intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Ảnh hưởng của văn học xô viết đối với việc xây dựng hình tượng “con người mới” trong văn xuôi việt nam 1945 – 1975

Chia sẻ: Duong Ngoc The | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

107
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Ảnh hưởng của văn học Xô Viết đối với việc xây dựng hình tượng “con người mới” trong văn xuôi Việt Nam 1945 – 1975 được nghiên cứu với mục đích: Nhận chân giá trị của một hình tượng văn học. Có thể người tiếp nhận văn học hôm nay vẫn còn đánh giá hình tượng bằng việc nhận định những mặt còn tồn tại của nó nhưng với chúng tôi “con người mới” là một chân dung văn học, nó cũng có vai trò nhất định đối với việc giúp con người khám phá bản thân, khám phá cuộc sống, nhất là khi chúng ta đã ở một thời điểm khác của lịch sử nhân loại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Ảnh hưởng của văn học xô viết đối với việc xây dựng hình tượng “con người mới” trong văn xuôi việt nam 1945 – 1975

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _______________ Đỗ Thị Thùy Dương Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ PHƯƠNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
  2. MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài và mục đích nghiên cứu Đời sống văn học mỗi thời đại có những dấu ấn của nó đối với tiến trình chung của văn học mỗi dân tộc. Văn học Việt Nam thế kỉ XX đã được tổng kết nhưng nó không liền một mạch trong bối cảnh tiếp xúc như văn học thời trung đại. Trong toàn tiến trình của văn học Việt ở thời hiện đại, văn học giai đoạn 1945 – 1975 diễn tiến trong điều kiện bất thường (chiến tranh giải phóng dân tộc), lực lượng văn hóa được tiếp xúc cũng khác (văn hóa “phe” xã hội chủ nghĩa). Hoàn cảnh này khác với thời phong kiến và cũng khác cả với ngót năm mươi năm đầu thế kỉ XX. Ở các mốc thời gian đã nêu, văn học Việt chấp nhận sự phụ thuộc vào bên ngoài, đến thời kì mới này, chúng ta lại chủ động tiếp nhận luồng gió mới đến từ Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga: văn hóa, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trong phạm vi và nhiệm vụ đặt ra cho mình, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa đã đi đến cùng những tín điều của nó. Vì thế mà nó không tránh khỏi những vết đổ, những khiếm khuyết. Thực ra thì mỗi thời kì văn học, cùng với thế ưu trội của nó, người ta luôn phát hiện thấy những mặt chưa được, đó như là một quy luật trong đời sống văn học. Văn học giai đoạn 1945 – 1975 của ta cũng thế. Vấn đề này Trần Ngọc Vượng đã từng đề cập: “Nền văn học của chúng ta, ở một ý nghĩa nào đó, được đẩy tới từ phía sau, từ quán tính lịch sử, với cả những đặc trưng, nét độc đáo, và cả bởi những phương diện yếu kém và hạn chế của nó” [83, tr.46-47]. Đánh giá một giai đoạn văn học phải có tiêu chí, chúng tôi đồng tình với các tiêu chí mà Nguyễn Văn Long đã đề nghị trong cuốn sách Văn học Việt Nam trong thời đại mới: - Tác dụng của văn học với thời đại, nói khác đi, là sự đáp ứng của văn học đối với những đòi hỏi bức thiết của thời đại.
  3. - Giá trị mà văn học mang đến cho con người ở mọi thời đại, nói cách khác, là tính nhân loại phổ quát của nó. - Vai trò của văn học trong tiến trình chung, nghĩa là nó có kế thừa truyền thống văn học dân tộc, văn học nhân loại để tạo nên chỗ đứng cho mình một mặt vẫn thúc đẩy văn học đi lên hay không? Cho đến nay, khi đã ở một thế kỉ mới, giới nghiên cứu văn học cũng đã giải quyết được vấn đề đánh giá văn học cách mạng Việt Nam trong hai cuộc chiến lớn ở thế kỉ XX dựa trên những tiêu chí trên, đặc biệt là trong điều kiện từ sau quá trình Đổi mới văn học (Đại hội VI của Đảng – 1986). Rất nhiều công trình có giá trị góp tiếng nói tích cực cho việc nhìn nhận những bước đi của văn học dân tộc. Tuy nhiên, đánh giá thành tựu của một giai đoạn văn học còn xem xét đến đóng góp của các thể loại văn học, trên chân dung tinh thần của nó, chân dung đó không gì khác là hình ảnh con người trên các trang viết. Theo chúng tôi, con người mới trong văn học cách mạng Việt Nam và văn học Xô-viết có những điểm riêng biệt cần được ghi nhận lại, nhất là nhìn từ giác độ của người tiếp cận văn học trong thời bình và dưới góc độ văn hóa. Với tư cách là một chân dung văn học, con người mới cần được đánh giá như chúng ta đã từng đánh giá các nhân vật của văn học lãng mạn, văn học hiện thực phê phán giai đoạn trước 1945. Do vậy, tiến hành khảo sát đề tài Ảnh hưởng của văn học Xô viết đối với việc xây dựng hình tượng “con người mới” trong văn xuôi Việt Nam 1945 – 1975 chúng tôi cũng không nằm ngoài mục đích nhận chân giá trị của một hình tượng văn học. Có thể người tiếp nhận văn học hôm nay vẫn còn đánh giá hình tượng bằng việc nhận định những mặt còn tồn tại của nó nhưng với chúng tôi “con người mới” là một chân dung văn học, nó cũng có vai trò nhất định đối với việc giúp con người khám phá bản thân,
  4. khám phá cuộc sống, nhất là khi chúng ta đã ở một thời điểm khác của lịch sử nhân loại. Vấn đề được mang ra bàn bạc của chúng tôi lại không phải là nhân vật trong tất cả các thể loại văn học mà chỉ ở phạm vi của văn xuôi. Với chúng tôi, con người trong văn xuôi cách mạng phong phú hơn, đa diện hơn so với con người trong thơ ca (mặc dù vẫn phải thừa nhận hai thể loại này có công không nhỏ đối với quá trình vận động của văn học dân tộc và lịch sử dân tộc). Với tư cách là một trong những thể loại “chủ lực” của văn học cách mạng dân tộc ta, văn xuôi khoảng 30 năm đấu tranh chống ngoại xâm đã để lại những hình tượng đẹp mà ở thời bình này chúng ta cần khám phá lại, cần đúc rút những kinh nghiệm quý báu (mà trong giới hạn của những cuộc chiến kéo dài văn học dân tộc không tránh khỏi những vấp váp) cho bước đi tiếp theo, đầy hứa hẹn hơn của văn chương nước nhà. Trong bối cảnh đã có, ảnh hưởng của văn học các nước xã hội chủ nghĩa đối với văn chương Việt một thời là không nhỏ, mà trực tiếp và sâu sắc không thể nào không kể đến văn học Xô-viết. Do đó, chúng tôi mong muốn qua những điều được bàn bạc, đánh giá của đề tài, sẽ một lần nữa bình giá một cách khách quan một hình tượng văn học, đối sánh với thế giới nhân vật của các giai đoạn trước và sau nó để nhận thấy vị trí, vai trò của nó. 2. Phạm vi nghiên cứu Với mục tiêu đã xác định như trên, hai đối tượng được chúng tôi khảo sát là những tác phẩm văn xuôi Việt Nam 1945 – 1975 và tác phẩm văn xuôi Xô-viết có cùng cảm hứng, cùng hình tượng. Văn học Xô-viết, bộ phận văn học ra đời sau cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga – Xô-viết 1917 là một bộ phận trong toàn bộ tiến trình văn học Nga thế kỉ XX. Có thể ngày nay, khi đã có điều kiện tìm hiểu đầy đủ hơn, người tiếp cận văn học cho rằng nó chỉ có những giá trị cấp thời, so với bộ
  5. phận văn học Nga lưu vong, bộ phận văn học Nga bị cấm đoán dưới thời nhà nước Xô-viết nhưng gạt bỏ nó, phủ nhận nó thì lại không phải là điều dễ dàng. Trên thực tế, văn học thời Xô-viết ở Nga (có thể kể từ khi nó được tuyên bố chính thức vào năm 1934 cho đến lúc nhà nước Xô-viết sụp đổ vào năm 1991) phức tạp, đa phong cách hơn nhiều. Ảnh hưởng của nó đối với văn chương các nước xã hội chủ nghĩa lại hết sức mạnh mẽ, ngay cả đối với một số nước phương Tây Tư bản chủ nghĩa cũng thế. Tuy nhiên, do yêu cầu chính trị một thời, nhiều nước (trong đó có Việt Nam) đã du nhập, học hỏi văn học Xô-viết một cách cắt xén, bảo thủ khiến cho nó trở nên xơ cứng. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng chính sự du nhập đó đã giúp văn chương các nước đấu tranh cho hòa bình và tự do của con người một thời đạt được mục tiêu lớn nhất của mình. Trong số nhiều tác phẩm văn học Xô-viết được dịch ở Việt Nam ngày trước (phần nhiều là các tác phẩm văn xuôi), hai đề tài lớn đã được chuyển tải vào trang viết là đề tài chiến tranh giải phóng và đề tài lao động xã hội chủ nghĩa. Gặp gỡ với văn xuôi Xô-viết, văn xuôi Việt Nam 30 năm bền bỉ kháng Pháp rồi kháng Mỹ cũng đã tái hiện hình tượng con người thời đại một cách công phu, đa diện. Với văn xuôi Việt Nam, từ sau ngày toàn quốc kháng chiến (1946), những con người mới đã được thể hiện. Chúng tôi gọi các nhân vật văn học lúc này là những con người mới bởi họ mang một thân phận khác, một cuộc đời khác, có tự do hơn từ sau ngày Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 và từ đó về sau họ luôn ý thức về việc giành lấy từ tay kẻ thù xâm lược cuộc đời của mình, tự do của mình và hòa bình cho dân tộc mình. Tuy nhiên, trong văn học, hình tượng con người mới trở nên là đề tài quán xuyến nhất và được tập trung thể hiện nhiều nhất là từ khi miền Bắc Việt Nam bắt tay vào xây dựng Chủ nghĩa xã hội, góp phần cùng miền Nam đấu tranh thống nhất nước nhà. Trong bối cảnh đó, văn học hai miền Nam-Bắc (đặc biệt là văn học miền Bắc)
  6. đều đã ghi nhận những vẻ đẹp của con người thời chiến và đều học tập từ kinh nghiệm của văn học Xô-viết, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cho nên, chúng tôi xác định khu vực tìm hiểu của mình là một số tác phẩm văn xuôi Xô-viết và Việt Nam (giai đoạn 1945 – 1975) một thời tạo được tiếng vang của nó đối với độc giả một thời. 3. Lịch sử vấn đề Giai đoạn văn học chúng tôi xác định và hình tượng nhân vật trung tâm của nó đã có nhiều công trình bàn bạc, đánh giá. Ở những năm còn trong không khí sục sôi của hai cuộc chiến của dân tộc, nhất là từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử, với nhu cầu cổ vũ cho những thắng lợi khác nhau của cách mạng Việt Nam, sau đó là khẳng định sức mạnh tinh thần dân tộc, nhiều bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học nhiều năm liền đã đề cao vai trò của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, đề cao vẻ đẹp con người thời chiến. Sau đại thắng mùa xuân 1975, âm hưởng cuộc chiến lớn của dân tộc còn vang vọng, trước thời kì Đổi mới, nhiều nhà nghiên cứu đã có những công trình mang tính chất tổng kết đóng góp của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có thể kể đến: Cuộc sống và tiếng nói nghệ thuật, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của Phan Cự Đệ, Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa của Phong Lê… Đến khi văn học chuyển sang thời bình với đúng nghĩa của nó, tinh thần dân chủ được đặt ra, nhiều tác giả đã hướng đến việc nhìn nhận văn học cách mạng và nhân vật trung tâm của nó trong thế nhiều chiều, tức là có cả những mặt mạnh và có cả những hạn chế của nó, đó là cách làm có ý nghĩa. Bởi vì, trong giới hạn của những cuộc chiến liên tiếp nhiều nhà văn không chuẩn bị tâm thế cầm súng nhưng đã tự giác cầm súng, điều này đã phần nào “khuôn” lại sức sáng tạo. Mặt khác, lại cũng nhờ vào không gian sáng tác bất thường đó mà văn học thời chiến đã hoàn thành nhiệm vụ của nó một cách đáng tự hào. Hướng vào đánh giá văn
  7. học chiến tranh cách mạng trong tư thế đó có một số công trình đáng chú ý như: Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới (1991), Chặng đường mới của văn học Việt Nam (1998) do Hà Minh Đức chủ biên, 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám (1996) do Đại học quốc gia Hà Nội, Trường viết văn Nguyễn Du và Tạp chí Văn nghệ quân đội hợp tác xuất bản. Đặc biệt với 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, cuốn sách đã tập hợp một lực lượng lớn các tác giả tham gia bàn luận, có giới nghiên cứu, có cả những nhà văn mặc áo lính một thời. Vào đầu thế kỉ XXI, với công trình Nhìn lại Văn học Việt Nam thế kỉ XX (2001) cũng do Hà Minh Đức chủ biên, người tiếp cận văn học của thế kỉ mới có dịp nhìn nhận văn học hiện đại Việt Nam trong bức tranh toàn cảnh của nó trong nhiệm vụ hiện đại hóa văn học, gìn giữ và phát huy truyền thống và cả trong nhiệm vụ chính trị của nó. Vài năm sau, khoảng năm 2003, hai công trình đáng chú ý là Văn học Việt Nam trong thời đại mới của Nguyễn Văn Long và Văn học Việt Nam hiện đại - Lịch sử và lý luận của Phong Lê ra đời; chúng nhằm vào mục tiêu hoàn thiện một cách nhìn về văn học hiện đại Việt Nam trong đó có văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Các tác giả đã vạch ra từng chặng đường phát triển của văn học dân tộc ở thế kỉ XX, ghi nhận thành tựu và hạn chế của nó. Và từ đó đến nay, dường như bàn về văn học cách mạng Việt Nam cũng chưa đến hồi kết, nhất là trong điều kiện nghiên cứu, trao đổi, bình luận văn học được mở rộng ở cả phạm vi mạng điện tử như hiện nay. Không khó để người theo dõi văn học tìm cho mình một bài viết thuộc phạm trù này trên các trang mạng in-tơ-nét. Tuy nhiên, theo chúng tôi, tất cả chỉ bàn đến văn học 30 năm ấy với tư cách một nền văn học, ở bề rộng (tức là ở diện của nó) chứ chưa tìm hiểu nó trong thế giới nhân vật chính của nó (tức là khai thác điểm) thông qua nhân vật trung tâm của thời đại và với một số thể loại chủ yếu.
  8. Do vậy, chúng tôi đặt ra cho mình công việc ấy. Thêm vào đó, chúng tôi xác định một trọng tâm cho mình là con người mới, một hình tượng với tư cách một chân dung văn học. Các công trình đã nêu đã gợi dẫn cho chúng tôi. Chúng tôi xem xét con người mới trong lịch sử thế giới các nhân vật văn học Việt Nam thế kỉ XX trong đó không thể nào không kể đến cảm hứng thời đại của nó. Một điều có thể nhận thấy là “trong thời đại hiện nay rất khó tìm hình ảnh quy tụ duy nhất của con người thời đại” (Hà Minh Đức) so với các giai đoạn văn học trước và sau Cách mạng tháng Tám. Cho nên chúng tôi thấy là việc khảo sát sẽ giúp có một hướng đi phù hợp hơn cho văn học trong kỉ nguyên mới. 4. Phương pháp nghiên cứu Xác định đề tài và mục đích nghiên cứu như trên chúng tôi lựa chọn một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp lịch sử - xã hội, nghĩa là tìm hiểu đối tượng trong môi trường phát sinh, vận động của nó và trong những điều kiện xã hội mà nó tham gia. Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, như đã nêu ở trên, đã vận động khác với trước 1945 và sau 1975. Do vậy, ngược trở lại quá khứ để bình giá một hiện tượng, chính phương pháp lịch sử - xã hội sẽ giúp ta không lạc điệu, không áp đặt quan điểm. Thêm nữa, đây đã là phương pháp được thừa nhận về tính khoa học của nó (Nguyễn Văn Dân trong cuốn sách Phương pháp luận nghiên cứu văn học đã đề cập vấn đề này). - Phương pháp hệ thống, tức là đi tìm hiểu đối tượng trong những hệ thống chứa nó. Đối tượng mà chúng tôi xác định ở trên có nhiều cấp độ và được đặt trong những hệ thống khác nhau. Trước hết là cấp độ thể loại: các tác phẩm được chọn là các phẩm thuộc thể loại văn xuôi. Thứ đến là cấp độ đề tài: đề tài chiến đấu và đề tài lao động xã hội chủ nghĩa. Tiếp theo là cấp độ hình tượng: hình tượng con người mới. Các hệ thống đã xác định đều nằm
  9. trong phạm vi phản ánh của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa của Việt Nam và Xô-viết ở một thời đoạn nhất định. - Phương pháp so sánh, tìm hiểu hai nền văn học có cùng phương pháp sáng tác cũng chính là đi tìm điểm giao nhau giữa chúng. Phương pháp so sánh giúp định vị một hiện tượng. Thêm vào đó, nằm trong dụng ý đánh giá hình tượng “con người mới” trong văn xuôi cách mạng Việt Nam, chúng tôi còn mong muốn từ các kết quả so sánh để đi đến khẳng định đặc trưng của khuynh hướng sáng tác một thời của văn học dân tộc mà có lẽ từ đó về sau không thể tìm ở một giai đoạn khác. Ở đó, văn học sử đã ghi nhận dấu ấn riêng trong cảm hứng sáng tạo của văn nghệ sĩ Việt Nam trong hai cuộc chiến thần thánh là cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi. Các phương pháp trên luôn được đặt trong quá trình phân tích, bình giá, điều tra, đối chiếu để góp phần làm sáng tỏ cách nhìn đối với một hình tượng văn học trong quá khứ. 5. Đóng góp của luận văn Lật lại một vấn đề không mới, chúng tôi nhận thấy công trình chưa thực sự là một công trình hoàn toàn mới. Tuy nhiên, khi xác định bàn bạc về hình tượng con người mới chúng tôi nhận thấy đã làm được một số việc hữu ích sau: - Góp thêm một cách nhìn của người tiếp nhận văn học ở thế kỉ XXI về mặt mạnh và hạn chế của hình tượng nhân vật qua đối sánh với thế giới các nhân vật văn học của hai giai đoạn trước và sau nó. Theo đó, chúng tôi khẳng định con người mới cũng là một chân dung văn học, cùng với nó, thế giới các nhân vật trong văn học dân tộc là một vườn hoa nhiều sắc để người đọc có thể thưởng thức, khám phá. - Tiến hành đối sánh với hai giai đoạn văn học khác về môi trường tiếp xúc với văn học cách mạng là để làm sáng rõ đóng góp lớn lao của văn học
  10. cách mạng Việt Nam đối với lịch sử và văn học dân tộc, điều mà nhiều công trình, hoặc chỉ đối sánh với văn chương thời thuộc Pháp, hoặc chỉ đối sánh với văn chương đương đại Việt Nam trong cuộc vươn mình ra bên ngoài. - Bày tỏ niềm mong muốn về những đóng góp thực sự đỉnh cao hơn của văn chương Việt mà chính văn học quá khứ là một kinh nghiệm vô giá cho tương lai văn học dân tộc. Điều này có lần nhà nghiên cứu Phong Lê đã trăn trở: “Văn học Việt Nam thế kỉ XX quả có những đóng góp thật lớn và quý giá cho cộng đồng dân tộc và văn hóa dân tộc. Nhưng cũng đã đến lúc cần tính đến những đóng góp cho nhân loại. Cần nâng tiếng nói dân tộc được kết tinh trong tiếng nói văn học ra thế giới…” [35, tr.71]. 6. Cấu trúc luận văn Luận văn gồm 90 trang. Ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (5 trang), Thư mục tham khảo (7 trang), nội dung luận văn được xây dựng từ 03 chương: Chương 1: SỰ RA ĐỜI CỦA NỀN VĂN HỌC HIỆN THỰC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM (21 trang). Với chương này, chúng tôi đặt nhiệm vụ đi tìm hiểu lại lịch trình của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa với tư cách là phương pháp sáng tác ra đời trong lòng các nước XHCN mà nước Nga – Xô-viết là trụ cột. Học tập văn học Xô-viết, văn học Việt Nam cũng đã chọn cho mình một hướng đi trong điều kiện bất ngờ, bất thường của cuộc đấu tranh cách mạng. Cả hai nền văn học có cùng một nhiệm vụ chính trị đã ý thức cao về việc xác định hình tượng nhân vật trung tâm. Từ đây, luận văn chuẩn bị cho việc hình thành chương thứ hai và cũng tạo cơ sở cho việc đánh giá ở chương ba. Chương 2: HÌNH TƯỢNG “CON NGƯỜI MỚI” TRONG VĂN HỌC HIỆN THỰC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1945 – 1975 QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI TIÊU BIỂU (31 trang). Đây là chương thực
  11. hành việc đối sánh một số tác phẩm văn xuôi tiêu biểu của Việt Nam được sáng tác theo khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa với một số tác phẩm văn xuôi Xô-viết mà nó chịu ảnh hưởng. Bằng công việc này, chúng tôi chỉ ra điểm gặp gỡ về nội dung và cách thức xây dựng hình tượng của các tác giả, tác phẩm. Quan niệm rằng lấy đối tượng được ảnh hưởng để đối chiếu với đối tượng chịu ảnh hưởng để thấy sức ảnh hưởng cho nên chúng tôi nghiêng vấn đề về một số tác phẩm một thời của văn học Việt Nam tạo được sự quan tâm của dư luận. Từ đó, chúng tôi dẫn dắt vấn đề đến chương còn lại. Chương 3: NHÌN NHẬN VÀ ĐÁNH GIÁ HÌNH TƯỢNG “CON NGƯỜI MỚI” TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM 1945 – 1975 (16 trang). Xem xét một hình tượng văn học trong quá khứ vốn lại là hình tượng ra đời trong nhu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh cách mạng, cho nên sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Do vậy, nhìn nhận và đánh giá “con người mới” chúng tôi tiến hành đặt trong thế so sánh với các hình tượng văn học các giai đoạn trước và sau nó để có thể bình giá, cho ý kiến một cách khách quan. Với những ưu trội và bất cập của nó, văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 đã phát huy vai trò ra sao, để lại bài học gì cho văn học các giai đoạn sau nó? Chúng tôi hướng đến khẳng định sức đóng góp lớn lao của văn học thời chiến nhưng cũng lưu ý về việc đúc rút những kinh nghiệm cho bước đi hiện tại của văn học nước nhà.
  12. Chương 1 SỰ RA ĐỜI CỦA NỀN VĂN HỌC HIỆN THỰC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 1.1. Khái lược về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa Tìm hiểu bất kì một nền văn học, một hiện tượng văn học nào cũng phải đặt trong dòng chảy của thời đoạn mà nó tồn tại. Trong lịch sử văn học nhân loại, mỗi giai đoạn, mỗi thời kì có những dòng văn học và phương pháp sáng tác riêng đóng vai trò chủ đạo. Ở mỗi thời đại và tùy vào bước đi của mỗi quốc gia, văn học dự phần tích cực vào việc thay đổi diện mạo đời sống tinh thần. Cho đến trước thế kỉ XX, văn học Việt Nam đi trong xu thế chung của khu vực là chủ nghĩa Cổ điển. Đến đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa Hiện thực phê phán và chủ nghĩa Lãng mạn phương Tây đã vào Việt Nam, đưa văn học nước ta gia nhập quỹ đạo văn học hiện đại thế giới. Đêm trước của cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, trong địa hạt văn chương, ở thế kỉ XIX, nhất là từ những năm 40 trở đi, nhu cầu miêu tả cuộc sống như chính nó vốn có đã được các nhà văn đặt ra bằng các sáng tác theo khuynh hướng hiện thực và với cảm hứng phê phán. Ở đó, các nhà văn đặt ra vấn đề tái tạo đời sống “trong những hình thức của bản thân đời sống” và văn học thế giới đã ghi nhận những tên tuổi sáng giá của dòng văn học hiện thực như Bandắc, Gôgôn, L. Tônxtôi, Đốtxtôiépxki v.v… Đến giữa thế kỉ XX, lịch sử nhân loại chuyển mình, việc tồn tại hệ thống xã hội chủ nghĩa đối trọng với tư bản chủ nghĩa đã dẫn đến sự ra đời dòng chủ lưu của văn học các nước xã hội chủ nghĩa mà phương pháp sáng tác mới nhất được khẳng định lúc ấy là Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa (từ đây sẽ viết tắt CNHT
  13. XHCN). Vào những thập niên đầu thế kỉ XX chủ nghĩa hiện thực vẫn tiếp tục đảm đương vai trò trọng yếu của nó đối với văn chương thế giới, tuy vậy, sự xuất hiện của trào lưu HT XHCN đã tạo được thế đối trọng với các phương pháp sáng tác mới, chủ yếu được trọng dụng ở nước tư bản phương Tây khác biệt về thể chế chính trị. Vào thời điểm CNHT XHCN ra đời và vào những năm phát triển nhất của nó, nó được văn học các nước XHCN coi là một phương pháp ưu việt của ý thức vô sản, của nhân sinh quan cộng sản. CNHT XHCN, xét về phương diện một phương pháp sáng tác, có những đặc điểm chính sau đây: 1.1.1. CNHT XHCN – Phương pháp sáng tác gắn với một thể chế chính trị Đây là một hiện tượng hiếm khi xảy ra trong lịch sử văn hóa nhân loại. Xưa nay, chưa từng thấy có một phương pháp sáng tác nào mà ngay từ đầu đã được đặt tên, hơn nữa là, cái tên ấy gắn với tên của một hình thức nhà nước. Cho nên, phương pháp sáng tác này, về nguyên tắc, tất yếu hàm chứa bên trong mình tính chất giới hạn về thời gian và không gian. Xét về giới hạn thời gian, nó có một đời sống gắn liền với sự hình thành, phát triển và kết cục của một hình thức nhà nước; xét về giới hạn không gian, nó được coi là dòng chủ lưu chỉ ở các nước XHCN. Sự giới hạn này không quan sát thấy trong các phương pháp, trào lưu sáng tác khác trên thế giới. Cùng với sự ra đời của nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới, và sau này là cả một hệ thống các nước XHCN, một nền văn học nghệ thuật mới ra đời – đó là nền văn học vô sản. Riêng nội hàm “văn học vô sản” đã cho thấy đây là một nền văn học được xác định như một hình thái hoạt động của ý thức hệ. Ý thức hệ đó có tính chất đối lập với ý thức hệ của giai cấp tư sản – giai cấp mà cách mạng vô sản vừa đánh đổ. Cho nên việc phê phán quan điểm văn học tư sản của CNHT XHCN sẽ được thể hiện trong cả nội dung lẫn thủ pháp
  14. nghệ thuật của văn học, được quy định chặt chẽ bởi lập trường giai cấp của người viết. Từ đó, “chìa khoá vạn năng” để khám phá tác phẩm văn chương cũng như thế giới tư tưởng của tác giả chính là “tâm lí giai cấp”. Ngày 30/12/1922, một quốc gia mới được thành lập gọi là “Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô-viết” (gọi tắt là Liên Xô). Nhằm nhà nước hóa các hoạt động văn nghệ và khoa học, ngày 23/04/1932 Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô ra Nghị quyết về việc thống nhất tất cả các nhóm văn học vào một tổ chức duy nhất gọi là Hội các nhà văn Xô-viết, nằm dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản. Từ đây, Hội các nhà văn và các Viện nghiên cứu văn học ở Liên Xô trở thành những cơ quan phát ngôn cho tiếng nói chính thống của Đảng và Nhà nước. Ngày 16/10/1932, trong một cuộc tọa đàm văn học, Stalin đã xác định phương hướng sáng tác của văn học Xô-viết: “Nhà nghệ thuật cần phải miêu tả chân thực cuộc sống. Nếu như anh ta miêu tả cuộc sống thì anh ta không thể không chú ý và không thể không phản ánh cuộc sống đang hướng về CNXH. Đó chính là CNHT XHCN” [dẫn theo 72, tr.78]. Đó là lần đầu tiên thuật ngữ “Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” được nêu ra. Tiếp theo, trong Đại hội các nhà văn Liên Xô lần thứ nhất (tháng 8/1934), CNHT XHCN được tuyên bố chính thức là phương pháp sáng tác cơ bản của văn nghệ Liên Xô. M. Goócki, trong Đại hội đó, đã khẳng định vai trò, vị trí của nhà văn: “Vị trí của chúng ta (nhà văn Xô-viết – tác giả luận văn) không chỉ là vị trí những người phê phán việc đời và mọi người […] chúng ta còn có quyền tham gia trực tiếp vào việc xây dựng cuộc sống mới, việc cải tạo cuộc đời” [22, tr.49]. Như vậy, có thể thấy rất rõ là, phục vụ chính trị được xem là sứ mệnh cao quý của nền văn nghệ và là trách nhiệm hàng đầu của các nhà văn Xô-viết, những nhà văn cách mạng. Ước vọng cũng vừa là tham vọng cải tạo thế giới chính các nhà văn Xô-viết cũng đặt ra cho mình.
  15. Sau Thế chiến II, hệ thống các nước XHCN ra đời. Cùng với nó, nền văn học vô sản và phương pháp sáng tác HT XHCN được hình thành, trong đó có Việt Nam. Phương pháp sáng tác này tồn tại như một phương pháp độc tôn cho sáng tạo nghệ thuật ở Liên Xô trong suốt hơn nửa thế kỉ. Cùng với sự sụp đổ của Liên bang Xô-viết và sự tan rã của khối các nước XHCN Đông Âu, nền văn học vô sản cùng phương pháp sáng tác HT XHCN dần dần trở thành hiện tượng lịch sử: “Mươi năm trở lại đây, không tìm thấy tạp chí nào còn đăng những bài viết về hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ở nước Nga, hầu như không có trường đại học nào sử dụng các bộ giáo trình của những tác giả rất đỗi quen thuộc với độc giả Việt Nam như G. L. Abramôvich, L.V. Sêpilôva, S.M. Pêt’rôp, L.I. Timôphâyep…” [46, tr.76]. Sơ lược lại sự hình thành và kết thúc của nền văn học HT XHCN, chúng ta có thể khẳng định tính chất giới hạn về không gian và thời gian của một phương pháp sáng tác từng gắn với một thể chế chính trị. Tính chất gắn bó với chính trị này sẽ quy định cách phản ánh hiện thực trong văn học mà chúng tôi xin trình bày dưới đây. 1.1.2. CNHT XHCN – Phương pháp sáng tác có những nguyên tắc riêng trong quan niệm phản ánh hiện thực Như một đòi hỏi mang tính tất yếu, ở thế kỉ XX, trong công cuộc đấu tranh chống kẻ thù phát xít, đế quốc, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa đã tìm thấy ở văn học một thứ khí giới tinh thần hữu hiệu để sử dụng. Bước lên vũ đài chính trị thế giới, giai cấp vô sản phải xây dựng một ý thức hệ cho mình và do vậy cũng cần xây dựng nền văn học nghệ thuật của riêng mình. Nền văn học ấy có những nguyên tắc riêng của mình trong cách phản ánh hiện thực. Đó là cách tái hiện một cuộc sống cụ thể, lịch sử, cách mạng, nghĩa là nó phải như cuộc sống vốn có đồng thời lại luôn hướng về tương lai. Bằng văn học và qua văn học, nhà văn phải hướng đến việc cải tạo hiện thực,
  16. con người, điều này đồng nghĩa với việc văn học phải coi chức năng quan trọng nhất của nó là nhận thức và giáo dục. Nói chung thì, CNHT XHCN, với tư cách là phương pháp sáng tác chủ yếu ở các nước xã hội chủ nghĩa, đã đặt ra nguyên tắc đối với văn học nghệ thuật các nước này là: văn học – nghệ thuật không chỉ nhận thức thực tại, nhận thức cuộc sống mà còn góp phần cải tạo xã hội, cải tạo con người. Viết về bất kì đề tài nào, xây dựng nhân vật ra sao thì nhà văn cũng phải xuất phát từ những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của cách mạng. Tư cách nhà văn đồng hành cùng tư cách người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn nghệ. Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, vì thế, là nền văn học gắn bó mật thiết với cuộc sống, rất nhạy bén với những vấn đề xã hội nóng hổi, nó mang tính thời sự và tính chiến đấu… Đối tượng miêu tả đồng thời cũng là nội dung phản ánh của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là cuộc sống và những con người của thế giới mới; phương thức miêu tả trong văn học là kiểu miêu tả giống như thực; cảm hứng lãng mạn, anh hùng ca cũng được thể hiện và do đó, âm hưởng chủ đạo của nền văn học này là âm hưởng lạc quan. Tất cả đều cùng hướng vào việc đấu tranh cho lí tưởng của chủ nghĩa xã hội được xem như là ánh sáng, là niềm tin đối với loài người lúc bấy giờ. Do vậy, “các thử nghiệm và phát hiện về nghệ thuật của các trào lưu chủ nghĩa tiền phong, chủ nghĩa hiện đại đều bị coi là xa lạ, có hại…” (dẫn theo Lại Nguyên Ân). Những điều diễn giải ở trên là để chứng minh định nghĩa của Lại Nguyên Ân: “CNHT XHCN là hiện tượng đặc thù trong văn hoá nghệ thuật nhân loại thế kỉ XX: đây là lần đầu tiên một số nguyên tắc về khuynh hướng nghệ thuật được đề ra như một chuẩn mực mang tính pháp quy, được coi là độc tôn trong toàn bộ đời sống của các nền văn học dân tộc. CNHT XHCN là một trong những nhân tố bề sâu để cấu thành một thiết chế văn học đặc biệt,
  17. mang tính nhà nước rõ rệt…” [3, tr.92-93]. Với tư cách là hiện tượng quốc tế một thời, CNHT XHCN là một phong trào, một hệ thống nghệ thuật thế giới thống nhất ở thế kỉ XX chủ yếu trong phạm vi cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa anh em. CNHT XHCN đã tạo được tiếng vang lớn trong thời đại của nó. Có thể đến nay nó chỉ còn là những kí ức thi thoảng được nhắc đến nhưng không thể phủ nhận sức ảnh hưởng của nó ngay từ khi mới ra đời và trong suốt thời kì xã hội chủ nghĩa được xác lập như một hệ thống chính trị sừng sững. Có những giáo điều, cứng nhắc trong việc chính trị hóa văn học đã bị phủ nhận trong một thời gian dài chính là để người thưởng thức văn học nhận chân những giá trị, để đời sống văn học nhân loại phong phú hơn, đa sắc hơn và ngày một mới mẻ hơn. Nhận xét như nhà nghiên cứu Phong Lê sau đây thể hiện sự suy nghĩ đúng đắn hơn cả về một phương pháp đã một thời là quan trọng nhất của văn hóa, văn học nhân loại: “Nếu xét trên tổng thể lịch sử và hành trình chung của nhân loại thì văn học xã hội chủ nghĩa hoặc văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa quả có những điểm mới, khác, mang giá trị cách tân ở thời kỳ đầu theo quy luật chung của sự phát triển nghệ thuật…”; “Hiện thực xã hội chủ nghĩa thế kỉ XX, đúng như tên gọi của nó, là sản phẩm trực tiếp của cách mạng vô sản và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, để trở thành tiếng nói đại diện và chính thống của một hệ thống chính trị – thay vì là sự tiếp tục trong nguồn mạch lịch sử chính bản thân sự phát triển tự nhiên của ý thức nghệ thuật” [85]. Trong khả năng và nhiệm vụ đặt ra cho mình, văn học HT XHCN đã hướng đến những giá trị tốt đẹp của con người và cuộc sống. Ở đó văn học đã “coi việc đấu tranh nhằm khẳng định bằng nghệ thuật những cái mới, tích cực, tiên tiến, tốt đẹp trong cuộc sống là nhiệm vụ chủ yếu […] đồng thời không xem nhẹ việc mô tả những cái tiêu cực, lạc hậu, xấu xa nhằm mục đích xóa bỏ chúng” [27, tr.81]. Như vậy, ý nghĩa mà văn học HT XHCN hướng
  18. đến đã mang lại cho con người niềm mơ ước tốt đẹp là không thể chối bỏ. Trong lịch sử văn học, từ khi văn học chưa thành văn đến lúc bắt đầu có chữ viết để sáng tác và bắt đầu khẳng định vị trí của nó trong đời sống tinh thần con người, có một nền văn học nào lại không hướng đến việc khẳng định những giá trị cao đẹp? Nhắc lại hiện tượng văn học một thời đã qua, chúng tôi muốn khẳng định những nỗ lực mà một thời CNHT XHCN đã dốc toàn bộ tinh lực cho những thay đổi lớn của lịch sử loài người. Dù sao, người tiếp nhận văn học hôm nay, trong một thế giới đã bớt đi việc các nước lớn hòng thôn tính nước bé, một thế giới tạm gọi là an ninh, một thế giới phẳng trong tinh thần hợp tác, vẫn phải thừa nhận rằng CNHT XHCN là phạm trù, là sản phẩm của một tất yếu lịch sử. Dư âm của nó vẫn còn vang vọng bởi lẽ các sáng tác của các nước XHCN ngày trước hẳn vẫn còn chiếm được tình cảm nhiều trái tim độc giả. Những bước đi cụ thể của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa và các nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa có liên quan đến phạm vi tìm hiểu của đề tài chúng tôi lần lượt điểm qua ở phần 1.2. 1.2. Sự ra đời nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Việt Nam 1.2.1 Nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô Nước Nga thời kì Xô-viết là quê hương của cách mạng Tháng Mười từng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” vào những thập niên đầu thế kỉ XX. Nước Nga ngày nay đã rẽ sang một ngả khác từ khi Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết tan rã vào năm 1991. Tuy vậy, nghĩ về cái nôi của cách mạng vô sản quốc tế ta lại khó lòng quên ở đó còn là cái nôi của văn học vô sản một thời, nền văn học với những thành tựu không thể chối bỏ giờ đây chỉ còn trong quá vãng.
  19. Vào buổi đầu của cuộc cách mạng do giai cấp vô sản Nga thực hiện, những sáng tác của M.Goócki đã cổ vũ một cách mạnh mẽ tinh thần của giai cấp đang lên (mà nhiều người vẫn nhắc đến tác phẩm Người mẹ của ông). Con chim ưng đầu đàn ấy đã sản sinh một loạt những tác phẩm viết về những con người tiên tiến của thời đại, về những điều đang sẽ trở thành hiện thực trên một đất nước đấu tranh cho hòa bình và tiến bộ của loài người. Và cũng chính M. Goócki đã được xem như là người có công đầu đối với nền văn học vô sản Xô-viết. Nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở nước Nga – Xô-viết đã ra đời trong cuộc bão táp cách mạng tháng 10 (lịch cũ của Nga) năm 1917. Như trên đã nói, sau khi Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết được thành lập (1922), với mục tiêu thống nhất các tổ chức văn nghệ thành một cơ quan duy nhất trên toàn liên bang đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhằm “đưa các nhà văn có xu hướng nghệ thuật và trình độ chính trị khác nhau đi vào đại lộ của nền văn học Xô viết là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” [38, tr.92], Đại hội Hội nhà văn Liên Xô được tiến hành vào năm 1934. Ở đó, điều lệ của Hội đã xác định chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là phương pháp sáng tác chủ đạo trong văn học Xô viết. Từ đó, văn học vô sản Nga đã phát huy vai trò của một nền văn học xã hội chủ nghĩa mới mẻ nhưng đầy xung kích đối với văn học thế giới trong mục tiêu đấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Nhà văn Xô-viết, để dự một phần lớn vào “cuộc tái sinh màu nhiệm” trong văn học và trong cuộc sống, nhất thiết phải trở thành và phải thực sự là nhà văn – chiến sĩ. Đó là đòi hỏi của đất nước, và dường như, cả đối với nhà văn. Nhà văn và nền văn học ấy buộc phải chuyển mình, phải vào cuộc, đáp ứng những đòi hỏi cấp thời. Với vai trò là người anh cả trong cộng đồng thế giới mới lúc bấy giờ, văn học Nga – Xô-viết đã đi đầu bằng các tác phẩm có sức lôi kéo hàng triệu con người trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung ở những năm nửa đầu thế
  20. kỉ XX, trong công cuộc lao động, kiến thiết đất nước nhằm tạo dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội. Các nhà lí luận ở Nga – Xô-viết đã đúc kết thành những luận thuyết và từ đó CNHT XHCN được dùng như một kiểu thước đo, một tiêu chuẩn mang tính pháp quy để điều chỉnh sự phát triển của văn học nghệ thuật. Ở thế kỉ XX, văn học Nga chia thành nhiều dòng khác nhau, có bộ phận văn học đầu thế kỉ mà hiện nay giới nghiên cứu đang thừa nhận rằng nó phân hóa khá phức tạp, có bộ phận văn học vô sản (giai đoạn nhà nước Xô viết, phải kể từ năm 1934 đến 1991), có dòng văn học Nga ở hải ngoại, “một đại lục văn hóa tinh thần đầy mâu thuẫn […] thù địch về mặt chính trị (với nhà nước Xô-viết – tác giả luận văn) nhưng đồng thời cũng toát lên nỗi đau nhức nhối và lòng yêu mến quê hương đất nước mình mà một lúc nào đó đã buộc phải từ giã ra đi” [11, tr.74] và có cả một bộ phận văn chương đầy giá trị đã từng bị cấm đoán dưới thời Xô-viết, bộ phận tự phát hành với những tên tuổi đã vinh danh cho văn học hiện đại Nga như Paxtécnắc, Bungacốp v.v… Ngày nay, có nhiều cách đánh giá khác nhau về bộ phận văn học vô sản Nga (bộ phận được sáng tác và xem phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa là chủ đạo). Có lẽ đó cũng là một quy luật trong lịch sử văn học: cái tích cực, thực giá trị sẽ được thừa nhận, cái xơ cứng, ấu trĩ sẽ phải cân nhắc đánh giá lại. Nền văn học xã hội chủ nghĩa ở Nga ngày ấy đã đi đến cùng trong nhiệm vụ tự đặt ra cho mình (mà cũng có lẽ là do ước vọng cải tạo thế giới theo tinh thần của chủ nghĩa cộng sản lớn hơn khả năng thực tế lúc ấy nên nó rơi vào khủng hoảng) cho nên nó đậm tính chính trị, đồng nhất văn học với chính trị. Văn học bị chính trị hóa, vì thế mà, nó đã trở nên cực đoan, đã bỏ qua những tên tuổi và những tác phẩm xứng đáng, tất cả đã vượt ra khỏi biên giới một nước (chẳng hạn trường hợp Paxtécnắc). Nhưng đặt ra vấn đề bác bỏ văn học Xô viết một thời cũng là điều cần phải được xem xét thấu đáo. Thiết nghĩ chỉ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2