rẻo cao. Hai là, các nghiên cứu tiếp cận từ góc độ dân số học, lịch sử và lý thuyết di dân, trong đó có đề cập đến tác động của di dân quốc tế đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội nước ta thời kỳ hội nhập. Phần này có nghiên cứu của Ngọc Thời Giai (2008), Di cư của người Dao xuống biên giới Tây Nam Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á trong thời kỳ Minh. Đối với công trình của Vương Duy Quang (2005), Văn hóa tâm linh của người Hmông ở Việt Nam – Truyền thống và hiện đại, dù cắt nghĩa dưới chiều cạnh văn hóa, nhưng nó cho thấy những hình dung nhất định về nguồn gốc, quá trình di cư của người Hmông vào Việt Nam, tình trạng di cư xuyên biên giới của tộc người này hiện nay với cả nguyên nhân kinh tế, xã hội và lịch sử. Luận văn thạc sỹ của Nghiêm Tuấn Hùng (2010), Vấn đề di cư trong quan hệ quốc tế sau Chiến tranh Lạnh, trong khi đề cập trên bình diện chung về di cư trong quan hệ quốc tế cũng có điểm qua tình hình Việt Nam và tác động của nó đối với hoạt động đối ngoại. Ba là, các nghiên cứu về tình hình di cư tự do xuyên biên giới của một số nhóm tộc người thiểu số; sự can thiệp của Chính phủ đối với các loại hình di cư quốc tế. Di cư tự do xuyên biên giới là vấn đề được đề cập trong các công trình nghiên cứu về phát triển xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi, các 7
  10. tuyến biên giới, được tiếp cận từ góc độ nhân học xã hội hoặc xã hội học di dân. Tiêu biểu cho nhóm nghiên cứu này là đề tài khoa học cấp nhà nước của Doãn Hùng (2010) (chủ nhiệm), Chính sách phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội đối với các vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ - Cơ sở lý luận và thực tiễn đã xem di dân tự do xuyên biên giới của một số tộc người sống vùng biên giới Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào, Việt Nam – Campuchia không chỉ đe dọa đến an ninh biên giới mà cả quản lý phát triển xã hội. Nghiên cứu của Đậu Tuấn Nam, Di cư tự do của người Hmông ở miền Tây Nghệ An (Thực trạng và những vấn đề đặt ra) (2005); “Đặc điểm di dân tự do của người Hmông ở miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An” (2009)... dù chỉ chọn mẫu nghiên cứu là hai tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa, nhưng đã cho thấy diễn biến phức tạp và rất khó khăn trong quản lý di cư tự do của người Hmông, trong đó có cả di dân từ Trung Quốc, từ Lào vào Thanh Hóa và Nghệ An. Chuyên khảo của Thào Xuân Sùng (chủ biên) (2009), Dân tộc Mông ở Sơn La với việc giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay không chỉ đề cập đến di cư ở người Hmông ở Sơn La, mà còn cho thấy tác động của di dân trên các mặt biến đổi đức tin tôn giáo, tín ngưỡng; phá vỡ môi trường sinh thái; ảnh hưởng đến quyền tiếp cận tài nguyên đất đai và rừng; đảo lộn cơ cấu xã hội và quan hệ tộc người, thậm chí gây nên cả xung đột xã hội. Về tác động của di cư đối với tài nguyên, môi trường, Hoàng Hữu Bình (2006), Những tác động của yếu tố văn hóa – xã hội trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên, môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã chỉ ra hậu quả di cư với khai thác cạn kiệt rừng đầu nguồn, ảnh hưởng môi trường dân cư hạ nguồn các dòng sông, gây khó khăn cho quy hoạch quản lý đất đai và phân bố lại dân cư. Nghiên cứu của Vông Pha Chăn VILAYHOM - Đinh Văn Nhạc (2013), Hợp tác Việt Nam – Lào về quản trị 8
  11. biến đổi xã hội, Quản trị biến đổi xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa và Bunthat LATHIPANYA - Đinh Văn Nhạc (2014), Hợp tác Việt Nam – Lào về an sinh xã hội, Chính sách an sinh xã hội trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế đã phân tích, đánh giá kết quả hợp tác giữa hai nước về nhiều chiều cạnh, trong đó nhấn mạnh các giải pháp hợp tác nhằm quản trị biến đổi xã hội, an sinh xã hội, trong đó là hợp tác giải quyết các vấn đề về di cư và quốc tịch. Bốn là, các nghiên cứu về vấn đề hôn nhân xuyên biên giới và quản lý hôn nhân có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam đã nghiên cứu đặc điểm, thực trạng về hôn nhân xuyên biên giới, hôn nhân có yếu tố nước ngoài của các tộc người, trong đó nổi bật là vấn đề hôn nhân xuyên biên giới gắn với di cư quốc tế của các tộc người thiểu số. Ở nhóm này có nghiên cứu của Lê Ngọc Lân (2015), Nhận diện một số đặc điểm hôn nhân ở vùng biên giới, Nghiên cứu gia đình và giới, quyển 25 (số 5), tr.40-54 trên cơ sở khảo sát 1.536 đại diện hộ gia đình, thảo luận với các cấp quản lý và người dân tại một số địa phương, nghiên cứu đã phân tích một số đặc điểm về hôn nhân hiện nay của người dân các dân tộc vùng biên giới miền Bắc và miền Trung; nghiên cứu của Nguyễn Hữu Minh, Đặng Thị Hoa, Trần Thị Hồng (2015), Quản lý vấn đề hôn nhân xuyên biên giới ở Việt Nam hiện nay: Chính sách và thực tiễn, Nghiên cứu gia đình và giới, quyển 25 (số 5), tr.15-27 đã đánh giá và khái quát những chính sách quản lý của Việt Nam nhằm ổn định và phát triển vùng biên giới và những vấn đề đặt ra. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu vấn đề di cư quốc tế của người Hmông ở Tây Bắc Việt Nam nhằm các mục đích chủ yếu sau: - Tìm hiểu lịch sử tộc người Hmông; phân tích nhằm làm rõ thực trạng vấn đề di cư quốc tế đa chiều, phức tạp của người Hmông nói chung, người 9
  12. Hmông ở Tây Bắc Việt Nam nói riêng từ đổi mới, nhất là từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay. - Đánh giá những tác động từ di cư quốc tế của người Hmông đối với đời sống xã hội tộc người và những tác động liên quan đến mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các quốc gia có liên quan. - Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy hợp tác có hiệu quả giữa Việt Nam và các nước nhằm kiểm soát hướng tới giảm thiểu tác động tiêu cực từ vấn đề di cư quốc tế của người Hmông đối với quá trình ổn định và phát triển của Tây Bắc nói riêng, Việt Nam nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Đối tượng nghiên cứu chính trong luận văn là hoạt động di cư quốc tế của người Hmông. Ngoài ra, các chính sách di cư và phát triển, những yếu tố tác động đến di cư quốc tế cũng được thu hút vào nghiên cứu này. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian nghiên cứu của luận văn là Tây Bắc của Việt Nam, trong địa bàn khảo sát chủ yếu là các tỉnh như: Sơn La, Điện Biên, Lào Cai, miền Tây Thanh Hóa, miền Tây Nghệ An[1]... là những địa phương có nhiều người di cư xuyên biên giới sang Lào và Trung Quốc. - Phạm vi thời gian được xác định từ năm 1991 đến 2013. Bởi lẽ, thời kỳ này là dấu mốc kết thúc của Chiến tranh Lạnh, cục diện trong quan hệ quốc tế thay đổi, có những nhân tố mới nảy sinh, trong đó có vấn đề về di cư quốc tế đa chiều, phức tạp cần nghiên cứu. 1 Hiện nay có nhiều quan điểm cho rằng, miền Tây Thanh Hóa, miền Tây Nghệ An cũng thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam, hơn nữa, đây là hai khu vực tiếp giáp Bắc Lào, có các hoạt động di cư xuyên biên giới phức tạp của người Hmông. 10
  13. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên các phương pháp nghiên cứu liên ngành, đa ngành, trong đó tập trung sử dụng các phương pháp nghiên cứu về khu vực học, nhân học, nhân học xã hội, dân tộc học… Trong đó, phương pháp chuyên ngành của khoa học Quan hệ quốc tế kết hợp với Nhân học; phương pháp phân tích, so sách, thống kê cũng được sử dụng phục vụ quá trình nghiên cứu. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Quá trình di cư quốc tế của người Hmông và những nhân tố tác động. Chương 2: Tình hình di cư quốc tế của người Hmông ở Tây Bắc Việt Nam từ năm 1991 đến nay. Chương 3: Những tác động và khuyến nghị. 11
  14. Chương 1 QUÁ TRÌNH DI CƯ QUỐC TẾ CỦA NGƯỜI HMÔNG VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG 1.1. Khái niệm Luật di cư quốc tế (2011) giải thích: “di cư quốc tế là sự di chuyển của những người rời nước gốc hoặc nước cư trú thường xuyên để tạo lập cuộc sống mới tại nước khác, kể cả tạm thời hoặc lâu dài. Vì thế họ phải vượt qua một biên giới quốc gia”. Liên hợp quốc định nghĩa “người di cư” là một cá nhân đã cư trú tại một nước hơn một năm, bất kể người đó di cư tự nguyện hay không, hay theo cách được phép hay trái phép. Với một định nghĩa như vậy, những người đi lại với thời gian ngắn hơn như khách du lịch, thương nhân không được coi là người di cư. Tuy nhiên, cách sử dụng chung bao gồm cả những nhóm nhất định chỉ những người di cư ngắn hạn như người lao động nông nghiệp theo thời vụ, những người đi lại trong những thời gian ngắn để trồng trọt và thu hoạch nông sản. Cũng theo định nghĩa của Liên hợp quốc, di cư là sự dịch chuyển từ khu vực này sang khu vực khác, thường là qua một địa giới hành chính (hoặc là sự dịch chuyển theo một khoảng cách xác định nào đó) thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú. Sự thay đổi chỗ ở thể hiện ở hai khái niệm: - Xuất cư là nói về đầu đi, về nơi chuyển cư, chuyển từ nơi này sang nơi khác (trong phạm vi một quốc gia, hay sang một quốc gia khác) để sinh sống tạm thời hay vĩnh viễn, thời gian ngắn hay dài. - Nhập cư là nói về đầu đến, về nơi chuyển đến, có thể là đến địa bàn khác cùng một vùng, lãnh thổ của một quốc gia, hay một quốc gia khác. Như vậy, định nghĩa của Liên hợp quốc đã loại ra được những người sống lang thang, dân du mục, di dân theo mùa và di dân theo kiểu con lắc (đi về 12
  15. hàng ngày). Trên quan điểm thống kê, không phải tất cả những hành động di cư như: di cư theo mùa và di cư kiểu con lắc có thể xếp vào sự di chuyển của dân cư - tức di dân. Trong điều tra dân số ở các nước cũng như ở Việt Nam, di dân được xác định là người thay đổi chỗ ở thường xuyên từ đơn vị hành chính này sang đơn vị hành chính khác. Tuy nhiên, trong định nghĩa của Liên hợp quốc cũng như trong điều tra dân số của mỗi nước, việc tổ chức hành chính không giống nhau ở mỗi nước, do đó ranh giới hành chính cũng có những quan niệm khác nhau. Vì vậy cần phải xác định rõ ranh giới hành chính nên ở cấp nào, cũng như phải xác định thời gian định cư trong bao lâu thì được coi là di cư. Các đặc điểm cơ bản của di cư: - Người chuyển khỏi nơi cư trú đến một nơi nào đó sinh sống. Khoảng cách giữa nơi đi và nơi đến – có thể là một vùng lãnh thổ hay một đơn vị hành chính (độ dài di chuyển) là tiêu chí xác định di cư và quá trình di cư. - Người di chuyển bao giờ cũng có mục đích, họ rời nơi cũ để đến một nơi khác định cư trong một khoảng thời gian nhất định nhằm thực hiện mục đích của mình. Mục đích của sự thay đổi nơi cư trú là một trong những nguyên nhân dẫn đến di dân. - Thời gian cư trú ở nơi ở mới (dài hay ngắn) cũng là một đặc điểm quan trọng của di dân. Ngoài ra có thể nhận biết di dân qua một số đặc điểm: sự thay đổi nơi làm việc, nghề nghiệp và hoạt động sống hàng ngày... 1.2. Quá trình di cư của người Hmông trong lịch sử 1.2.1. Lịch sử tộc người và quá trình di cư của người Hmông Trong cuốn sách Lịch sử người Mèo (Histoire des Miao, xuất bản tại Hồng Kông năm 1924), trên cơ sở của những truyền thuyết được François Marie Savina sưu tầm đã cho rằng, quá khứ cổ đại của người Hmông là một trong những bộ lạc cư trú ở vùng Xibêri nước Nga đầy băng tuyết. Từ đây, họ 13
  16. đi xuống theo hướng Đông Nam và đến vùng Hồ Nam của Trung Quốc vào khoảng 2.500 năm trước công nguyên. Tuy nhiên, chính François cũng tự đánh giá, đây là ý kiến còn chưa chắc chắn, bởi chưa đủ những cứ liệu để minh chứng [14]. Quan điểm trên đây của François cũng chưa nhận được sự ủng hộ của đa số các nhà Hmông học trên thế giới, thậm chí còn có nhiều ý kiến trái chiều. Nhóm tác giả Cư Hòa Vần và Hoàng Nam cho biết, các nhiên cứu nhân chủng học về người Hmông ở Trung Quốc cho thấy, có những bằng chứng nói lên nguồn gốc người Mônggôlôit của họ; kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở vùng Nam Kinh – Động Đình cũng đã chỉ ra rằng, các bộ lạc tổ tiên của người Hmông đã xuất hiện ở đây vào khoảng thiên niên kỷ thứ III trước công nguyên [45]. Theo Gary Lee và Nick Tapp, François đã không đúng khi dựa trên cơ sở của những tư liệu trong truyền thuyết và những tư liệu đầy chất thơ theo kiểu nghi lễ của người Hmông. Căn cứ vào sự tương đồng về văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo của người Hmông và người Hán, hai ông cho rằng, gốc của người Hmông có thể ở đâu đó quanh vùng sông Hoàng Hà ở Trung Quốc [15, tr.61]. Theo quan điểm của giới nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, về cội nguồn, tổ tiên xa xưa của các tộc người Hmông – Dao có quan hệ với một liên minh bộ lạc xuất hiện tương đối sớm vào thời cổ đại, được sử cũ chép là Cửu Lê. Thủ lĩnh của Cửu Lê là Suy Vưu chống lại Hoàng Đế, nhưng kết cục đã không giành được phần thắng, do đó, một bộ phận Cửu Lê không chịu khuất phục đã rút về lưu vực Giang Hán phương Nam và lập liên minh bộ lạc Tam Miêu. Theo các nhà nghiên cứu, đến thời kỳ vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, liên minh bộ lạc Tam Miêu phát triển khá hùng mạnh và đây chính là tiền nhân trực tiếp của các dân tộc Hmông – Dao [41, tr.253-254; 19, tr.23-24]. Đến thời Xuân Thu (770-476 tr.CN), trong liên minh bộ lạc Tam Miêu có một bộ phận đã phát triển đến trình độ cao và hình thành nên dân tộc Sở, chủ nhân của nước Sở hùng mạnh [28, tr.49-51] đã từng có ý chí và hành 14
  17. động nhằm bá chủ thiên hạ. Tuy nhiên, sang thời Chiến Quốc (306-251 tr.CN), khi nước Sở bị nhà Tần thôn tính, một bộ phận cư dân nước Sở, trong đó có những người thuộc Tam Miêu đã hòa nhập cùng với dân tộc Hoa Hạ ở Trung Nguyên và dần trở thành người Hán. Bộ phận còn lại di chuyển đến vùng núi khu vực Tây Tương – Đông Kiềm (ở phía Tây Hồ Nam và phía Đông Quý Châu ngày nay), trở thành nhóm bộ lạc tổ tiên của dân tộc Miêu (trong đó có một bộ phận được gọi là Hmông) và dân tộc Dao [4, tr.288]. Khi nhà Tây Hán thay thế nhà Tần thống trị Trung Quốc, khu vực cư trú của tổ tiên các tộc người Miêu – Dao được đổi thành quận Vũ Lăng và vì vậy, họ được gọi là Vũ Lăng Man. Sang thời kỳ Đông Hán, các cuộc nổi dậy của tổ tiên người Miêu – Dao trong quận Vũ Lăng và vùng phụ cận liên tục xảy ra, song hầu hết các cuộc nổi dậy này đều bị nhà Đông Hán trấn áp. Các bộ lạc Vũ Lăng Man bị dồn từ vùng trung tâm vào khu vực miền núi phía Tây và họ có mặt ngày càng nhiều ở khu vực cao nguyên Vân – Quý (thuộc phạm vi hai tỉnh Vân Nam và Quý Châu, Trung Quốc ngày nay) và phân hóa thành các tộc Miêu và Dao [38, tr.26-44]. Quá trình phân hóa từ các liên minh bộ lạc hay các siêu tộc cổ đại thành các tộc Miêu – Dao đã diễn ra như thế nào, nó kéo dài bao lâu, các học giả Trung Quốc cho rằng, thời kỳ Nam – Bắc triều (420-528), liên minh bộ lạc Vũ Lăng Man bắt đầu tách ra thành các tộc người Miêu – Dao và cư trú ở vùng Hồ Nam, Hà Nam, Trùng Khánh, Tứ Xuyên và Hồ Bắc ngày nay. Đến cuối thời Tây Tấn, thời đầu Tốngdân tộc Dao tách khỏi Miêu – Dao, gọi là Mạc Dao (Mò Yao) hay Yao (Dao). Đến thời nhà Tùy (581-618), khu vực cư trú của người Miêu ngoài hai tỉnh Hồ Nam và Quý Châu, còn mở rộng ra các tỉnh Hồ Bắc, Giang Tây, Vân Nam; trong đó một bộ phận người Miêu đi về phía Đông và dung hợp vào dân tộc Hán, bộ phận đi về phía Tây vẫn lưu truyền được đặc điểm sinh hoạt văn 15
  18. hóa, kinh tế vốn có của tộc người và họ chính là tiền nhân của Miêu tộc ( bao gồm cả người Hmông và người Hmu) hiện nay [4, tr.290]. Từ thời nhà Đường đến Ngũ đại thập quốc, một bộ phận người Miêu đã chịu ảnh hưởng tương đối sâu sắc của văn hóa Hán và phân bố ở vùng nối tiếp Xuyên (Tứ Xuyên), Kiềm (Quý Châu), Tương (Hồ Nam), Ngạc (Hồ Bắc). Về mặt xã hội, người Miêu đã có sự phân hóa giai cấp. Các triều đình phong kiến thường lập các châu cho người Miêu và bổ nhiệm thủ lĩnh của họ là Thứ sử châu “kimi” để thống trị, nhưng đây cũng không phải là các tiểu quốc tự trị của người Hmông. Đến thời Nam Tống (960-1279), người Miêu di chuyển về phía Tây Nam, phân bố kín miền Trung, đến miền Tây Quý Châu ngày nay. Khu vực cư trú của dân tộc Miêu phía Đông tập trung ở vùng Đông Bắc Quý Châu và Tây Bắc Hồ Nam. Thời Nguyên (1271-1368) và Minh (1368-1644), người Miêu đã mở rộng địa bàn cư trú đến phía Tây Quý Châu và Đông Nam Vân Nam. Tại đây, họ thường phải cư trú xen kẽ với các dân tộc bản địa ở Tây Quý Châu, Đông Nam Vân Nam, Hồ Nam. Từ thời Thanh, (1644-1911), về cơ bản, người Miêu đã phân bố ở những địa bàn mà hiện nay họ đang có mặt ở Trung Quốc. Trong đó, một bộ phận khá đông dân tộc Miêu đã tập trung ở tỉnh Quý Châu và hầu hết ở các châu, huyện của tỉnh này đều có người Miêu sinh sống. Bên cạnh đó, họ còn phân bố ở Vân Nam, phía Tây Hồ Nam, các huyện Hoài Viễn, Toàn Châu của tỉnh Quảng Tây; phía Nam và Đông Nam Tứ Xuyên. Những bộ phận nhỏ khác cũng xuất hiện ở tỉnh Hồ Bắc, Quảng Đông và Hải Nam [28, tr.302- 303].Cũng thời kỳ này, nhà Mãn Thanh bỏ chế độ Thổ Quan và thay bằng chế độ Lưu quan, người Hmông không chấp nhận điều này và đã liên tục nổi dậy chống lại triều đình. Tuy nhiên, với kết cục của cuộc khởi nghĩa Thái Bình thiên quốc đã đẩy người Hmông thành tha hương ly tán. Một bộ phận người 16
  19. Hmông tiếp tục di cư về vùng Vân Nam và cuối cùng là vùng núi phía Bắc Việt Nam, Lào, Mianmar và Đông Bắc Thái Lan, họ sống rải rác thành các nhóm lớn nhỏ ở các vùng núi cao thuộc biên giới của các nước này. Quá trình thiên di của người Hmông vào Đông Nam Á nói chung, Việt Nam nói riêng thể hiện niềm khát khao về một vùng đất lành để sinh sống và họ đã coi những vùng đất này là quê hương mới của mình. Như vậy, từ một nhóm liên minh bộ lạc có tên gọi là Cửu Lê, sống tập trung ở vùng Kinh Châu – Giang Hoài (nay thuộc tỉnh Hồ Nam và một phần tỉnh Quý Châu), tổ tiên người Miêu – Dao đã không ngừng phát triển thành liên minh bộ lạc Tam Miêu, rồi Kinh Man, Vũ Lăng Man và cuối cùng phân hóa thành các tộc Miêu – Dao. Quá trình phát triển thành các tộc người Miêu – Dao riêng biệt vừa có yếu tố tự thân, vừa chịu sự tác động của các quá trình lịch sử khu vực. Trong quá trình phát triển đó, các tộc người Miêu – Dao đã không ngừng mở rộng địa bàn cư trú, từ lưu vực hồ Động Đình, họ đã có mặt ở hầu khắp các địa phương của vùng Hoa Nam và nhiều quốc gia lân cận. Cuộc chiến tranh Đông Dương kết thúc (năm 1975), Vàng Pao cùng các quan chức, binh sĩ người Hmông ở Lào đã di tản từ Loong Chẹng (Lào) sang Thái Lan, sau đó tiếp tục đi sang các nước khác như Australia, Pháp, Canada, Mỹ, Argentina, Guyana, Nam Phi – mở đầu cho cuộc đại di cư lớn nhất trong lịch sử của người Hmông ở Đông Nam Á vào thế kỷ XX. Cũng từ đây, bắt đầu hình thành nên các cộng đồng người Hmông ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới. Cho đến nay, chưa có một cuộc điều tra chính thức nào về dân số người Hmông trên thế giới, do đó, những thông tin về dân số của người Hmông ở các nước chỉ là những con số dự đoán. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, hiện nay người Hmông có mặt ở 15 quốc gia trên thế giới. Cuộc điều tra dân số năm 1990 của Trung Quốc cho thấy, 17
  20. tại đất nước có đông người Hmông nhất thế giới này có 7.383.622 người tự nhận là người Miao/Miêu [2] (chiếm 0,65% dân số toàn Trung Quốc lúc đó). Người Miao/Miêu chủ yếu cư trú ở phía Nam Trung Quốc: Vân Nam (895.704 người), Tứ Xuyên (533.860 người), Quý Châu (3.666.701 người), Hồ Nam (1.568.951 người), Quảng Tây (426.413 người), Hồ Bắc (200.764 người), Hải Nam (51.676 người), Quảng Đông (5.988 người) và 33.515 người ở các tỉnh khác. Theo dự đoán của Gary Lee và Nick Tapp (2002), tổng dân số của người Miao/Miêu ở Trung Quốc vào khoảng 9 triệu người. Ở Lào, theo điều tra dân số năm 1995, có 315.465 người Hmông, chiếm 9,6% dân số, họ được gọi là người Mẹo, một bộ tộc trong nhóm Lào Sủng, cư trú chủ yếu ở hầu khắp Bắc Lào, song tập trung đông nhất ở Xiêng Khoảng và Đặc khu Xay Xổm Bun. Ở Thái Lan, theo số liệu thống kê của Vụ Phúc lợi công cộng Thái Lan, đến năm 1998, dân số người Hmông có 126.300 người, chiếm 0,21% dân số toàn quốc, phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc Thái Lan, tập trung đông nhất ở các tỉnh: Chiang Rai, Chiang Mai, Tak, Nan. Ở Việt Nam, theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hmông có dân số 1.068.189 người, đứng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Hmông cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (231.464 người, chiếm 31,9% dân số toàn tỉnh và 21,7% tổng số người Hmông tại Việt Nam), Điện Biên (170.648 người, chiếm 34,8% dân số toàn tỉnh và 16,0% tổng số người Hmông tại Việt Nam), Sơn La (157.253 người, chiếm 14,6% dân số toàn tỉnh và 14,7% tổng số người Hmông tại Việt Nam), Lào Cai (146.147 người, chiếm 23,8% dân số toàn tỉnh và 13,7% tổng số người Hmông tại Việt Nam), Lai Châu (83.324 người), Yên Bái (81.921 người), Cao Bằng (51.373 người), Nghệ 2 Ở Trung Quốc, tuy không có số liệu riêng về người Hmông, nhưng trong số người Miao/Miêu ước tính có khoảng một nửa là người Hmông. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2