intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thương mại điện tử và thực trạng ứng dụng thương mại điện tử tại Việt Nam

Chia sẻ: Buiduong_1 Buiduong_1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:36

214
lượt xem
54
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thế kỷ XX vừa khép lại với một dấu ấn vĩ đại trong lịch sử phát triển loài người: sự bùng nổ công nghệ thông tin diễn ra trên toàn thế giới. đưa nhân loại bước qua ngưỡng cửa thế kỷ XXI để đứng trước một nền văn minh mới- nơi giao nhau giữa nền "kinh tế trí thức" và "thời đại Internet", nơi trí thức là chủ thể duy nhất " thông trị" nền kinh tế toàn cầu và Internet sắp đặt thế giới trong một chỉnh thể thống nhất. Bước sang thế kỷ XXI, loài người mở thêm...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thương mại điện tử và thực trạng ứng dụng thương mại điện tử tại Việt Nam

  1. Luận văn Thương mại điện tử và thực trạng ứng dụng thương mại điện tử tại Việt Nam 1
  2. LỜI MỞ ĐẦU Thế kỷ XX vừa khép lại với một dấu ấn vĩ đại trong lịch sử phát triển loài người: sự bùng nổ công nghệ thông tin diễn ra trên toàn thế giới. đưa nhân loại bước qua ngưỡng cửa thế kỷ XXI để đứng trước một nền văn minh mới- nơi giao nhau giữa nền "kinh tế trí thức" và "thời đại Internet", nơi trí thức là chủ thể duy nhất " thông trị" nền kinh tế toàn cầu và Internet sắp đặt thế giới trong một chỉnh thể thống nhất. Bước sang thế kỷ XXI, loài người mở thêm một con đường mới cho sự phát triển kinh tế của mình. Đó là Internet - m ột thành tựu đỉnh cao của loài người trong thế kỷ XX. Con đường ấy đã làm cho hoạt động thương mại được vận hành theo một cách thức ho àn toàn khác trước. Trước đây, mặc dù đã có rất nhiều các phương tiện điện tử được áp dụng trong hoạt động thương mại, nhưng hết sức đơn sơ, chỉ khi Internet ra đời và được áp dụng rộng rãi trong thương mại, mang lại những lợi ích, hiệu quả vô cùng to lớn, người ta mới chính thức thừa nhận một phương thức thương mại mới. Đó là thương mại điện tử. Hình thức thương mại này, mang lại cho xã hội, các doanh nghiệp, đến từng cá nhân m ột công cụ hoạt động mới, tiện lợi, dễ dàng và hiệu quả hơn nhiều. Trên thế giới hiện nay, người ta đang gấp rút tiến vào kỷ nguyên kinh tế thông tin - trong đó quan trọng nhất là thương m ại điện tử. Thương m ại điện tử đã trở thành hình thức thương mại cao nhất từ trước đến nay.Ở những nước tiên tiến, thương m ại điện tử đ ược áp dụng ngày càng nhiều và tốc độ càng nhanh với hiệu quả hết sức nhãn tiền. Nước ta, một nước đang phát triển, không thể nào không coi trọng. Với mong muốn nước ta bước vào nền kinh tế tri thức trong thế kỷ tới một cách thành công, theo kịp sự phát triển của các nước tiên tiến trên thế giới, trong tiểu luận này chúng em đã chọn đề tài : "Thương mại điện tử và thực trạng ứng dụng thương mại điện tử tại Việt Nam ”.Bài tiểu luận được chia thành hai chương: Chương I: Những vấn đề chung về mạng Internet và thương mại điện tử. 2
  3. Chương này giới thiệu một cách khái quát những vấn đề về Internet và thương mại điện tử. Chương II: Thực trạng việc ứng dụng thương mại điện tử tại Việt Nam những kiến nghị về phát triển thương mại điện tử và hướng những ứng dụng thương mại điện tử vào ho ạt động kinh doanh ở nước ta. Trong Chương này, tiểu luận sẽ giới thiệu sơ lược về tình hình ứng dụng thương m ại điện tử tại Việt Nam và những giải pháp để phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam. 3
  4. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MẠNG INTERNET VÀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ I. MẠN G INTERNET 1./ Sự ra đời và phát triển của mạng Internet Lịch sử của INTERNET được bắt đầu từ năm1957: Đây là thời kỳ chiến tranh lạnh giữa các nước thuộc khối x ã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đang diễn ra hết sức gay gắt. Ở Mỹ các khoản đầu tư dành cho quân sự là rất lớn. Năm 1957 Mỹ đã hình thành nên một cơ quan nghiên cứu phát triển ARPA (Advanced Research Project Agency), dưới sự quản lý của Uỷ ban phòng vệ DoD (Department of Defence), đ ể phối hợp nghiên cứu khoa học và công nghệ ứng dụng vào lĩnh vực quân sự. Đ ến năm 1965 ARPA tài trợ cho dự án mạng máy tính TX-2 tại phòng thí nghiệm Lincoln của Viện công nghệ Massachusetts, Lexington và d ự án Q -32 hợp tác với công ty phát triển hệ thống (system development) Santa Monica California. Năm 1967 kế hoạch về mạng PS (Packet - Switching) được đưa ra, đồng thời bản kế hoạch đầu tiên về mạng ARPANET (Advanced Research Projects Agency Network) được đưa ra do Lawrence G.Roberts - viện công nghệ Massachusetts. Vào vào tháng 7 năm 1968 ARPA đề nghị kết nối 4 địa điểm đầu tiên bằng các máy tính gồm: Viện nghiên cứu Standford, trường Đại học tổng hợp California ở Los Angeles, UC (University of California) tại Santa Babara và trường Đại học tổng hợp Utah. Đ ến năm 1969 uỷ ban phòng vệ DoD (Department of Depense) giao cho ARPA đi sâu nghiên cứu về lĩnh vực mạng. Và cũng trong năm 1969 bốn địa điểm trên chính thức đ ược nối thành mạng. Do vậy cho đến nay thì người ta lấy 4
  5. nguồn gốc đầu tiên của Internet là hệ thống máy tính cuả Bộ Quốc Phòng Mỹ, gọi là mạng ARPANET. Đầu năm 1970 Thư điện tử đã bắt đầu được sử dụng. Năm 1973 sự nối kết quốc tế đầu tiên với ARPANET của trường đại học London - Anh. Năm 1979: Nhằm phát triển rộng rãi m ạng đã được thiết lập, các nhà khoa học máy tính từ đại học Wisconsin DARPA (Defense Advanced Research Project Agency) và NSF (National Science Foundation) tập trung thảo luận về việc cùng tổ chức một ban nghiên cứu khoa học máy tính, nghiên cứu mạng máy tính. Đ ến năm 1990 ARPANET được thay thế bằng mạng NSFNET (National Science Foundation Network). NSFNET mang tính chất hoạt động dân sự nhiều hơn. Thực ra trong các số liệu thống kê, người ta chỉ tính mốc thừa nhận một cách rộng rãi sự ra đời của Internet từ năm 1990 khi công nghệ mạng được áp dụng một kỹ thuật mới là World Wide Web(www). Và cũng kể từ thời điểm ấy số người hoà nhập vào mạng Internet mới tăng nên một cách nhanh chóng. Đ ến năm 1990 số các nước đã tham gia nối với mạng này là: “Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Nauy, Thuỵ Điển (1988), Australia, Đức, Israel, Italy, Nhật Bản, Mexico, Netherlands, Newzealand, Puerto Rico, Anh (1989), Agentina, Austria, Bỉ, Brazil, Chile, Greece, Ân Độ, Ireland, Hàn Quốc, Thuỵ Sĩ (1990) Sau đó các nước khác cũng tham gia vào mạng to àn cầu Internet: Năm 1991: Croatia, Czech Repuplic, Hongkong, Hungary, Poland, Portugal, Singapore, Taiwan, Tunisia. .... Đ ến năm 1997: toàn thế giới đã có 110 quốc gia nối mạng Internet, trong đó có Việt Nam. 5
  6. Những địa chỉ của những tổ chức lớn xuất hiện trên Internet là Liên Hợp Quốc (1993), Nhà Trắng (1993), Ngân hàng thế giới (1992), Thủ tướng Nhật (1994), Uỷ ban ngân khố Anh (1994),Thủ tướng Newzealand (1994).....” Trong những năm gần đây Internet đã phát triển một cách nhanh chóng và được ứng dụng một cách rộng rãi trong mọi mặt của đời sống x ã hội. Nếu xét lịch sử phát triển của các lĩnh vực thông tin đại chúng khác thì Internet vượt xa tất cả. Điều này cho thấy thế giới có thể sẽ sắp bước vào một xã hội toàn cầu Internet. Người ta đưa ra một ví dụ so sánh để thấy đ ược sự phát triển của Internet so với các phương tiện thông tin đại chúng khác là rất lớn. Hình 1-1:” Sự tăng trưởng của Internet trong các năm 1994 -2003, và dự báo mức tăng trưởng năm 2005.” 800 700 600 500 400 300 200 100 0 N¨m N¨m N¨m N¨m N¨m N¨m N¨m N¨m 1994 1996 1998 1999 2000 2002 2003 2005 Đ ể đạt được con số 50 triệu người sử dụng đài phát thanh phải chờ sau 40 năm, truyền hình mất 13 năm, truyền hình cáp mất 10 năm, trong khi đó Internet đạt được con số trên chưa đầy 5 năm. Cũng theo tạp chí tin học ngân hàng số 4 tháng 8 năm 2000, Năm 1994 toàn thế giới có khoảng 3 triệu người nối mạng Internet. Năm 1996 con số đã lên tới 67 triệu người. Năm 1997 đã có 110 quốc gia nối mạng Internet. Năm 1998 toàn thế giới đã có hơn 100 triệu người nối mạng Internet Đến cuối năm 6
  7. 1999 toàn thế giới có khoảng 259 triệu người nối mạng Internet.Vào năm 2000 con số này là 349 triệu người. Hiện nay mạng Internet có khoảng 700 triệu người thường xuyên sử dụng, nhưng chủ yếu là ở các nước phát triển. “Dự báo đến 2005 toàn thế giới sẽ có khoảng 765 triệu người nối mạng Internet (gần 1/6 dân số thế giới) Tuy nhiên, sự phát triển của mạng Internet là hết sức chênh lệch giữa các quốc gia, giữa những nước đang phát triển và những nước công nghiệp hóa. Hiện nay, một nửa trong số những người truy cập mạng Internet trên thế giới là thuộc khu vực Bắc Mỹ. Người ta đưa ra một sự so sánh hình tượng rằng cả Châu Phi chưa bằng số người nối mạng ở riêng thành phố New York. “ K hi một công nghệ mới ra đời thì thông thường người ta khó mà lường hết được sự mở rộng của nó. Trước đây khi điện thoại được phát minh, người ta cũng có cảm nghĩ rằng nó là một công cụ hết sức xa vời, nhưng cho đến nay thì không ai là không phải thừa nhận rằng nó đã trở thành một phương thức giao dịch không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày. Internet - m ột công nghệ vượt bậc, là đỉnh cao của thế kỷ XX chắc chắn cũng sẽ như vậy. Hiện nay trên thế giới con số người nối kết với Internet chưa nhiều song chắc chắn rằng trong tương lai không xa Internet sẽ là phương tiện thân thiện của mọi nhà trên khắp hành tinh. 2./ Các khá i niệm cơ bản về mạ ng má y tính và Internet Mạng máy tính là hai hay nhiều máy tính được nối với nhau bằng các thiết bị liên lạc để cùng chia sẻ phần cứng phần mềm và dữ liệu D ựa vào phạm vi phân bổ của mạng có các loại mạng sau: Mạng cục bộ (LAN- Local Area Network): “ Mạng cục bộ là toàn bộ các máy tính được liên kết với nhau thành một mạng trong phạm vi một xí nghiệp, công ty, hay nói chung trong một phạm vi địa lý hẹp nhất định. “ Mạng diện rộng (WAN - Wide Area Network): 7
  8. ” Mạng diện rộng được hiểu hai hay nhiều mạng cục bộ liên kết với nhau sẽ tạo thành liên mạng nội bộ, từ đó hình thành nên khái niệm mạng diện rộng WAN hay mạng Extranet.” Mạng toàn cầu Internet - N ếu như mạng các máy tính được nối với nhau ngày càng trải rộng ở các nước khác nhau trên thế giới lúc này hình thành liên mạng gọi là Global Wide Area Network - m ạng diện rộng toàn cầu. Từ thuật ngữ mà giới kỹ thuật vẫn d ùng như trên, khi mạng này được trở nên phổ biến, người ta đưa ra khái niệm: "International Network" hay Internet. “Internet là liên mạng - Mạng chung, kết nối mạng cục bộ và mạng diện rộng để trao đổi thông tin, truyền dẫn dữ liệu với nhau không hạn chế địa lý và biên giới “ Hoặc có thể hiểu một cách đ ơn giản, Internet là một mạng các máy tính được nối với nhau trên khắp hành tinh thông qua đường điện thoại, được ra đời từ năm 1969, bắt đầu từ nước Mỹ, sau đó sang các nước trên toàn Thế giới. 3./ Việc ứng dụng Internet vào hoạt động kinh doanh - và sự xuất hiện khái niệm thương mại điện tử. Thực ra trước đây việc kinh doanh qua điện thoại, truyền hình, phát thanh hay các phương tiện điện tử khác cũng rất phổ biến.Các phương tiện này chỉ phục vụ cho một khía cạnh nào đó của kinh doanh như quảng cáo, truyền tin, hơn nữa lại phải qua một trung gian thực hiện như: đài phát thanh, truyền hình... Nhưng những phương tiện này không tạo ra sự liên hệ trực tiếp, thường xuyên giữa khách hàng và nhà kinh doanh, đ ặc biệt là sự giao dịch trực tuyến, có hình ảnh nhìn từ nhiều chiều về sản phẩm, dịch vụ, sự trao đổi thú vị hai hay nhiều phía. Trong thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của mạng Internet, những ứng dụng của Internet ngày càng được áp dụng phổ biến đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này đ ã làm thay đổi cả hình 8
  9. thái hoạt động cơ bản của loài người sang một thế giới khác đó là - “thế giới ảo”. Trong đó kinh tế là lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc nhất. Với Internet nền kinh tế nối mạng ra đời gọi là "Kinh tế Internet" ( Economy Internet). Internet xâm nhập vào hoạt động thương mại, không chỉ đơn thuần là bổ sung thêm một kênh phân phối mới mà còn đem lại hiệu năng vượt trội so với các phương pháp cũ trước đây. Nó đang buộc các nhà kinh doanh hiện nay phải điều chỉnh hoạt động của mình theo một cách thức hoàn toàn khác trước. Đối với những nhà kinh doanh trì trệ rất có thể họ dần dần phải nhường thị trường cho các nhà doanh nghiệp tỏ ra năng động hơn. Internet không chỉ cung cấp một khu chợ cho bán hàng trên mạng mà tạo ra rất nhiều giải pháp kinh doanh điện tử đã và đ ang tác động trực tiếp đến quá trình chuyển hoá các các hoạt động kinh doanh. Trong bối cảnh ấy hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động thương mại nói riêng chuyển sang dạng số hoá, điện tử hoá. Khái niệm kinh doanh điện tử, thương m ại điện tử dần dần đ ược hình thành. Thuật ngữ mà người ta dùng để chỉ kinh doanh, thương mại điện tử ở nhiều dạng khác nhau như: "Electronic business" hay "E-Business", "Virtual Business"; "E-trade" "Online Trade" "Cybertrade" "Online selling" hay phổ biến nhất là "Electronic Commerce" hay "E-Commerce" Từ đây, một hình thức kinh doanh mới ra đời đó là thương m ại điện tử (E-commerce) và ngày càng phát triển trên toàn thế giới, trước hết là những Doanh Nghiệp có đủ điều kiện áp dụng thương mại điện tử. II./ THƯƠNG MẠI ĐIỆN T Ử 1./ Khái niệm về thương mại điện tử (E-commerce) Trước khi đi vào khái niệm về thương m ại điện tử chúng ta xem xét qua về khái niệm kinh doanh điện tử: Kinh doanh điện tử ( Electronic Business) là một bước biến đổi cơ bản của các phương thức kinh doanh thông q ua việc sử dụng các công nghệ của mạng máy tính Internet, Intranet... 9
  10. Hiện nay có nhiều quan điểm về vấn đề định nghĩa thương mại điện tử. “Quan điểm thứ nhất : Thương mại điện tử được định nghĩa một cách đ ơn giản là sự chuyển giao các giá trị qua Internet của một trong bốn dạng hoạt động: Mua, Bán, Đầu tư và vay mượn. “ “Quan điểm thứ hai với nghĩa rộng: Thương mại điện tử gồm các giao dịch tài chính và thương mại được thực hiện bằng các phương tiện điện tử. Q uan điểm thứ ba xuất phát từ thực tiễn của thương mại điện tử: Thương mại điện tử là các hoạt động thương mại đ ược thực hiện qua mạng thông tin toàn cầu Internet.” H iểu theo quan điểm thứ hai thì thương mại điện tử thực tế đ ã tồn tại từ rất lâu. Có lẽ sớm nhất và phổ biến nhất là người ta ứng dụng hoạt động kinh doanh của mình qua điện thoại, sau đó nổi bật nữa là truyền hình, fax, radio...đây cũng là các phương tiện điện tử được ứng dụng khá rộng rãi trong hoạt động thương mại. Tuy nhiên các hình thức này chỉ hỗ trợ cho thương mại. Trong hầu hết các hoạt động thương m ại các phương tiện này không thực hiện được một cách hoàn chỉnh. Song nhờ Internet người ta có thể thực hiện hoàn chỉnh một giao dịch thương mại như: mua bán, chào hàng, chọn hàng, ký kết hợp đồng, giao hàng, thanh toán, bảo hành, các dịch vụ sau bán...Do vậy trên thực tiễn nói thương m ại điện tử, người ta thường hiểu là loại trừ các phương tiện điện tử không phải là Internet. Thương mại điện tử là hoạt động thương mại bằng phương tiện Internet. N hư vậy, theo quan điểm thực tiễn thương mại, có thể đưa ra một định nghĩa về thương mại điện tử như sau:" Thương mại điện tử là việc sử dụng các công nghệ mạng Internet trong các hoạt động giao dịch thương mại" “Electronic commerce is an emerging concept that describes the process of buying and selling or exchanging of products, services, and information via computer networks including the internet” 10
  11. Trong Luật mẫu về thương mại điện tử của Liên Hợp Quốc - UNCITRAL Model Law on electronic commerce - không có điều khoản nào định nghĩa về thương m ại điện tử. Tuy nhiên hiểu theo tinh thần điều chỉnh của luật này thì "Electronic Commerce" cần được hiểu theo nghĩa rộng ở trên 2./ Tìm hiểu một số vấn đề có liên quan đ ến thương mại điện tử 2.1/ Luật mẫu về thương mại điện tử của Liên Hợp Quố c N gày nay cùng với sự phát triển của thương mại điện tử và đặc tính toàn cầu không biên giới của nó mà các nước, các khu vực và các tổ chức quốc tế đang có rất nhiều nỗ lực nhằm tạo ra một môi trường thống nhất cho thương mại điện tử phát triển. Sự hợp tác toàn cầu, sự thống nhất về mặt chính sách là những vấn đề phải được đề cao trong phát triển thương mại điện tử. Chính vì vậy, việc tạo ra một môi trường áp dụng chung, một định hướng quốc tế các quy chế là hết sức quan trọng. Liên Hợp Quốc với vai trò là m ột tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh, đ ã giúp thương mại điện tử quốc tế hình thành nên một bộ khung pháp lý nhằm tạo thuận lợi cho sự phát triển thương m ại điện tử, giúp các nước định hướng cho những quy định về thương m ại điện tử và giúp các doanh nghiệp vượt qua được những trở ngại pháp luật của các nước. UNCITRAL Model Law on Electronic Commerce (1996) - Luật mẫu UNCITRAL về thương m ại điện tử ( gọi tắt là Luật mẫu), đ ược Uỷ ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên H ợp Quốc thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1996. Luật này được chính thức công bố trong báo cáo của hội nghị lần thứ 6 Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc vào ngày 12 tháng 12 năm 1996. Nguyên văn Luật mẫu được công bố bằng sáu thứ tiếng: Arabic, Trung Quốc, Pháp, Tiếng Anh, Tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha. Trong báo cáo này, xem xét về giá trị pháp lý của các tài liệu lưu giữ bằng máy tính, xác nhận và công nhận pháp lý đối với các trao đổi thoả thuận qua máy tính. Đến kỳ họp lần thứ 23 năm 1990, UNCITRAL đã cho ra đời bản "Nghiên cứu sơ bộ những vấn đề pháp lý liên quan đến thiết lập hợp đồng bằng phương tiện điện tử". Ngày 12 tháng 6 năm 1996 tại kỳ họp thứ 29 Luật mẫu về thương mại điện 11
  12. tử (Model law on Electronic Commerce)đã được thông qua với mục tiêu là đưa ra một hệ thống các quy tắc được thừa nhận, mang tính quốc tế, về việc loại bỏ các trở ngại trong việc công nhận giá trị pháp lý của các thông điệp được lưu chuyển bằng các phương tiện điện tử. Luật mẫu này là cơ sở định hướng giúp cho các nước thành viên đưa ra một đạo luật của mình, trên tinh thần hợp với các quy tắc quốc tế được thừa nhận rộng rãi. Luật mẫu tạo thuận lợi cho việc sử dụng thương mại điện tử, tạo sự b ình đẳng cho những người sử dụng tài liệu trên cơ sở giấy tờ và những người sử dụng thông tin trên cơ sở máy tính. Cấu trúc của luật được chia làm hai phần: Phần một liên quan đến những vấn đề chung về thương mại điện tử, Phần còn lại liên quan đến vấn đề thương mại điện tử ở một số lĩnh vực xác định. Điều đáng lưy ý là trong phần hai của Luật mẫu quy định thương mại điện tử trong một số lĩnh vực, đến nay do chưa được hoàn thiện đầy đủ mới công bố có một chương liên quan đến việc áp dụng thương mại điện tử vào lĩnh vực vận tải hàng hóa. Các khía cạnh khác của thương mại điện tử có lẽ được giải quyết trong tương lai, vì vậy Luật mẫu được xem như một công cụ mở và còn được bổ sung theo thực tiễn áp dụng. Đ iều 1 của Luật mẫu xác định lĩnh vực áp dụng của luật (Sphere of application) Luật này được áp dụng cho bất cứ loại thông tin nào dưới dạng các thông điệp dữ liệu (Data Message) được sử d ụng trong các hoạt động thương mại. Thông điệp dữ liệu được định nghĩa trong Điều 2. Cũng trong Điều 1 khái niệm "thương m ại" ở đây đ ược giải thích là: "Tất cả các mối quan hệ có bản chất thương mại mặc dù quan hệ có được thực hiện dưới dạng hợp đồng hay không”. Sau đó Luật mẫu đưa ra hàng loạt các lĩnh vực được coi là các lĩnh vực có bản chất thương mại như: mua bán, cung ứng hàng hoá d ịch vụ, các hợp đồng phân phối, đại lý thương mại hoặc đại diện thương mại, sản xuất, cho thuê, công việc xây dựng, tư vấn, công việc kỹ thuật, đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm hợp đồng khai thác, hoặc chuyển giao liên doanh, ho ặc các hình thức liên kết công nghiệp khác và kinh doanh vận chuyển 12
  13. hàng hoá, hành khách bằng đường bộ, hàng không, hàng hải, đường sắt...Như vậy quan điểm thương mại ở đây được hiểu theo nghĩa rộng. Đ iều 2 của Luật mẫu định nghĩa về một số các thuật ngữ được sử dụng trong luật. Thông điệp dữ liệu "Data Message" được xác định: Đây là thông tin được hình thành, gửi, nhận hoặc lưu giữ bằng các phương tiện điện tử, quang học, và các phương tiện có ý nghĩa tương tự bao gồm, nhưng không giới hạn ở: Trao đổi dữ liệu (EDI), thư điện tử (email), điện tín (Telegram), điện báo (telex), hoặc sao chép từ xa (Telecopy). Như vậy mặc dù không có điều khoản nào định nghĩa về thương mại điện tử, song theo quan điểm này thì thương m ại điện tử là được hiểu theo nghĩa rộng. Trong Chương II của Luật mẫu quy định về các vấn đề như chứng từ viết, sự thừa nhận về mặt pháp lý với các thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử. Từ Đ iều 5 đến Điều 10 trong Chương này đề cập đến vấn đề sửa đổi những cản trở pháp lý đối với các giao dịch điện tử trong hoạt động thương mại. Bằng những điều khoản này, các doanh nghiệp thực hiện thương m ại điện tử hoàn toàn có thể yên tâm áp dụng thương mại điện tử mà vẫn đảm bảo được giá trị pháp lý và bảo vệ được lợi ích hợp pháp của mình. Các tài liệu điện tử được chính thức thừa nhận trong Điều 5 của Luật mẫu: "Không thể phủ nhận hiệu lực pháp lý, giá trị và khả năng thi hành, cưỡng chế đối với các thông tin chỉ dựa trên một cơ sở là nó có hình thức ở dạng thông điệp dữ liệu". Như vậy các thông tin, tài liệu dưới dạng thông điệp dữ liệu như định nghĩa ở Điều 2 có giá trị pháp lý, giá trị thi hành, hiệu lực như các thông tin ở dạng khác. Đồng thời, trong hoạt động thương m ại điện tử, nếu các doanh nghiệp có quy đ ịnh dẫn chiếu đến Luật mẫu này của Liên H ợp Quốc, thì cũng có thể tránh được trở ngại thông thường trước đây đối với pháp luật có các quy định về tài liệu gốc, xuất trình bản gốc, hay các quy định về việc thoả thuận bằng văn bản viết. Đ iều 6 "N ếu luật yêu cầu thông tin phải được làm b ằng hình thức viết thì một thông điệp dữ liệu được xem là đ ã đáp ứng yêu cầu này, nếu các thông tin chứa đựng trong đó có thể truy cập để sử dụng". Điều 7 thừa nhận các tài liệu 13
  14. điện tử có thể xem như các tài liệu gốc, nếu có sự đảm bảo đáng tin cậy về sự toàn vẹn của thông tin, cả về nội dung và hình thức từ thời điểm nó được tạo ra cho tới thời điểm cuối cùng được xem xét. Làm thế nào để xác định rằng mình đã thể hiện ý chí qua các tài liệu điện tử, đồng thời cũng xác định rằng đối tác là có trách nhiệm phải thực hiện những gì đã thể hiện và cam kết trong các tài liệu điện tử. Điều 7 (Signature) quy định vấn đề có liên quan đến chữ ký:" Nếu luật yêu cầu phải có chữ ký của cá nhân thì một thông điệp dữ liệu đ ược xem là đã đáp ứng được yêu cầu này nếu: + Có một phương pháp nào đó để cá biệt hoá một cá nhân và thể hiện được sự xác nhận của cá nhân đó đối với những thông tin chứa đựng trong thông điệp dữ liệu + Phương pháp này là đáng tin cậy cũng như thích hợp đối với mục đích mà thông điệp dữ liệu này đã hình thành và được truyền đi" H iện nay nhờ công nghệ mật mã, xác nhận người ta có được những biện pháp đảm bảo tính chính xác của người gửi đối với các dữ liệu điện tử đó là "Chữ ký điện tử" Chương III: Quy định về việc trao đổi các dữ liệu điện tử Chương này cung cấp cho doanh nghiệp một chỗ dựa vững chắc cho việc ký kết và thực hiện các hợp đồng điện tử, cũng như việc doanh nghiệp phải gắn trách nhiệm thực hiện của mình vào những thoả thuận trên các phương tiện điện tử. Rõ ràng vấn đề này mở ra một khả năng phát triển mới trong việc khuyến khích các chủ thể trong thương mại điện tử tăng cường giao thương bằng các phương tiện điện tử. Đ iều 11 nói rõ rằng: nếu không có thoả thuận khác của các bên thì chào hàng, chấp nhận chào hàng có thể được thực hiện d ưới dạng dữ liệu điện tử. Đ iều 12 ràng buộc trách nhiệm pháp lý với các chủ thể với những gì mà họ thể hiện trên các tài liệu điện tử. Phần II của Luật mẫu đề cập đến thương mại điện tử trong một số lĩnh vực xác định. Trong phần này mới chỉ đề cập một chương nói về lĩnh vực vận tải hàng hoá, các chứng từ vận tải. Phần này còn cần bổ sung và hoàn thiện trong các lĩnh vực áp dụng khác. 14
  15. Như vậy, rõ ràng là Luật mẫu về thương mại điện tử của UNCITRAL bằng những quy định loại bỏ những cách hiểu cũ về chứng từ gốc, tài liệu phải được ký, văn bản viết...cho thấy rằng luật này đã tính đến giải quyết những vấn đề khó khăn phát sinh trong thương mại điện tử có thể gặp ở một số nước. Thực tiễn ở một số nước, luật pháp hiện tại về việc quản lý trao đổi thông tin, vẫn có những cách hiểu đã lỗi thời trong thời đại thương mại điện tử. Dựa vào các điều luật này trong các hoạt động thương mại điện tử, các doanh nghiệp có thể xem đây là một khuôn khổ, một nền tảng, chỗ dựa để thực hiện các hành vi thương mại của mình, được bảo vệ về mặt pháp lý. Đối với các quốc gia, đây là một hình mẫu để phát triển những khuôn khổ pháp luật của mình hợp với các thông lệ quốc tế. Đ ể nhận được sự trợ giúp từ ban thư ký UNCITRAL: cung cấp các tư vấn cho các chính phủ, về soạn thảo dưa trên nền tảng Luật mẫu, các thông tin thêm có liên quan đến Luật mẫu có thể liên hệ ban thư ký theo địa chỉ sau: International Trade Law Branch O ffice of legal affairs U nited Nations, Viena - International Centre P.O Box 500 - A-1400, Vienna, Austria Telephone: (43-1) 26060 - 4060 - Telefax: (43-1) 26060 - 5813 Email: uncitral@unov.un.or.at Internet address: http://www.un.or.at/Unictral 2.2./ Quy trình thực hiện một hoạt động thương mại điện tử Một hoạt động thương mại điện tử diễn ra có thể được thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Có doanh nghiệp chỉ áp dụng thương mại điện tử như một phương thức để quảng cáo giới thiệu hàng hoá, có doanh nghiệp chỉ áp dụng thương mại điện tử như một công cụ để tiến hành các trao đổi giao dịch v.v...Tuy nhiên xét một cách tương đối đầy đủ thì hoạt động thương mại điện tử có thể diễn ra theo một trình tự như sau: 15
  16. 1- Doanh nghiệp xây dựng cho m ình một cơ sở kinh doanh điện tử trên Internet. Đây được coi như là m ột trụ sở giao dịch, kinh doanh của doanh nghiệp. 2- Khách hàng tới cơ sở kinh doanh điện tử của doanh nghiệp, bằng cách truy cập vào đ ịa chỉ trên Internet của cơ sở kinh doanh đó. 3- Khách hàng và doanh nghiệp tiến hành trao đổi các tài liệu, chứng từ điện tử. 4- Đ ặt hàng. Việc đặt hàng có thể dễ dàng thực hiện trên Internet, chỉ đ ơn thuần bằng việc gửi chào hàng, chấp nhận chào hàng hay gửi phiếu đặt hàng và chấp nhận cung cấp hàng. Tất cả quy trình này đ ều thực hiện trên Internet. 5- Giao hàng và thanh toán. Với một số dạng hàng hoá, người ta có thể thực hiện giao hàng ngay trên Internet, chẳng hạn: các sản phẩm phần mềm, tài liệu kỹ thuật hay bất cứ hàng hoá nào dưới dạng thông tin khác. Cùng với quá trình giao hàng, thì việc thanh toán cũng diễn ra. Đối với những nước có hệ thống ngân hàng hiện đại, thanh toán có thể diễn ra ngay trên Internet, nhờ hệ thống thanh toán điện tử và tiền điện tử. 2.3./ Cơ sở kinh doanh điện tử - Website. Internet, với các tính năng đặc biệt của nó, đã giúp cho xã hội hình thành nên một hình thức tổ chức mới đó là hình thức tổ chức ảo. Tức là: các tổ chức có thể thực hiện các hoạt động của mình thông qua mạng toàn cầu Internet. Trong ho ạt động kinh doanh thì đó là các "Cơ sở kinh doanh ảo".“ Cơ sở kinh doanh trên Internet ” là một địa điểm trên Internet, từ đó doanh nghiệp có thể quảng cáo, tiếp thị, bán sản phẩm, tìm nhà cung cấp hay giao tiếp với khách hàng thông qua trao đổi điện tử với những người sử dụng Internet khác nhau trên toàn thế giới. Cơ sở kinh doanh này không giống như cơ sở kinh doanh thông thường. Nó có một địa chỉ nhưng lại ở khắp nơi trên hành tinh, tất cả các khách hàng có thể đến với nó bất cứ lúc nào với thời gian hoạt động liên tục 24/24 giờ khi có nhu cầu. Điều đặc biệt thuận lợi khi áp dụng trong kinh doanh quốc tế khi có sự chênh lệch thời gian, ngày đêm ở các nước khác nhau. 16
  17. Cơ sở kinh doanh này cũng mở ra một phương tiện quảng cáo mới, một phương thức giao tiếp qua lại trực tiếp với khách hàng mới, một công cụ nghiên cứu thị trưòng và thu thập thông tin mới, đảm bảo sự thuận tiện, hiệu quả hơn những giải pháp truyền thống vẫn thường được sử dụng trước đây. 2.4./ Địa chỉ trên Internet N hờ địa chỉ này mà khách hàng mới đến được với doanh nghiệp để tiến hành các hoạt động thương mại điện tử. Cùng với việc thiết lập Web site thì doanh nghiệp phải tiến hành đăng ký đ ịa chỉ tại các nhà cung cấp dịch vụ Internet hay các tổ chức chuyên cung cấp địa chỉ khác. Đ ăng ký địa chỉ là vấn đề được nhiều nhà doanh nghiệp quan tâm và yêu cầu làm sao cho địa chỉ của mình dễ nhớ, ngắn gọn, truy tìm nhanh. Có một số cách đăng ký địa chỉ phổ biến hiện nay như sau. Đăng ký địa chỉ ở n ước ngoài: Doanh nghiệp có thể đăng ký cơ sở kinh doanh của m ình với những nhà cung cấp dịch vụ Internet ở nước ngoài như Yahoo, Altavista,... hoặc truy cập trực tiếp vào Internic – một tổ chức chuyên cung cấp địa chỉ cho người sử dụng. Địa chỉ trang Web của cơ sở này là http://www.internic.net. K hách hàng có thể đăng ký bất kỳ tên địa chỉ nào miễn là tên đó không trùng với những tên đã đăng ký trước với internic. Địa chỉ này thường được cấp là http://www.tendoanhnghiep.com Đăng ký địa chỉ ở Việt Nam: Ở Việt Nam địa chỉ trang Web được cấp như sau: http://www.ten doanh nghiệp.com.vn (do tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam cấp). Khi đăng ký địa chỉ Website tại Việt Nam doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp với nhà cung cấp dịch vụ Internet của mình. 2.5./ Chứng từ tài liệu điện tử Các chứng từ được giao dịch thông qua mạng các máy tính với nhau thì được gọi là chứng từ điện tử. Loại chứng từ này được đề cập ở đây là những chứng từ liên quan đến thương mại và được truyền qua mạng toàn cầu Internet. Đ iều quan trọng nhất của hoạt động trao đổi chứng từ điện tử là tính bảo mật. Tính bảo mật của thông tin được đảm bảo bằng khoa học, gọi là khoa học mật mã. Khi một bản thông tin đã được mã khoá và truyền qua mạng Internet 17
  18. mà nếu để cho một người thứ ba có thể lấy cắp và đọc được những thông tin trong đó tức là giải mã được thì người thứ ba này phải thực hiện một quá trình tính toán lớn đến mức không thể thực hiện được trong thực tế (dù có sự trợ giúp của các máy tính). Nếu chỉ đọc trộm được một bản mật m ã (Chứng từ điện tử được mã khoá) chỉ vài dòng thì cũng phải mất hàng triệu năm. K hi hai người gửi và người nhận muốn truyền các chứng từ tin mật với nhau thì phải chuyển các chứng từ này thành mật mã theo những thuật toán được quy định. Các thông tin này thì chỉ có người nhận mới giải mã được. Chính sự ứng dụng của những công nghệ mã khoá này, khả năng bảo mật cho các chứng từ trao đổi đ ược bảo đảm rõ ràng là một vấn đề rất quan trọng trong thương mại điện tử. N gày nay, khi gửi các tài liệu trên Internet, đ ể xác định trách nhiệm của người gửi với các tài liệu đó, người ta có thể đưa vào một kỹ thuật gọi là chữ ký điện tử. 2.6./ Tiền điện tử - thanh toán điện tử N gay từ những năm 60 khi máy tính bắt đầu được sử dụng, việc tin học hoá được tiến hành đầu tiên trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, và kinh doanh. Đến những năm 80 các hình thức thanh toán điện tử đã được tiến hành trong nhiều nghiệp vụ ngân hàng và thương m ại. Các loại thẻ thông minh, các máy ATM (máy rút tiền tự động - Automatic teller machine) - ta thấy một ví dụ điển hình đó là đã có máy rút tiền tự động ở trong trường từ hè 2004, điện tử hoá từng phần một số các chức năng của đồng tiền trong các giao dịch tài chính và thương mại được phát hành và sử dụng rộng rãi. Những điều đó đã dần dần góp phần ra đời khái niệm thanh toán điện tử mà Internet là trung tâm. H iện nay có rất nhiều mô hình và giải pháp kỹ thuật cho hình thức thanh toán điện tử, tuy nhiên trong khuôn khổ hạn chế của đề án, không có điều kiện trình bày chi tiết. Dưới đây chỉ đề cập về những vấn đề có tính chất nguyên lý chung cho hoạt động thanh toán điện tử. Thanh toán điện tử chủ yếu dựa trên nền tảng của thẻ tín dụng. Thanh toán điện tử là một vấn đề cốt lõi của việc phát triển thương mại điện tử một cách 18
  19. toàn diện. Vấn đề này liên quan chủ yếu đến kỹ thuật của hệ thống ngân hàng. Tiền điện tử thực chất chỉ là những ký hiệu do người có tài khoản tại ngân hàng đưa ra nhằm trích ra từ tài khoản lưu ký của mình tại ngân hàng, việc này được thực hiện thông qua mạng công cộng Internet. Một hoạt động thanh toán điện tử diễn ra thông thường bao gồm bốn quy trình chính. 1 - Lập tài kho ản 2 - Rút tiền điện tử 3 - Trả tiền cho người bán 4 - Người bán ký gửi tiền lại cho ngân hàng vào tài khoản của mình Đ ể hoạt động thanh toán điện tử diễn ra được thì khách hàng phải rút được tiền điện tử của mình ra khỏi tài khoản của mình được lưu ký tại ngân hàng. Để rút tiền, khách hàng A tạo ngẫu nhiên một con số đóng vai trò như số xê-ri của đồng bạc giấy, là số hiệu của của đồng điền điện tử mà mình muốn rút, ký vào số hiệu đó (bằng chữ ký điện tử) và gửi đến ngân hàng. Ngân hàng kiểm tra chữ ký điện tử đó của A. Nếu đúng, ngân hàng ký lại chữ ký của mình vào số hiệu đó và gửi lại A, đồng thời trừ bớt khoản tiền đó ở tài khoản của A. Khi A muốn dùng đồng tiền đó để mua hàng của nhà cung cấp B, A chuyển cho B số hiệu nói trên có chữ ký của ngân hàng. B kiểm tra chữ ký của ngân hàng (việc này thực hiện dựa trên một kỹ thuật gọi là mã hoá). Nếu đúng thì chấp nhận khoản tiền đó đồng thời chuyển luôn vào tài khoản của mình tại ngân hàng. Toàn b ộ quy trình này được thực hiện một cách tự động và hết sức nhanh chóng. H iện nay ở những nước phát triển và có hệ thống ngân hàng hiện đại, tiền điện tử đã được đưa vào ứng dụng và đem lại rất nhiều thuận lợi cho cả người phải chi trả và người được chi trả. Đặc điểm tiêu biểu của hệ thống thanh toán điện tử và tiền điện tử là các bên sử dụng hình thức này có thể giảm được đáng kể các khoản chi phí dành cho việc thanh toán, và thực hiện được một cách tức thời ngay khi các nghiệp vụ chi trả phát sinh. 2.7./ Chữ ký điện tử 19
  20. Khi thực hiện các giao dịch giấy tờ, để xác minh rằng một chứng từ văn bản có sự nhất trí của chủ thể, gắn trách nhiệm của chủ thể vào văn bản, thông thường người ta phải ký vào văn bản đó. Ngày nay với thương mại điện tử, yêu cầu về việc xác nhận tính pháp lý của văn bản do một người tạo ra, gắn trách nhiệm của anh ta vào đó là một vấn đề quan trọng. Chữ ký điện tử "Electronic Signature" thực chất cũng chỉ là một mã gắn liền với những văn bản được chuyển bằng phương pháp điện tử. Đây chính là sự xác nhận tính duy nhất của người gửi. Cùng với chữ ký tay, chữ ký điện tử đảm bảo rằng người gửi văn bản sẽ bị ràng buộc nghĩa vụ vào văn bản đó. N guyên tắc hoạt động của chữ ký điện tử dựa trên khoa học mật mã. Đ ây là một vấn đề kỹ thuật thuần tuý do vậy đề án sẽ không đi sâu mà phần này chỉ trình bày về: Cơ sở thừa nhận chữ ký điện tử; hiệu lực pháp lý; khái niệm về chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử là cơ sở để thừa nhận các hợp đồng điện tử. Chữ ký điện tử thoả mãn 3 mục đích sau:  Xác nhận tính trung thực của người gửi văn bản, của chứng từ điện tử đảm bảo không có sự giả mạo.  Đảm bảo sự nguyên vẹn của văn bản, thông tin, dữ kiện không bị thay đổi.  Đưa ra một bằng chứng xác nhận chủ thể trong các bên giao dịch. Vì thế một người không thể từ chối việc đã ký vào văn bản, kể cả người đã nhận văn bản cũng không thể từ chối mình đã nhận văn bản. Nó có tính bắt buộc như chữ ký tay. Chữ ký điện tử hoạt động trên nguyên lý mã hoá và giải mã. V ề lý thuyết mật mã, một chữ ký điện tử bao gồm một thuật toán và m ột thủ tục kiểm tra chữ ký. Các văn bản khi gửi sử dụng chữ ký điện tử thì lý thuyết mật mã là tiêu chuẩn để xác nhận chữ ký của người gửi trên văn bản. Nếu như người gửi cố tình chối bỏ chữ ký của mình, thì lý thuyết mật mã sẽ buộc anh ta phải công nhận trách nhiệm với chữ ký. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2