intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Về quyền giám sát tối cao của quốc hội

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:95

96
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta ,sau nhiều năm qua đã thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa rất quan trọng như: nước ta đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội .Đó là một bước ngoặt lớn trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta nhưng bên cạnh vẫn còn một số mặt chưa vững chắc , vẫn còn nhiều khó khăn thách thức và nhiều biến động phức tạp . Cho nên Đảng và Nhà nước ta đã phát huy kế thừa...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Về quyền giám sát tối cao của quốc hội

  1. LUẬN VĂN: Về quyền giám sát tối cao của quốc hội
  2. LờI NóI ĐầU 1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta ,sau nhiều năm qua đã thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa rất quan trọng như: nước ta đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội .Đó là một bước ngoặt lớn trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta nhưng bên cạnh vẫn còn một số mặt chưa vững chắc , vẫn còn nhiều khó khăn thách thức và nhiều biến động phức tạp . Cho nên Đảng và Nhà nước ta đã phát huy kế thừa những thành tựu đạt được để góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, để đẩy mạnh được nền kinh tế nước ta phát triển một cách vượt bậc thì Đảng và Nhà nước ta cũng cần phải quan tâm về vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội , làm cho Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất , thực hiện được đúng chức năng , quyền hạn theo quy định của Hiến Pháp và Pháp luật.Nghị quyết Đại hội 9 của Đảng khẳng định: “ lãnh đạo việc đổi mới và tăng cường công tác thanh tra của Chính phủ và các cơ quan hành pháp;phát huy vai trò giám sát của Quốc hội,Hội đồng nhân dân , Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền của các cơ quan đó.Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp uỷ , của uỷ ban kiểm tra các cấp,tập trung vào các nội dung chủ yếu:Thực hiện các Nghị quyết,chủ trương,chính sách của Đảng và Nhà nước;chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc;củng cố đoàn kết,nội bộ,giáo dục, rèn luyện,nâng cao phẩm chất,đạo đức Cách mạng của cán bộ,đảng viên ” Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một trong những chức năng quyền hạn quan trọng của Quốc hội đã được quy định trong các bản Hiến pháp của nước ta và được Hiến pháp năm 1992 quy định tại Điều 83 và Điều 84 .
  3. Do vậy,nghiên cứu về quyền giám sát tối cao của Quốc hội thực sự là một yêu cầu khách quan và là một đòi hỏi bức xúc trong công tác giám sát của Quốc hội về mặt lý luận và thực tiễn . 2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu. 2.1.Về phạm vi Trong phạm vi một bản khoá luận,tác giả tập trung vào giải quyết những vấn đề sau : Một là,xây dựng quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Trên cơ sở phân tích nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội và rút ra những phương thức để thực hiện quyền đó,phân biệt quyền giám sát tối cao của Quốc hội với thẩm quyền kiểm tra việc tuân theo Hiến pháp và Pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác Hai là,đưa ra thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội năm 1997 đến năm 2002 và xác định nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội trong thời gian qua ( chủ yếu là Hiến pháp năm 1992 ) Ba là,đưa ra những kiến nghị đổi mới tổ chức và phương pháp thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và những điều kiện cần thiết để đại biểu Quốc hội thực hiện được đúng và đầy đủ quyền giám sát của mình,tăng thẩm quyền giám sát cho các Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội hoặc thành lập Hội đồng giám sát Hiến pháp , xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc 2.2. Về phương pháp nghiên cứu Khi viết bài luận này,chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: phương pháp triết học Mác xít,phương pháp biện chứng Mác – LêNin,phương pháp so sánh,phương pháp lịch sử,phương pháp thống kê, phương pháp quy nạp,phương pháp diễn dịch.
  4. 3. Kết cấu của bản luận văn . Lời mở đầu . - Chương 1:Cơ sở lý luận của quyền giám sát tối cao của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Chương 2:Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam , nguyên nhân và bài học - Chương 3 : Những phương pháp tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội . Kết luận chương I CƠ Sở Lý LUậN QUYềN GIáM SáT TốI CAO CủA QUốC HộI NƯớC CộNG HOà Xã HộI CHủ NGHĩA VIệT NAM I . Vị trí pháp lý của Quốc hội, bản chấi, nội dung và phương thức thực hiện 1. Vị trí pháp lý của Quốc hội . “ Vị trí pháp lý”là một thuật ngữ chuyên nghành của khoa học pháp lý có nguồn gốc la tinh là“Status” dùng để khái quát hoá vị trí,mô hình của một cơ quan nhà nước nào đó trong hệ thống các cơ quan nhà nước thông qua các quy định của pháp luật. Vị trí pháp lý của Quốc hội tức là chức năng, nhiệm vụ,quyền hạn và mối quan hệ của Quốc hội với các cơ quan nhà nước khác được Hiến pháp quy định cho Quốc hội.Vị trí pháp lý này được Hiến pháp năm 1992 quy định khái quát tại
  5. Điều 83:“Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân,cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam . Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước’’ Theo quy định của Hiến pháp - đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước coa nhất trong toàn bộ cơ cấu tổ chức các cơ quan Nhà nước Việt Nam.Sở dĩ,Hiến pháp quy định như vậy vì Quốc hội là cơ quan duy nhất do nhân dân toàn quyền trực tiếp bầu ra và là cơ quan duy nhất mà thành phần đại biểu đại diện cho tất cả dân tộc của cả nước . Vì thế, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân mà“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”(Điều 2 – Nghị quyết về việc sửa đổi,bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 thông qua ngày 25/ 12/ 2001)nên để bảo đảm cho Quốc hội thực hiện tốt là cơ quan đại biểu của nhân dân thì Hiến pháp quy định Quốc hội được nhân dân giao nhiệm vụ và thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực thống nhất cả nước. Nói một cách khác,nhân dân là chủ thể tối cao của đất nước,nhân dân vừa trực tiếp vừa gián tiếp thực hiện quyền lực Nhà nước.Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực Nhà nước bằng cách bầu ra các cơ quan quyền lực Nhà nước, từ đó hình thành bộ máy Nhà nước và nhân dân trực tiếp bàn bạc những vấn đề quan trọng của đất nước.Bên cạnh đó, nhân dân gián tiếp thực hiện quyền lực Nhà nước nghĩa là nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội để quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đời sống xã hội và của Nhà nước.
  6. Ngoài tính đại diện nhân dân của Quốc hội,vị trí pháp lý của Quốc hội còn được thể hiện ở tính quyền lực Nhà nước.Quyền lực Nhà nước là quyền quyết định những công việc quan trọng của cả nước,cả xã hội dưới hình thức pháp luật,quyền được tổ chức ra những lực lượng,những cơ quan để bảo đảm việc thi hành pháp luật và quyền giám sát việc thi hành pháp luật.Và theo Điều 83 của Hiến pháp 1992 thì:“Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất Nhà nước”,Quốc hội thay mặt nhân dân,thực hiện quyền lực của nhân dân và chỉ có Quốc hội mới có quyền biến ý chí của nhân dân thành luật.Do vậy,quy định trên chứng tỏ việc tổ chức quyền lực Nhà nước ta không theo nguyên tắc phân quyền,không phân chia quyền lực như Nhà nước tư bản mà tổ chức theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Trong một thời gian dài,có quan điểm cho rằng:Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất có toàn quyền quyết định mọi vấn đề của đất nước.Nhưng vì Quốc hội không có điều kiện thiện hiện được những quyền hạn đó nên Quốc hội phải thành lập ra những cơ quan Nhà nước khác và giao cho chúng những nhiệm vụ,quyền hạn của mình.Nói một cách cụ thể là sở dĩ Chính phủ, Toà án nhân dân,Viện kiểm sát nhân dân có được quyền hạn và nhiệm vụ là do nhận được từ Quốc hội.Thực tiễn đã cho thấy nhận thức như trên là không phù hợp với thực tế hoạt động của bộ máy Nhà nước,nhận thức đó đã đem lại sự khó khăn khi cần xác định trách nhiệm pháp lý của các cơ quan Nhà nước và những khó khăn do việc không phân định rõ chức năng,quyền hạn của các cơ quan Nhà nước tạo ra.Ví dụ,nói một cách cụ thể,nhận thức trên sẽ rất khó phân định được quyền giám sát tối cao của Quốc hội với quyền kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao,với quyền giám đốc xét xử của Toà án nhân dân tối cao và với quyền thanh tra của Chính phủ. Như vậy,cần nhận thức lại,đúng hơn về vị trí pháp lý của mỗi cơ quan Nhà nước.Mỗi cơ quan trong hệ thống các cơ quan Nhà nước đều có vị trí pháp lý của nó.Vị trí đó được xác định từ cách thức thành lập,nhiệm vụ,quyền cơ quan Nhà nước khác như Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao.Những cơ quan Nhà nước trên
  7. có chức năng,quyền hạn theo luật định nhưng đều phải có trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội và phải chịu sự giám sát của Quốc hội. 2. Bản chất , nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội . 2.1. Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một bộ phận không thể tách rời quyền lực Nhà nước.Mà quyền lực Nhà nước được biểu hiện trong đời sống xã hội theo những phương thức sau: - Nhà nước đặt ra Hiến pháp và pháp luật. - Nhà nước giám sát các cá nhân trong hoạt động thực tiễn. - Nhà nước xử lý,trừng phạt cá nhân khi có hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật Từ những vấn đề trên cho thấy,giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một khâu không thể thiếu trong hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước và vì vậy giám sát là một bộ phận không thể tách rời quyền lực Nhà nước . 2.2. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và Quốc hội nắm quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Nguyên tắc mọi quyền lực của đất nước đều thuộc về nhân dân là nguyên tắc được nhiều nước công bố.Nhưng quyền lực đó được tổ chức và phân công như thế nào lại phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,điều kiện chính trị–xã hội , truyền thống dân chủ,phong tục tập quán,thái độ tâm lý của nhân dân,quan hệ của mỗi nước với cộng đồng quốc tế,sự lãnh đạo và đường lôí chính trị của Đảng nắm chính quyền.Tóm lại là những điều kiện lịch sử–xã hội mà trong đó Nhà nước tồn tại. Nhìn một cách tổng quát,xét về mặt lý thuyết các nước trên thế giới hiện nay có bốn cách tổ chức và phân công quyền lực Nhà nước: Cách thứ nhất:Phân lập quyền lực một cách triệt để. Cách thứ hai:Phân công và phối hợp quyền lực . Cách thứ ba:Quyền lực tập trung vào hành pháp hoặc lập pháp . Cách thứ tư :Thống nhất quyền lực Nhà nước. Nhà nước Việt Nam hiện nay tổ chức và phân công quyền lực theo cách thứ tư . Cách tổ chức và phân công quyền lực xuất phát từ cơ sở lý luận,xuất phát từ điều
  8. kiện kinh tế,điều kện chính trị – xã hội và mối quan hệ của nước ta với cộng đồng quốc tế như sau: - Về mặt lý luận: Mác- Ăngghen và LêNin không chỉ quan tâm,chú trọng đến việc nghiên cứu bản chất của quyền lực và quyền lực của Nhà nước mà còn rất quan tâm đến việc tổ chức và phân công quyền lực trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa như thế nào. Những luận điểm, những nguyên lý cơ bản về tổ chức Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã được LêNin thể hiện tập trung và súc tích nhất trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”LêNin đã viết: “Lấy cái gì để thay thế bộ máy Nhà nước đã bị phá huỷ ? ” Vấn đề này, năm 1847, trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”Mác chỉ có một lời giải đáp hoàn toàn trừu tượng, hay nói đúng hơn,chỉ đặt ra nhiệm vụ mà 1 không đề ra phương pháp giải quyết. Thay bộ máy Nhà nước bằng việc “Tổ chức giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị bằng dành lấy dân chủ”đó là câu giải đáp trong “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” . Không muốn rơi vào không tưởng, Mác chờ vào kinh nghiệm của phong trào quần chúng để xem tổ chức ấy của giai cấp vô sản với tư cách là giai cấp thống trị sẽ theo những hình thức cụ thể nào... Mác viết “Công xã không phải là một cơ quan đại nghị , mà là một tập thể hành động, vừa lập pháp ,vừa hành pháp ...”LêNin đã phân tích một cách sâu sắc những luận điểm cơ bản của Mác: “Công xã thay thế chế độ đại nghị bán mình và thối nát ấy của xã hội tư bản bằng những cơ quan, trong đó quyền tự do ngôn luận và tự do thảo luận không biến thành lừa bịp vì các nghị sĩ phải tự mình công tác, tự mình thực hiện những luật pháp của mình, tự mình kiểm tra lấy tác dụng của những luật pháp ấy, tự mình phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước cử tri của mình ” . Trong quá trình lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, kết hợp lý luận với thực tiễn, LêNin đã xây dựng Nhà nước kiểu mới theo nguyên tắc “ Tất cả quyền hành thống nhất, đầy đủ và không chia sẻ trong tay toàn thể nhân dân ” .Như vậy theo quan điểm của chủ nghiã Mác –LêNin về Nhà nước ,muốn quyền lực thực sự là của nhân dân thì phải tập trung thống nhất quyền lực Nhà nước cho cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
  9. dân là Quốc hội hoặc XôViết và vì vậy trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất đồng thời cũng là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đều có quy định và thể hiện nguyên tắc thống nhất và tập trung quyền lực trong tổ chức bộ máy Nhà nước .Việt Nam cũng vận dụng quan điểm này và điều đó được thể hiện trong các quy định về vị trí pháp lý của Quốc hội trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta. Sự phân tích trên có thể dẫn đến một nhận xét là:Quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một bộ phận không thể tách rời của quyền lực Nhà nước và Quốc hội nước ta là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.Do đó,Quốc hội nắm quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – LêNin về tổ chức và hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã tồn tại trong một thời gian dài và được vận dụng vào việc tổ chức bộ máy Nhà nước các nước xã hội chủ nghĩa trước đây.Nhưng cùng với sự thay đổi chính trị ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cũng có nhiều quan điểm của các luật gia, các nhà khoa học xã hội ở Việt Nam nhận thấy cần có sự đổi mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng và cấp bách đã được ghi nhận trong Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7. Nhưng đổi mới như thế nào, theo khuynh hướng nào, có áp dụng lý luận phân chia quyền lực không, đó là những vấn đề đã được đặt ra trong quá trìmh soạn thảo Hiến pháp năm 1992 của nước ta và trong Đại hội lần thứ 7 của Đảng cộng sản Việt Nam.Cho đến nay,như chúng ta đã thấy,Hiến pháp năm 1992 đã ra đời và khẳng định vị trí pháp lý của Quốc hội tại Điều 83 “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ...Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước ” Điều đó cũng thể hiện rõ quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước.Nhà nước ta vẫn được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ nhưng có sự phân công phân cấp rành mạch.“ Quốc hội ta là cơ 1 1. Cải cách hành chính Nhà nước, NXB sự thật, Hà Nội, 1991, trang 16
  10. quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Thay mặt nhân dân cả nước thực thi quyền lực mà nhân dân giao cho, ...Với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao, Quốc hội vừa quyết định luật, vừa giám sát các cơ quan Nhà nước thi hành luật. Nhưng không lẫn lộn với quyền hành pháp của Chính phủ,cũng như quyền độc lập xét xử của Toà án.”Trong Nghị quyết và các văn kiện khác của Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7 đã phân tích rõ trong điều kiện kinh tế,chính trị xã hội và quan hệ quốc tế của nước ta hiện nay thì Nhà nước ta cần được đổi mới,cần có sự phân công,phân cấp rành mạch trong tổ chức và hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước nhưng vẫn cần thống nhất và tập trung quyền lực vì điều đó là bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa,là điều đảm bảo cho quyền lực của đất nước thực sự thuộc về nhân dân.Chúng tôi nhất trí và đồng ý với quan điểm trên của Đảng vì : - Xét về mặt kinh tế:Nền kinh tế nước ta đang chuyển mạnh sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng đó là nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa,có sự quản lý của Nhà nước.Sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường tất yếu đòi hỏi phải có một thị trường thống nhất trong cả nước và có sự quản lý của Nhà nước bằng một hệ thống pháp luật thống nhất,đó là mong muốn và là điểm thống nhất về lợi ích của mọi tầng lớp dân cư và mọi giai cấp trong xã hội.Mặt khác,tuy nền kinh tế có nhiều thành phần nhưng nhân dân vẫn là chủ sở hữu của tất cả những tư liệu sản xuất quan trọng nhất của đất nước. - Xét về mặt chínhtrị – xã hội:Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tăng lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Sự phân biệt giàu,nghèo trong xã hội có nhưng cơ cấu giai cấp trong xã hội chủ yếu vẫn là giai cấp công nhân,nông dân và tầng lớp trí thức.Đảng cộng sản Việt Nam vẫn là chính đảng duy nhất đang tồn tại và vị trí lãnh đạo của Đảng đã có chiều dài lịch sử và cần được xã hội thừa nhận,những quan điểm và tư tưởng của Đảng vẫn là những quan điểm và tư tưởng có tác dụng chi phối trong xã hội.2 2 1. Đỗ Mười: Xây dựng Nhà nước của nhân dân – thành tựu – kinh nghiệm đổi mới, NXB sự thật Hà Nội 1992, trang 14
  11. - Xét về mối quan hệ quốc tế:Sự ổn định về chính trị của Nhà nước ta cũng là một trong những yếu tố để Nhà nước ta tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế và nhiều lĩnh vực khác đối với cộng đồng quốc tế . Từ sự phân tích trên,có thể dẫn đến kết luận là:xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể về kinh tế,chính trị và xã hội,về quan hệ với cộng đồng quốc tế,Nhà nước Việt Nam vẫn duy trì nguyên tắc tập trung và thống nhất quyền lực Nhà nước,mà Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.Do đó,Quốc hội nắm quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật,nhưng có đổi mới,đó là việc phân công,phân cấp rành mạch trong tổ chức Nhà nước. Trong các Nhà nước tư sản việc tổ chức và phân công quyền lực theo nguyên tắc quyền lực được phân chia thì giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật thường được tiến hành dưới hai hình thức sau đây : -Kiểm tra trước:Các dự luật đã được thảo luận trước khi thông qua và công bố đều được một cơ quan chuyên trách kiểm tra tính hợp hiến của đạo luật đó. - Kiểm tra sau:Khi đạo luật đã ban hành và được thi hành,cơ quan chuyên trách phát hiện ra những điều khoản không hợp hiến. Và có hai hình thức tổ chức việc kiểm tra,giám sát : - Thành lập một cơ quan chuyên trách do Quốc hội cử:Hội đồng bảo Hiến, Viện bảo Hiến,Uỷ ban kiểm tra Hiến pháp. - Thành lập cơ quan tài phán(Toà án Hiến pháp) Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 của nước ta thì quyền giám sát tối cao của Quốc hội về việc thi hành Hiến pháp pháp luật,về việc kiểm tra tính hợp Hiến của các đạo luật cũng được tiến hành dưới hai hình thức : - Kiểm tra trước:Các dự án luật,pháp lệnh khi đưa ra thảo luận đều được các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra.Báo cáo thẩm tra được trình bày trước Quốc hội khi một dự án luật được đem ra trước Quốc hội thảo luận. - Kiểm tra sau:Việc thi hành Hiến pháp và pháp luật do nhiều cơ quan Nhà nước kiểm tra:Viện kiểm sát nhân dân tối cao,... theo chức năng và quyền hạn của các cơ quan đó.
  12. Cách tổ chức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội là:bằng quy định của luật,Quốc hội giao cho nhiều cơ quan Nhà nước giám sát và nghe báo cáo của các cơ quan đó.Quốc hội tập trung giám sát trực tiếp đối với hoạt động của Chính phủ,...Và để làm điều đó,Quốc hội giao cho các Hội đồng và Uỷ ban giám sát trong phạm vi quyền hạn của các cơ quan này theo luật định. Quốc hội không có cơ quan chuyên trách giám sát. Ưu điểm lớn nhất của cách giám sát của Quốc hội được thể hiện tập trung vào quyền lực của nhân dân.Nhân dân thông qua cơ quan đại biểu cao nhất của mình là Quốc hội xây dựng pháp luật và nhân dân thông qua hoạt động của Quốc hội giám sát việc thi hành pháp luật và quyền giám sát của Quốc hội là quyền giám sát tối cao.Tuy nhiên, để bảo đảm thực hiện được mục đích trên thì cần có một cơ chế thích hợp và những điều kiện cần thiết về nhiều mặt. 2.3. Nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội Để hiểu đúng và đầy đủ nội dung,ý nghĩa của quyền giám sát tối cao của Quốc hội,trước hết cần tìm hiểu thuật ngữ “giám sát” - Theo từ điển Tiếng Việt,“giám sát”được hiểu là“sự theo dõi,xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã quy định”.Hoặc được hiểu là“theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không ”. - Trong từ điển tiếng Nga“giám sát.”được hiểu là“một nhóm hoặc một tổ chức để theo dõi người, việc nào đấy” Tuy nhiên cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ“giám sát”có khác nhau nhưng chúng có điểm chung nhất là: -“Giám sát”dùng để chỉ các hoạt động theo dõi,xem xét,kiểm tra và nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đá quy định. - “Giám sát”luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định,tức là phải trả lời được câu hỏi:ai(người hoặc tổ chức nào)có quyền thực hiện việc theo dõi xem xét, kiểm tra và đưa những nhận định về một việc nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định. -“Giám sát cũng luôn luôn gắn với một đối tượng cụ thể,tức là phải trả lời được câu hỏi:giám sát ai,giám sát việc gì.Điều này có ý nghĩa quan trọng là ở chỗ nó
  13. phân biệt giữa“giám sát”và“kiểm tra”.“Kiểm tra”thì chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sự tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau đó là việc tự kiểm tra của chủ thể hoạt động.Nói một cách khác,tự chủ thể hoạt động xem xét kỹ để đánh giá tình trạng tốt,xấu của công việc đang là.Nhưng “giám sát”thì không có tình trạng tự chủ thể hoạt động theo dõi,xem xét chính hoạt động của mình. -“Giám sát”phải thể hiện được quan hệ giữa chủ thể hoạt động giám sát và đối tượng chịu sự giám sát tức là chủ thể hoạt động có những quyền và nghĩa vụ gì đối với đối tượng chịu sự giám sát và ngược lại ... Như vậy, thuật ngữ “giám sát”nếu chỉ hiểu theo nghĩa chung nhất thì phạm vi của nó rất rộng rãi nên bao giờ cũng phải gắn liền với một chủ thể nhất định thì lúc đó mới đem lại cho ta một thông tin,một nhận thức cụ thể . Căn cứ vào những yếu tố cấu trúc của khái niệm“giám sát”,căn cứ vào những quy định của Hiến pháp và pháp luật thì khái niệm“Quyền giám sát tối cao của Quốc hội”gồm: +Chủ thể của quyền giám sát tối cao:Xuất phát từ vị trí hoạt động Nhà nước ta là nguyên tắc tập trung dân chủ và quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua hoạt động của các cơ quan đại biểu 3 cao nhất và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất là Quốc hội. Quốc hội giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật,điều đó được thể hiện trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta.Ví dụ theo Điều 83,Hiến pháp 1992:“...Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất...giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”,vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác –LêNin về Nhà nước và pháp luật,căn cứ vào quy định trên của Hiến pháp 1992 thì Quốc hội là chủ thể duy nhất của quyền giám sát tối cao vì Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất ở nước ta. +Đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội. Căn cứ vào Hiến pháp năm1992,luật Tổ chức Quốc hội,luật Tổ chức Chính phủ,luật Tổ chức Toà án nhân dân,luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thì những 3 1. Từ điển học sinh NXB giáo dục 1971 Hà Nội, trang 305 2. Từ điển tiếng việt, Viện khoa học xã hội Việt Nam, viện ngôn ngữ học Hà Nội 1992, trang 803 3. Từ điển bách khoa luật học, Mát xcơva 1987, trang 230
  14. cơ quan Nhà nước như Chính phủ Toà án,Viện kiểm sát....tuy có những nhiệm vụ và quyền hạn độc lập nhưng những người đứng đầu cơ quan đó đều phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác của mình trước đại biểu Quốc hội tại các kỳ họp Quốc hội hoặc phải trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội.Những văn bản mà các cơ quan Nhà nước đó ban hành phải phù hợp với Hiến pháp,luật,nghị quyết của Quốc hội,pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.Mặt khác,Quốc hội có thể quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ,đình chỉ việc thực hiện những văn bản đó khi xét thấy có vi phạm Hiến pháp,luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Điều đó cũng có nghĩa là những cơ quan Nhà nước kể trên chịu sự giám sát của Quốc hội. Quốc hội có quyền giám sát tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt động thực tiễn và trong nội dung văn bản của Chủ tịch nước,Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Đó chính là những đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội. + Những căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến,lập pháp, và quyền giám sát tối cao.Nhưng để đảm bảo tính khách quan trong hoạt động giám sát,bảo đảm cho Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao theo đúng quy định của Hiến pháp và luật khi thực hiện quyền giám sát của mình,Quốc hội phải có những căn cứ nhất định : * Quốc hội phải căn cứ vào những quy định của Hiến pháp,luật,nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. * Quốc hội căn cứ vào nội dung văn bản đã ban hành của các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội và căn cứ vào báo cáo thực tế hoạt động của những cơ quan Nhà nước đó. Khi cần thiết,Quốc hội có thể chất vấn hoặc đi xem xét thực tế tình hình có đúng như báo cáo của cơ quan Nhà nước không. Như vậy,nội dung giám sát của Quốc hội là theo dõi,kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp đối với nội dung các văn bản của cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội ban hành và tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt động thực tiễn của các cơ quan Nhà nước đó. + Những hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát.
  15. Để đảm bảo cho quyết định của Quốc hội được chấp hành,Quốc hội phải thực hiện những biện pháp: * Ra nghị quyết buộc các cơ quan Nhà nước khác phải nghiêm chỉnh chấp hành. * Điều 2,điểm 9 luật Tổ chức Quốc hội 2001:“Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,luật và Nghị quyết của Quốc hội ” * Điều 2,điểm 7 luật Tổ chức Quốc hội thông qua năm 2001:“Bầu,miễn nhiệm,bãi nhiệm Chủ tịch nước,Phó Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội , các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội , Thủ tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ” Căn cứ vào quy định của Hiến pháp ,căn cứ vào quy định của luật Tổ chức Quốc hội 2001,căn cứ vào luật Tổ chức Chính phủ,luật Tổ chức Toà án nhân dân,luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân,cho thấy,nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội là:“quyền thực hiện việc theo dõi,xem xét,kiểm tra tính hợp hiến,hợp pháp đối với các văn bản và hoạt động của Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao,xử lý những vi phạm Hiến pháp,luật và Nghị quyết của Quốc hội do những cơ quan nói trên gây ra nhằm bảo đảm cho Hiến pháp,luật và Nghị quyết của Quốc hội được nghiêm chỉnh chấp hành” 3. Phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội Theo quy định của Hiến pháp 1992 và luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 thì Quốc hội thực hiện chức năng giám sát thông qua: - “Xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao” Để Quốc hội có cơ sở vững chắc xem xét các báo cáo trên của các cơ quan Nhà nước thì theo quyết định của Chủ tịch Quốc hội hoặc theo người điều khiển phiên họp có thể chuyển cho các Uỷ ban hữu quan của Quốc hội để thẩm
  16. tra,nghiên cứu trước,sau đó Uỷ ban thảo luận báo cáo của các thành viên và phải chuẩn bị báo cáo thuyết trình trước Quốc hội Khi Quốc hội xét các báo cáo thì Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Thủ tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao cũng phải chịu trách nhiệm báo cáo công tác của cơ quan,của ngành mình trước Quốc hội . Tóm lại nghe và xét báo cáo là phương thức bắt buộc đối với các cơ quan Nhà nước.Bên cạnh đó nó còn là phương pháp giúp Quốc hội gián tiếp nhận được thông tin một cách đầy đủ và kịp thời về tình hình tuân theo Hiến pháp và Pháp luật trong hoạt động thực tiễn của đời sống xã hội đồng thời tăng cường trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu Chính phủ và các ngành về công tác của họ trước Quốc hội . - Chất vấn,một phương pháp giám sát quan trọng của đại biểu Quốc hội , “Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội , Thủ tướng Chính phủ,Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao . Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp,trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc trả lời bằng văn bản”(Điều 98-Hiến pháp) Theo tinh thần của Hiến pháp,chất vấn là biện pháp thực hiện hữu hiệu quyền giám sát của Quốc hội,chất vấn luôn phát huy tác dụng của nó và là quyền của đại biểu Quốc hội.Chất vấn thường nêu ra các vấn đề đã được các đại biểu điều tra nghiên cứu buộc chính quyền và người bị chất vấn phải trả lời nghiêm túc.Hiệu quả của trả lời chất vấn là cơ sở để các nhà quản lý áp dụng hay không áp dụng biện pháp kỷ luật đối với những người bị chất vấn,có quyền chất vấn . Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn các thành viên của Chính phủ,Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội...trong hoặc ngoài thời gian Quốc hội họp.Nếu đại biểu Quốc hội mà không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch Quốc hội đưa vấn đề ra thảo luận trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.Trong trường hợp này,Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đưa ra nghị
  17. quyết về việc trả lời chất vấn.Như vậy,chất vấn và trả lời chất vấn biểu hiện tập trung ở quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Thông qua chất vấn và trả lời chất vấn,người đứng đầu các cơ quan Nhà nước thể hiện được trách nhiệm và năng lực của mình trước nhiệm vụ được giao,trước Nhà nước,Quốc hội và nhân dân.Có thể nói đây là hình thức được đông đảo cử tri quan tâm và đánh giá cao(Báo cáo công tác của Quốc hội nhiệm kỳ 10) . - Giám sát bằng hoạt động kiểm tra thực tế việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương,cơ sở của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,các Hội đồng và Uỷ ban lâm thời của Quốc hội,Uỷ ban của Quốc hội.Các Uỷ ban này thực hiện quyền giám sát của mình bằng nhiều hình thức và yêu cầu các cơ quan Nhà nước hữu quan báo cáo về hoạt động của cơ quan Nhà nước liên quan đến hoạt động kiểm tra,giám sát của Uỷ ban.Ngoài ra,các Uỷ ban có thể thành lập các đoàn đi kiểm tra,giám sát ở cơ sở,địa phương,để góp phần cùng với địa phương tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn,phát hiện và xử lý các vấn đề quan trọng trong nhiều lĩnh vực,giúp địa phương thực hiện tốt chủ trương chính sách. - Giám sát qua việc xét đơn thư khiếu nại của nhân dân . Là một bộ phận quan trọng của Nhà nước,của dân,do dân và vì dân,với trách nhiệm là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân cho nên khi nhận được hàng vạn kiến nghị của nhân dân cả nước.Quốc hội,các cơ quan của Quốc hội đã chuyển đến cơ quan hữu quan của Nhà nước và đã từng bước được hồi âm và xử lý có hiệu quả . Như vậy,những phương thức giám sát trên của Quốc hội có quan hệ gắn bó với nhau và hỗ trợ cho nhau vì mỗi phương thức giám sát đều có điểm mạnh và điểm hạn chế của nó.Vì thế,trên thực tiễn hoạt động giám sát,Quốc hội có thể lựa chọn những phương thức giám sát khác nhau tuỳ thuộc vào nội dung của vấn đề cần phải giám sát và vào đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội . II. Quan hệ quyền giám sát tối cao của Quốc hội với những quyền khác của Quốc hội ,sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến pháp,pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác.
  18. Để hiểu rõ về bản chất và nội dung của quyền giám sát tối cao,cần phải xác định vị trí và mối quan hệ của quyền giám sát tối cao với những quyền khác của Quốc hội.Nhưng mặt khác cũng cần phải tìm hiểu sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao với việc kiểm tra thi hành Hiến pháp,pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác . 1. Quan hệ quyền giám sát tối cao với những quyền khác của Quốc hội . 1.1. Quyền giám sát tối cao với quyền lập hiến và lập pháp của Quốc hội . Theo quy định của Hiến pháp năm 1992,tại Điều 84,điểm1,Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn:“Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp,làm luật và sửa đổi;quyết định chương trình xây dựng luật,pháp lệnh”.Đây là một trong những quyền hạn quan trọng của Quốc hội,thông qua hoạt động lập hiến,và lập pháp,ý chí và nguyện vọng của nhân dân,đường lối và chính sách của Đảng được thể chế hoá thành luật và trở thành công cụ sắc bén nhất để Nhà nước quản lý xã hội . Quan hệ giữa quyền lập hiến và lập pháp với quyền giám sát là tất yếu khách quan,không thể tách rời nhau,có quan hệ chặt chẽ với nhau quyền này bổ trợ cho quyền kia và ngược lại;quan hệ đó được biểu hiện cụ thể như sau: - Đối với công tác lập hiến và lập pháp thì quyền giám sát giữ một vị trí và vai trò rất quan trọng;cụ thể trong quá trình xây dựng một văn bản luật mới và để thông qua nó về lĩnh vực nào của xã hội thì Quốc hội phải tuân theo quy trình làm luật mà Quốc hội đã thông qua,quy trình đó không đơn thuần là một vấn đề kỹ thuật lập pháp mà còn bảo đảm dân chủ trong quá trình làm luật . Quy trình làm luật,một vấn đề mà bất cứ cơ quan Nhà nước nào hoặc người trình dự án khi xây dựng một văn bản luật cũng đều phải trình bày những cơ sở thực tế cho việc soạn thảo một dự án văn bản luật mới.Để trả lời được vấn đề trên một cách có căn cứ thì phải có điều tra xã hội học và sự tổng kết thực tiễn việc thi hành luật của các cơ quan và người trình dự án luật.Nhưng về phía Quốc hội,các Hội đồng,Uỷ ban của Quốc hội khi nghe trình bày những vấn đề trên,cũng phải có những quan điểm của mình chứ không phải nghe các báo cáo dự thảo.Nhưng khi muốn có căn cứ để xem xét,thẩm tra các dự án luật, Quốc hội,các Hội đồng ,Uỷ ban của Quốc hội phải dựa vào kết quả hoạt động giám sát của chính mình về những vấn đề văn bản dự thảo
  19. đề cập.Vì vậy,ở góc độ kỹ thuật và quy trình lập hiến,và lập pháp thì giám sát là một khâu không thể thiếu trong quá trình làm Hiến pháp và pháp luật.Nhưng thực tiễn cho thấy hoạt động giám sát vẫn còn là một khâu yếu,còn nhiều hạn chế,sự đổi mới còn chậm và hiệu quả chưa cao,do đó báo cáo thẩm tra của Uỷ ban còn thiếu cơ sở thực tiễn thi hành luật.Qua đó cho thấy,nếu như Quốc hội làm tốt các công tác giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật thì đó chính là điều kiện để Quốc hội,các Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra các dự án luật một cách có căn cứ thực tế vững chắc,có tính thuyết phục,không phải bằng lập luận chung mà có số liệu thống kê,chứng cứ cụ thể và do đó có khả năng thuyết phục mạnh mẽ; vì thế giám sát nằm ngay trong quá trình lập hiến và lập pháp ,là một khâu không thể thiếu trong qua trình lập pháp.Ngoài ra,việc giám sát thực hiện một văn bản luật cũng giữ một vai trò quan trọng,điều đó thể hiện khi một văn bản luật ra đời.Khi một văn bản luật ra đời,để triển khai và áp dụng luật phải có hàng loạt các văn bản pháp quy do cơ quan Nhà nước khác ban hành.Do đó, cần phải kiểm tra tính hợp hiến,hợp pháp của những văn bản pháp quy xem có đúng quy định của luật mới ban hành hay không.Trong quy trình thực hiện và áp dụng luật,cần phải tăng cường hoạt động giám sát chặt chẽ thì mới kịp thời phát hiện được những thiếu sót,những mâu thuẫn trong văn bản luật mới thông qua và có biện pháp kịp thời sửa đổi,bổ sung luật.Điều đó có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong tình hình hiện nay của đất nước ta . Trong quá trình xây dựng kế hoạch làm luật và pháp lệnh,Quốc hội phải dựa vào kết quả hoạt động giám sát để xem xét,cần tập trung xây dựngvăn bản luật nào là cần thiết nhất - Đối với công tác giám sát,quyền lập hiến và lập pháp cũng giữ một vị trí quan trọng.Việc xây dựng Hiến pháp và luật chính là việc tạo ra cơ sở,căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát,nếu thiếu căn cứ này thì hoạt động giám sát sẽ mất đi tính mục đích...Chính vì vậy mà việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật là một trong những điều kiện để bảo đảm cho hoạt động giám sát được thực hiện một cách có hiệu quả và bảo đảm tính mục đích của hoạt động
  20. giám sát.Có thể nói,quyền lập pháp và việc bảo đảm thực hiện quyền đó là một trong những điều kiện không thể thiếu được trong hoạt động giám sát . Tóm lại,không có một chuẩn mực,không có một thước đo để đánh giá, nhận xét về hoạt động của Chính phủ,Toà án nhân dân ,Viện kiểm sát nhân dân;vì vậy công việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện pháp luật là điều kiện để đảm bảo cho hoạt động giám sát có hiệu quả;do đó quyền lập pháp là một trong những điều kiện không thể thiếu trong hoạt động giám sát và hoạt động giám sát cũng tác động mạnh mẽ đến việc xây dựng pháp luật . 1.2. Quyền giám sát tối cao với những quyền quyết định những vấn đề quan trọng của Nhà nước . Cùng với việc đẩy mạnh công tác lập pháp và hoạt động giám sát,Quốc hội ngày càng chú trọng và chủ động hơn trong việc xem xét,quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.Việc“quyết định chính sách tài chính,tiền tệ quốc gia;quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và việc phân bổ ngân sách Trung ương,phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước;quy định,sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế ”(Điều 84, điểm 4,Hiến pháp 1992). Theo chức năng,nhiệm vụ của mình,hàng năm Quốc hội đã xem xét quyết định nhiệm vụ kinh tế–xã hội , dự toán ngân sách và phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước.Việc chuẩn bị và thông qua các nghị quyết về nhiệm vụ và ngân sách Nhà nước luôn được quan tâm cải tiến,các chỉ tiêu nhiệm vụ chủ yếu được cụ thể hoá để Quốc hội dễ thực hiện,dễ kiểm tra,dễ giám sát.Mà các quyền quyết định về tài chính là biểu hiện quyền lực của nhân dân về kinh tế,nhân dân thực hiện quyền lực đó thông qua Quốc hội . Đối với quyền giám sát tối cao,quyền quyết định về những vấn đề ngân sách Nhà nước giữ một vai trò quan trọng gần như có tính chất quyết định đối với hiệu quả của công tác giám sát của Quốc hội vì:Thông qua hoạt động giám sát về việc sử dụng ngân sách Nhà nước của Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao,Quốc hội nắm được thực trạng tình hình hoạt động của các cơ quan Nhà nước này.Có thể nói,Quốc hội chỉ thực sự có được quyền lực Nhà nước cao nhất khi Quốc hội thực sự nắm được quyền quyết định về những vấn đề tài
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2