intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Xuất khẩu hàng thủy sản Việt nam vào thị trường Mỹ

Chia sẻ: Nguyenn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:31

104
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế đang là một xu thế mang tính tất yếu khách quan. Không một quốc gia nào trên Thế giới có thể đóng cửa để tự mình phát triển _ mà phải không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài với mong muốn cùng phát triển. Đặc biệt trong đó hoạt động xuất (nhập) khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng. Nhiều mặt hàng đưa đi xuất khẩu rất có tiềm năng, đem lại một khối lượng ngoại tệ lớn cho đất nước, góp phần không...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Xuất khẩu hàng thủy sản Việt nam vào thị trường Mỹ

  1. LUẬN VĂN: Xuất khẩu hàng thủy sản Việt nam vào thị trường Mỹ
  2. Lời nói đầu Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế đang là một xu thế mang tính tất yếu khách quan. Không một quốc gia nào trên Thế giới có thể đóng cửa để tự mình phát triển _ mà phải không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài với mong muốn cùng phát triển. Đặc biệt trong đó hoạt động xuất (nhập) khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng. Nhiều mặt hàng đưa đi xuất khẩu rất có tiềm năng, đem lại một khối lượng ngoại tệ lớn cho đất nước, góp phần không nhỏ vào quá trình CNH-HĐH nền kinh tế… trong số đó có thể kể đến mặt hàng thủy sản. Trong khi thị trường nhiều loại hàng thực phẩm trì trệ hay chậm phát triển, thị trường thủy sản Thế giới vẫn phát triển mạnh, với hàng trăm dạng sản phẩm được trao đổi mua bán trên thị trường trong nước và khu vực khác nhau. Trong hơn một thập kỷ qua, thủy sản là một trong 14 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Thủy sản xuất khẩu của VIệt Nam, đã có mặt trên hơn 80 quốc gia trên Thế giới, đã chinh phục được một số thị trường nhập khẩu lớn của Thế giới như: EU, ASEAN, Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc và Hồng Kông…Đặc biệt phải kể tới thị trường thủy sản Mỹ _ một thị trường thủy sản đầy tiềm năng. Hiện nay Mỹ là một nước đứng thứ 2 sau Nhật về nhập khẩu thủy sản trên Thế giới. Sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận với nước ta (từ năm 1994), xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Mỹ không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây các Doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức; Đó là việc các Doanh nghiệp thủy sản Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá một số mặt hàng như : tôm, cá tra, cá basa…Điều này làm cho lợi nhuận của các Doanh nghiệp thủy sản Việt Nam bị giảm sút. Bên cạnh đó, hàng thủy sản Việt Nam còn phải đối mặt với sự cạnh tranh của nhiều nước xuất khẩu thủy sản khác như : Thái Lan, Indonexia và Singapore…Do vậy để tìm kiếm, phát triển thị trường và mở rộng thị phần buộc các doanh nghiệp phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm góp phần nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm; Có như vậy thì Doanh nghiệp mới tìm được chỗ đứng cho mình trên thị trường xuất khẩu.
  3. Xuất phát từ những nội dung trên, để có thể hiểu rõ hơn về hoạt động xuất khẩu thủy sản, em quyết định chọn đề tài “xuất khẩu hàng thủy sản Việt nam vào thị trường Mỹ”. Với mong muốn mở rộng tầm nhìn về ngành thủy sản Việt Nam hiện tại cũng như trong tương lai. Nội dung Chương I: một số vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu hàng hóa. I. Lý luận chung về xuất khẩu. 1.1. Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu hàng hóa. Trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa với nước ngoài lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế trong nước. Muốn phát triển nhanh, mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng có hiệu quả tất cả những thành tựu kinh tế, khoa học, kỹ thuật của loài người đã đạt được. Nền kinh tế “ mở cửa” sẽ mở ra những tiềm năng sẵn có của một nước nhằm sử dụng sự phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất. Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố thuộc tiềm năng là: tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những nhân tố thiếu và còn yếu là: vốn, kỹ thuật , thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược “ hướng vào xuất khẩu” về thực chất là giải pháp “mở cửa nền kinh tế” nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp với tiềm năng bên trong về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo sự tăng trưởng mạnh cho đất nước, góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước giàu. Như vậy, hoạt động xuất khẩu là một tất yếu khách quan, tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất trong nền sản xuất của mỗi quốc gia cũng như trên toàn thế giới. 1.2. Khái niệm và đặc điểm. 1.2.1 Khái niệm. Xuất (nhập) khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong ra bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Do đó, xuất (nhập) khẩu là hoạt động kinh tế
  4. đối ngoại dễ đem lại những hiệu quả đột biến rất cao, hoặc có thể gây thiệt hại vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất (nhập) khẩu không dễ dàng khống chế được. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, việc xuất (nhập) khẩu sẽ đem lại nhiều điều lợi cũng như điều bất lợi: Những mặt lợi của xuất (nhập) khẩu: - Phát huy nội lực nền kinh tế, sự sáng tạo của mọi người, đơn vị tổ chức, ngành nghề, địa phương trong xã hội. Bởi vì xuất (nhập) khẩu dễ thu được hiệu quả cao do được nhiều cá nhân và tổ chức thực hiện, các luồng thông tin được khai thông, các mối quan hệ được sử dụng tích cực. - Việc xuất (nhập) khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tất yếu dẫn đến sự cạnh tranh, theo dõi kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể tham gia xuất (nhập) khẩu. Chính nhờ sự cạnh tranh này làm cho chất l ượng hàng hóa được nâng cao, áp dụng KHKT mới một cách thường xuyên và có ý thức. - Xuất (nhập) khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần còn dẫn tới việc hình thành các liên doanh, liên kết giữa các chủ thể trong và ngoài nước một cách tự giác nhằm tạo sức mạnh phát triển cho các chủ thể một cách thiết thực. - Nó còn đưa tới việc xóa bỏ nhanh chóng các chủ thể kinh doanh các sản phẩm lạc hậu không thể chấp nhận được. Góp phần hoàn thiện các cơ chế quản lý xuất (nhập) khẩu của Nhà nước và của mỗi địa phương thông qua các đòi hỏi hợp lý của các chủ thể tham gia xuất (nhập) khẩu trong quá trình thực hiện. - Nó dẫn tới sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất và các nhà khoa học một cách thiết thực từ phía các nhà sản xuất, nó khơi thông nhiều nguồn chất xám ở cả trong và ngoài nước. Những điều bất lợi của xuất (nhập) khẩu: - Do tồn tại cạnh tranh tất yếu dẫn đến rối ren trong mua bán. Nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ, kịp thời sẽ dễ gây ra các thiệt hại về kinh tế trong quan hệ với nước ngoài. Các hiện tượng xấu về kinh tế-xã hội, tư tưởng… cũng dễ có đất phát triển như buôn lậu, trốn thuế, hàng kém phẩm chất, hàng giả, tha hóa cán bộ… - Vì tồn tại cạnh tranh sẽ dẫn tới sự thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh doanh bằng các biện pháp xấu như phá hoại công việc của nhau, gây cản trở phức tạp
  5. cho nhau… Con người dễ dẫn tới sự giảm sút nhân cách, cho nên việc quản lý không chỉ có tính toán hiệu quả đơn thuần về mặt kinh tế mà còn tính tới các mặt khác về văn hóa, đạo đức, xã hội. 1.2.2. Đặc điểm. So với hoạt động mua bán hàng hóa trên thị trường nội địa, hoạt động xuất (nhập) khẩu có một số đặc điểm sau: - Bên bán và bên mua là những chủ thể kinh tế có trụ sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau. - Hàng hóa giao dịch phải di chuyển qua biên giới mỗi nước. - Việc mua bán có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong trường hợp sử dụng tiền tệ làm phương tiện thanh toán, thông thường người ta sử dụng các loại ngoại tệ có khả năng chuyển đổi. - Xu thế hình thành các hiệp định tự do hóa thương mại song phương và đa phương nhằm tạo điều kiền thuận lợi cho hoạt động giao dịch hàng hóa giữa các chủ thể kinh tế. - Tuy tự do hóa thương mại là một xu thế khách quan, nhưng mỗi nước đều có chính sách riêng để bảo hộ cho các chủ thể kinh tế của nước mình. - Hoạt động thương mại quốc tế không chỉ chịu ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, mà còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của các yếu tố chính trị. 1.3. Vai trò. Hoạt động xuất khẩu là sự mở rộng của giao dịch buôn bán trong nước, thể hiện nhu cầu về hàng hóa của quốc gia khác đối với quốc gia chủ thể. Qua đó chỉ ra những lĩnh vực, sản phẩm có thể chuyên môn hóa được, những công nghệ và tư liệu sản xuất trong nước còn thiếu để sản xuất ra những sản phẩm xuất khẩu đạt chất lượng quốc tế. Hơn nữa, mỗi một quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ vẫn đầy đủ được; điều này đòi hỏi mỗi quốc gia phải luôn mở rộng quan hệ hợp tác với các nước bạn thông qua trao đổi, buôn bán các hàng hóa và dịch vụ nhằm mục đích cùng phát triển.Chính vì vậy đối với sự phát triển của mỗi quốc gia thì hoạt động xuất nhập khẩu đóng một vai trò rất quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với các quốc gia trên thế giới. Điều này được thể hiện ở các góc độ sau: Đối với doanh nghiệp:
  6. - Hoạt động xuất (nhập) khẩu thực chất là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế cho nên trước hết nó bảo đảm mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Thông qua hoạt động này, các doanh nghiệp có thể tăng hiệu quả sản xuất. - Hoạt động xuất (nhập) khẩu giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh ở doan h nghiệp diễn ra bình thường. - Hoạt động xuất (nhập) khẩu góp phần nâng cao vị thế của doanh nghiệp, tạo thế và lực cho doanh nghiệp không những, ở thị trường quốc tế, mà cả thị trường trong nước thông qua việc mua bán hàng hóa ở thị trường trong và ngoài nước, cũng như việc mở rộng quan hệ bạn hàng. - Ngoài ra nó còn có vai trò điều tiết, hướng dẫn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với nền kinh tế quốc dân: - Hoạt động xuất (nhập) khẩu phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới kinh tế thông qua việc sử dụng tốt hơn nguồn vốn lao động và tài nguyên của đất nước, tăng giá trị ngày công lao động, tăng thu nhập quốc dân, tăng hiệu quả tạo sản xuất, tạo vốn và kĩ thuật bên ngoài cho nền sản xuất trong nước, kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm bật dậy các nhu cầu tiềm tàng của người tiêu dùng… - Bên cạnh đó, nó cũng góp phần mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. II. Các hình thức xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp công nghiệp. Trong hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp công nghiệp, việc lựa chọn hình thức xuất khẩu phù hợp với điều kiện của từng loại hàng hóa và thông lệ quốc tế là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng.Dưới đây là một số hình thức xuất khẩu hàng hóa thường được các doanh nghiệp công nghiệp sử dụng: 3.1. Xuất khẩu thông thường. Đây là hình thức phổ biến trong quan hệ thương mại quốc tế. Xuất khẩu thông thường được tiến hành bằng hai cách: 3.1.1. Xuất khẩu trực tiếp.
  7. Thể hiện rõ mối quan hệ trực tiếp giữa bên xuất và bên nhập. Để tiến tới ký được hợp đồng giữa bên xuất và bên nhập, doanh nghiệp phải tiến hành một số công việc trong giao dịch thượng mại giữa các bên như sau: -Phát giá: Theo Luật Thương mại, phát giá được coi là đề nghị về giá cả hàng hóa bán được đề nghị thương thảo. Phát giá có thể do bên xuất khẩu hoặc bên nhập khẩu đưa ra. - Hoàn giá: Bên bán và bên mua trao đổi về giá bán hàng hóa mà người bán đã nêu ra khi chào hàng. Trong quan hệ buôn bán quốc tế, để bán được hàng hóa ( xuất khẩu ) giữa hai bên thường phải trải qua nhiều lần đàm phán về giá cả hàng hóa mới có thể đạt được thỏa thuận. - Ngoài những bước công việc trên, doanh nghiệp công nghiệp còn phải cùng với bên mua thực hiện các việc như chấp nhận và xác nhận. Xuất khẩu trực tiếp có một số ưu nhược điểm sau: - Ưu điểm: Thông qua thảo luận trực tiếp dễ dàng dẫn đến thống nhất và ít xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc, giảm được chi phí trung gian, có nhiều điều kiện xâm nhập thị trường, chủ động trong việc sản xuất, tiêu thụ hàng hóa. - Nhược điểm: dễ xảy ra những rủi ro, sai lầm khi giao dịch ở một thị trường mới; người tiến hành giao dịch phải có năng lực hiểu biết về ngoại thương và nghiệp vụ, phải có nhiều thời gian tích lũy kinh nghiệm; khối lượng mặt hàng cần giao dịch phải lớn mới có thể bù đắp chi phí trong giao dịch.. 3.1.2. Xuất khẩu qua trung gian. Xuất khẩu qua trung gian là hình thức thể hiện mối quan hệ giữa doanh nghiệp công nghiệp với bên mua (bán) được thể hiện thông qua người thứ ba. Người này được gọi là trung gian. Trong thị trường người trung gian phổ biến là các đại lý và môi giới. - Đại lý là tư nhân hoặc pháp nhân. Theo sự ủy thác của doanh nghiệp công nghiệp, đại lý tiến hành một hay nhiều hành vi thương mại. Quan hệ giữa người ủy thác với các đại lý là quan hệ hợp đồng đại lý. Trong thực tế có nhiều hình thức đại lý. Chẳng hạn, dựa vào quyền hạn được ủy thác có thể phân ra: Đại lý toàn quyền, Tổng đại lý, Đại lý đặc biệt. Nếu xét theo mối quan hệ giữa người ủy thác với người đại lý, có thể phân ra như sau: Đại lý hoa hồng, Đại lý kinh tiêu, Đại lý thu ủy thác.
  8. - Môi giới là những thương nhân trung gian giữa người bán và người mua được người bán ủy thác tiến hành bán hàng hóa. Trong khi thực hiện nhiệm vụ, người môi giới không được đứng tên của mình, không được chiếm hữu hàng hóa và không phải chịu trách nhiệm trước người ủy thác về việc khách hàng từ chối thực hiện hợp đồng mua hàng của bên ủy rhác. người môi giới không tham gia vào việc thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp được ủy quyền của bên bán. Xuất khẩu qua trung gian có một số ưu nhược điểm sau: - Ưu điểm: + Những người trung gian thường hiểu biết rõ hơn tình hình thị trường, pháp luật và tập quán địa phương, do đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và tránh bớt rủi ro cho người ủy thác. + Những người trung gian, nhất là các loại đại lý, thường có cơ sở vật chất nhất định, do đó khi sử dụng họ, người ủy thác đỡ tốn kém đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. + Nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn, phân loại đóng gói , người ủy thác có thể giảm bớt chi phí vận tải. - Nhược điểm: + Doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu mất sự liên hệ trực tiếp với thị trường, thường phải đáp ứng những yêu sách của đại lý hoặc môi giới. + Lợi nhuận bị chia sẻ. 3.2. Buôn bán đối lưu. Buôn bán đối lưu là hình thức trao đổi hàng hóa trong đó hoạt động xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp được kết hợp chặt chẽ với hoạt động nhập khẩu. Bên xuất khẩu, do vậy, cũng đông thời là bên nhập khẩu. Khối lượng hàng trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Các bên quan hệ buôn bán đối lưu phải đặc biệt quan tâm tới sự cân bằng trong trao đổi hàng hóa. Những biểu hiện chủ yếu của sự cân bằng đó là: - Cân bằng về những loại mặt hàng. - Cân bằng về tổng giá trị hàng hóa giao cho nhau. - Cân bằng về giá cả. - Cân bằng về điều kiện giao hàng (xuất khẩu CIF thì nhập khẩu CIF). 3.3. Đấu giá quốc tế.
  9. Đây là hình thức bán hàng đặc biệt được tổ chức ở một nước nào đó. Sau khi người mua xem hàng hóa thì họ có quyền tự do trả giá. Hàng được bán thuộc về người trả giá cao nhất. Những mặt hàng đưa ra đấu giá , thông thường là các loại sản phẩm khó xác định tiêu chuẩn chất lượng một cách chính xác (hương liệu, da thú…). 3.4. Giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa. Sở giao dịch hàng hóa được coi là một thị trường đặc biệt. Thông qua những nhà môi giới do sở giao dịch chỉ định, người bán có thể bán các loại hàng hóa có khối lượng lớn, có tính chất đồng loại và phẩm chất có thể thay thế lẫn nhau. Giao dịch tại sở giao dịch có hai hình thức: - Giao dịch ngay là giao dịch trong đó hàng hóa được giao ngay và trả tiền vào thời điểm ký hợp đồng. Giá cả bán - mua là giá mà hai bên thuận tình mua bán. - Giao dịch kỳ hạn diễn ra dưới dạng giá bán – mua được ấn định ngay khi ký hợp đồng nhưng giao hàng và thanh toán lại được tiến hành sau một thời gian nhất định với mục đích thu lợi nhuận từ chênh lệch giá giữa thời điểm ký hợp đồng với lúc giao hàng. Tuy nhiên, nếu bên bán dự kiến giá không đúng thì bên bán đề nghị với bên mua hoãn ngày thanh toán đến kỳ hạn sau và bên bán trả cho bên mua một khoản tiền bù. Khoản này được gọi là “bù hoãn bán”. 3.5. Giao dịch tại triển lãm và hội trợ. Triển lãm quốc tế là nơi trưng bày, quảng cáo, giới thiệu kết quả của một nền kinh tế hoặc của một ngành kinh tế về các lĩnh vực khoa học, công nghệ, văn hóa… thuộc các quốc gia khác nhau. Hội chợ là loại hình thị trường hoạt động định kỳ và được tổ chức vào một thời gian, địa điểm nhất định nào đó. Tại các hội chợ và triển lãm người bán (doanh nghiệp công nghiệp, tổ chức kinh tế…) tiếp xúc với người bán nhằm bán, mua được hàng và tạo ra mối quan hệ mua - bán hàng hóa giữa các bên bằng những hợp đồng ngắn hạn hoặc dài hạn. Để bán, mua được nhiều hàng qua hội chợ, triển lãm và có thể ký được nhiều hợp đồng xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp công nghiệp cần làm tốt công việc chuẩn bị mua tại những nơi này. Một số việc chủ yếu phải thực hiện là:
  10. - Tìm hiểu tình hình chính trị, kinh tế của nước mở hội trợ – triển lãm, trong đó cần biết rõ luật pháp kinh tế, điều kiện thuế quan, vận tải, tập quán thương mại của các nước tham gia hội chợ, triển lãm. - Nắm được chính xác các thông tin về danh mục các loại hàng hóa các n ước sẽ trưng bày và dự định xuất, nhập khẩu của họ. - Nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới trên các khía cạnh số lượng, cơ cấu, chất lượng và giá cả hiện hành, sức cạnh tranh của từng loại hàng hóa của mỗi nước. - Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để tham gia hội chợ, triển lãm như mẫu đơn chào hàng, mẫu hợp đồng, điều kiện vật chất để tiến hành đàm phán, ký hợp đồng xuất khẩu. 3.6. Giao dịch tái xuất. Tái xuất là xuất khẩu ra nước ngoài những hàng hóa trước đây đã nhập khẩu chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Giao dịch tái xuất luôn thu hút 3 loại n ước: Nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Tái xuất được tiến hành bằng các hình thức dưới đây: - Hàng hóa đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất khẩu và nước này lại xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Sơ đồ 1: Quan hệ tái xuất hàng hóa Nước Nước xuất Nước nhập tái khẩu khẩu xuất - Hình thức chuyển khẩu: Hàng hóa từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất khẩu trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Sơ đồ 2: Quan hệ tái xuất qua nước thứ 3 Nước tái xuất
  11. Nước xuất Nước nhập khẩu khẩu III. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. 3.1. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp. 3.1.1. Trình độ quản lý của doanh nghiệp xuất khẩu. Ban lãnh đạo doanh nghiệp: Là bộ phận đầu não của doanh nghiệp, nơi xây dựng những chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp, đề ra mục tiêu đồng thời giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch đã đề ra. Trình độ quản lý kinh doanh của ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất (nhập) khẩu của doanh nghiệp. Một chiến lược kinh doanh đúng đắn phù hợp với tình hình thực tế của thị trường, doanh nghiệp cùng với sự điều hành giỏi của các cán bộ doanh nghiệp sẽ là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp: Cơ cấu tổ chức đúng đắn sẽ phát huy được trí tuệ của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp, phát huy tinh thần đoàn kết và sức mạnh tập thể; đồng thời vẫn đảm bảo cho việc ra quyết định sản xuất kinh doanh được nhanh chóng và chính xác. Cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp giải quyết những vấn đề nảy sinh, đối phó được với những biến đổi của môi trường kinh doanh và nắm bắt kịp thời các cơ hội một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh xuất (nhập) khẩu: Đóng vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trên thương trường. Hoạt động xuất khẩu chỉ có thể tiến hành khi có sự nghiên cứu tỷ mỉ về thị trường hàng hoá, dịch vụ, về các đối tác- các đối thủ cạnh tranh, về phương thức giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng ... Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ kinh doanh am hiểu thị trường quốc tế có khả năng phân tích và dự báo những xu hướng vận động của thị trường, khả năng giao dịch đàm phán… Thêm vào đó phải thông thạo các thủ tục về hoạt động xuất (nhập) khẩu; điều đó sẽ góp phần làm cho công việc được tiến hành một cách thuận lợi và đạt hiệu quả cao nhất.
  12. 3.1.2. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp xuất (nhập) khẩu. Doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao thì khả năng tiêu thụ sản phẩm càng nhanh, tạo được uy tín trên thị trường và luôn được người tiêu dùng tin tưởng. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố sau: - Năng lực tài chính của doanh nghiệp: Thể hiện ở vốn kinh doanh của doanh nghiệp, lượng tiền mặt, ngoại tệ, cơ cấu vốn .. những nhân tố này doanh nghiệp có thể tác động để tạo thế cân bằng và phát triển. Vốn là một nhân tố quan trọng trong hàm sản xuất và nó quyết định tốc độ tăng sản lượng của doanh nghiệp. - Chất lượng sản phẩm: là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường, thu hút được khách hàng tiêu dùng… - Giá sản phẩm: giá cả ảnh hưởng đến khối lượng tiêu dùng sản phẩm, giá rẻ thì khả năng tiêu thụ sản phẩm sẽ nhanh hơn, khả năng tiêu thụ trên thị trường thế giới sẽ cao hơn, sẽ xuất khẩu được nhiều hơn. Tuy nhiên, không phải lúc nào giá rẻ cũng làm tăng sản lượng tiêu thụ, do đó cần phải đặt ra mức giá sao cho hợp lý để có thể tăng được khả năng cạnh tranh cho sản phẩm. - Chính sách Marketing: biện pháp này giúp nâng cao vị thế của doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy xây dựng một chính sách marketing hợp lý sẽ giúp các doanh nghiệp tạo ra được sự khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh; qua đó giúp doanh nghiệp không ngừng mở rộng thị phần của mình, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. 3.2. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp. 3.2.1. Các điều kiện kinh tế. Những điều kiện kinh tế có tác động rất lớn đến khối lượng buôn bán, đầu tư…hàng năm. Song sự gia tăng buôn bán, đầu tư luôn có xu hướng biến đổi nhanh hơn sự thay đổi của nền kinh tế. Sự thay đổi mức giàu có trên thế giới đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ giá trị hàng hóa lưu chuyển quốc tế. Tỉ lệ mậu dịch quốc tế đang có xu hướng tăng nhanh hơn tỉ lệ tổng sản phẩm thế giới ở một thời kỳ dài. Điều này có nghĩa là sự tương quan so sánh giữa kinh doanh và sản xuất không cố định mà luôn thay đổi qua các thời kỳ.
  13. Mức độ gia tăng khối lượng và giá trị hàng hóa kinh doanh tùy thuộc rất lớn vào mức độ can thiệp của Chính phủ. Thông qua các chính sách, công cụ kinh tế vĩ mô mà nhà nước thực hiện sự điều tiết khối lượng hàng hóa từ nước ngoài vào và đặc biệt họ sẽ làm giảm bớt nhập khẩu khi nền kinh tế đang bị trì trệ. Còn các doanh nghiệp xuất (nhập) khẩu chỉ mở rộng kinh doanh ở nước ngoài khi nhu cầu ở nước ngoài vẫn gia tăng đều đặn, trong một thời kỳ dài. Ngày nay, trong buôn bán quốc tế, cơ cấu mặt hàng đã có sự thay đổi rõ rệt. Nhóm các mặt hàng lương thực, thực phẩm, đồ uống, mặt hàng truyền thống giảm nhanh về tỉ trọng; thay thế vào đó là các mặt hàng chế biến , mặt hàng mới, đang có xu hướng tăng rất nhanh. Điều này tác động rất lớn đến hoạt động xuất (nhập) khẩu; vì vậy, việc đa dạng hóa các hình thức và mặt hàng kinh doanh và quyết định lựa chọn hình thức kinh doanh nào, mặt hàng nào có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó góp phần tăng cơ hội, giảm thách thức, hạn chế rủi ro đối với hoạt động kinh doanh xuất (nhập) khẩu của doanh nghiệp. 3.2.2. Khoa học và công nghệ. Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang thúc đẩy mạnh mẽ tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế ở từng quốc gia, làm cho nhiều quốc gia có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Chính sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ đã làm xuất hiện những sản phẩm mới thay thế những sản phẩm cũ và làm thay đổi vị trí của từng quốc gia, từng doanh nghiệp trong hoạt động xuất (nhập) khẩu. Nhiều sản phẩm mới như máy tính, hàng điện tử… đang chiếm phần lớn trong hoạt động xuất (nhập) khẩu của từng doanh nghiệp. Hiện nay, hầu hết những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến đều xuất phát từ các quốc gia phát triển. Vì vậy, các doanh nghiệp từ các quốc gia này đang nắm giữ phần mậu dịch và đầu tư lớn hơn trong lĩnh vực chế biến, đây là khu vực kinh tế tăng trưởng nhanh. Tình hình này đang là một sức ép lớn đối với các quốc gia nghèo và các doanh nghiệp có ít thị phần hơn và khả năng cạnh tranh kém hơn. 3.2.3. Điều kiện chính trị, xã hội và quân sự. Sự ổn định hay bất ổn về chính trị, xã hội cũng là những nhân tố ảnh h ưởng lớn đến hoạt động xuất (nhập) khẩu và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể thấy
  14. hệ thống chính trị và các quan điểm về chính trị, xã hội suy đến cùng tác động trực tiếp đến phạm vi, lĩnh vực, mặt hàng, đối tác kinh doanh. Bên cạnh đó, các cuộc xung đột lớn hay nhỏ về quân sự trong nội bộ quốc gia và giữa các quốc gia đã dẫn đến sự thay đổi lớn về các mặt hàng sản xuất. Từ các mặt hàng truyền thống chuyển hướng sản xuất các mặt hàng phục vụ cho chiến tranh. Chính sự thay đổi nay đã làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, buôn bán bị gián đoạn, quan hệ giữa các quốc gia dần dần xấu đi và dẫn đến sự hình thành các rào cản “vô hình” ngăn cản hoạt động xuất (nhập) khẩu. 3.2.4. Sự hình thành các liên minh, liên kết về kinh tế, chính trị và quân sự. Việc hình thành các khối liên kết về kinh tế, chính trị, quân sự đã góp phần làm tăng hoạt động kinh doanh buôn bán giữa các quốc gia thành viên (trong khối), làm giảm tỉ lệ mậu dịch với các nước không phải là thành viên. Để khắc phục hạn chế này, các quốc gia thành viên trong khối thường tiến hành ký kết với các quốc gia ngoài khối những hiệp định, những thỏa ước để từng bước nới lỏng hàng rào “vô hình” tạo điều kiện cho hoạt động xuất (nhập) khẩu phát triển. 3.2.5. Tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái thể hiện mối tương quan về giá trị đồng nội tệ so với một loại ngoại tệ nào đó : Tỷ giá hối đoái danh nghĩa Tỷ giá hối đoái thực Chỉ số giá trong nước Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng do Ngân hàng nhà nước công bố. Tỷ giá hối đoái tăng hay giảm chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau: như chênh lệch lạm phát, tình trạng cán cân thanh toán, yếu tố tâm lý… Sự biến động tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả xuất (nhập) khẩu của doanh nghiệp công nghiệp. Một tỷ giá hối đoái có lợi cho xuất khẩu lại gây nên bất lợi cho nhập khẩu. Vì vậy Nhà nước cần có những biện pháp quản lý đối với tỷ giá hối đoái sao cho hợp lý để có thể kích thích được xuất khẩu. 3.2.6. Hệ thống pháp luật.
  15. Mỗi quốc gia đều có những bộ luật riêng và đặc điểm tính chất của hệ thống pháp luật của mỗi nước phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát triển kinh tế của từng nước. Các yếu tố pháp luật chi phối mạnh mẽ đến mọi hoạt động của nền kinh tế và xã hội nước đó. Nó quy định phạm vi nội dung và mức độ hoạt động của tất cả các doanh nghiệp không chỉ trong một quốc gia mà cả trên thị trường quốc tế. Vì vậy doanh nghiệp xuất (nhập) khẩu phải hiểu rõ môi trường pháp luật của quốc gia mình và các quốc gia mà doanh nghiệp tham gia xuất (nhập) khẩu hàng hoá hoặc dự định xuất (nhập) khẩu. Hoạt động xuất (nhập) khẩu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các mặt sau: - Các quy định về thuế, chủng loại, khối lượng, quy cách - Quy định về hợp đồng, giao dịch bảo vệ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ. - Các quy định về quy chế sử dụng lao động, tiền lương tiền thưởng, bảo hiểm phúc lợi. - Quy định về cạnh tranh độc quyền. - Quy định về tự do mậu dịch hay xây dựng nên các hàng rào thuế quan chặt chẽ. Như vậy, một mặt các yếu tố pháp luật có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động xuất (nhập) khẩu bằng những chính sách ưu đãi; mặt khác nó cũng tạo ra hàng rào “vô hình” cản trở sự hoạt động của doanh nghiệp xuất (nhập) khẩu khi buôn bán ra nước ngoài hay căn cứ khi doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường nội địa, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh.
  16. Chương II : thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ trong những năm vừa qua. I. Thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian qua. 1.1. Tình hình sản xuất và khả năng chế biến của ngành thủy sản. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Thủy sản, sản lượng thủy sản của Việt Nam mặc dù trước năm 1985 có sự sa sút, yếu kém nhưng từ năm 1985 trở lại đây liên tục phát triển qua các năm. Năm 1986, tổng sản lượng thủy sản chỉ đạt 830.500 tấn; năm 1990 là 1.019.000 tấn; đến năm 2000 đã đạt 2.003.000 tấn; năm 2004 đạt 3.073.600 tấn. Trong đó khai thác hải sản đạt tương ứng là 587.000 tấn; 709.000 tấn; 1.280.000 tấn và nuôi trồng thủy sản là 243.500 tấn; 310.000 tấn; 723.000 tấn; 1.150.100 tấn. Ngành công nghiệp chế biến thủy sản ở nước ta đã có bước phát triển nhanh về năng lực chế biến. Năm 1996 cả nước có hơn 40 doanh nghiệp chế biến thủy sản. Đến năm 2004, cả nước đã có 405 doanh nghiệp. Trong đó có 153 doanh nghiệp chế biến thủy sản trong Danh sách 1 xuất khẩu vào thị trường EU, 237 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào Hàn Quốc và 295 doanh nghiệp đủ điều kiện xuất khẩu vào Trung Quốc. 1.2. Tình hình xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ. 1.2.1. Về kim ngạch xuất khẩu.
  17. Nhận thức được tầm quan trọng của việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu trong việc gia tăng giá trị xuất khẩu, hình thành thế chủ động và cân đối về thị trường, ngành thủy sản đã thực hiện mở rộng thị trường xuất khẩu sang EU, Hàn Quốc, Trung Quốc và Hồng Kông, ASEAN, Đài Loan, Mỹ…Đặc biệt thị trường Mỹ được đánh giá là một thị trường thủy sản đầy tiềm năng: Với dân số trên 270 triệu người, lại có mức sống cao, nước Mỹ hàng năm tiêu thụ hàng triệu tấn thủy sản các loại.Theo số liệu cuả Viện Nghề cá quốc gia Hoa Kỳ (NFI), mức tiêu thụ thủy sản thực phẩm bình quân của người Mỹ năm 2000 đã đạt 7,02 kg. Bởi vậy, mặc dù là nước có tiềm năng về thủy sản ( là một trong 10 nước có sản lượng thủy sản cao nhất thế giới ), hàng năm Mỹ vẫn phải nhập khẩu rất nhiều các mặt hàng thủy sản. Hiện nay, Mỹ là nước đứng thứ hai sau Nhật về nhập khẩu thủy sản trên thế giới.Bên cạnh đó, Mỹ là một quốc gia đa sắc tộc, với những mức thu nhập khác nhau nên người tiêu dùng có sở thích mua tất cả các loại sản phẩm từ đắt tiền đến rẻ tiền từ khắp nơi trên thế giới. Ngoài ra, để bảo tồn nguồn lợi thủy sản, Mỹ chủ trương tăng nhập giảm xuất và xu hướng này vẫn kéo dài trong những năm tới đây. Chính vì lẽ đó mà Mỹ là một thị trường thủy sản rất hấp dẫn. Từ năm 1994 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu hàng thủy sản sang Mỹ với giá trị ban đầu còn rất thấp 5,8 triệu USD, đến năm 2000 tăng lên 304.359 triệu USD và năm 2003 đạt 782,238 triệu USD (tăng 19,3% so với năm 2002). Nhưng 11 tháng năm 2004 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này lại giảm chỉ đạt 522.542 triệu USD ( chiếm 24,1% giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam). Và thị trường Mỹ từ vị trí đứng đầu giai đoạn 2001- 2003, đến 2004 xuống vị trí thứ hai sau Nhật Bản. Nguyên nhân chính của sự thay đổi cơ cấu thị trường và sự của kim ngạch xuất khẩu là do tác động của vụ kiện cá tra/basa năm 2002-2003 và vụ kiện tôm năm 2004; cũng như chất lượng, mẫu mã sản phẩm chưa theo kịp yêu cầu và thị hiếu của thị trường nhập khẩu. 1.2.2. Về cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu. Bảng: Cơ cấu các mặt hàng XK chính vào thị trương Mỹ. Đơn vị: KL: khối lượng: tấn; GT: Giá trị: triệu USD. Năm 2002 2003 11 tháng 2004 Mặt hàng KL GT KL GT KL GT Tôm 45.801 467,332 52.439 513,276 32.018 343,376
  18. Cá 38.993 144,979 55.390 209,628 38.091 127,212 Mực & bạch 1.396 3,334 1.691 3,846 1.380 3,343 tuộc Hàng khô 140 0,416 659 2,627 Qua bảng trên ta thấy hai mặt hàng thủy sản chủ lực của Việt Nam sang thị trường Mỹ là tôm và cá. Về tôm: Đây là một trong những mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ thời gian qua. Năm 1999 với giá trị 95 triệu USD Việt Nam đứng thứ 9 trong 10 nước cung cấp tôm hàng đầu cho thị trường này. Năm 2000: đạt 217,4 triệu USD, vươn lên đứng hàng thứ 7. Năm 2001: đạt 339 triệu USD, chiếm vị trí thứ 6. Năm 2003: đạt 513,276 triệu USD. Nhưng 11 tháng đầu năm 2004 chỉ đạt 343,376 triệu USD, do ảnh hưởng của Bộ Thương Mại Mỹ áp đặt mức thuế cao trong vụ kiện chống bán phá giá tôm đã làm giảm kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang Mỹ. Đây là mặt hàng xuất khẩu mang lại nhiều ngoại tệ nhất trong các loại thủy sản. Nhưng mặt hàng tôm xuất khẩu dưới dạng cấp đông ít qua chế biến nên giá trị ngoại tệ thu được còn thấp so với khả năng. Về cá: Mặt hàng này trong thời gian qua có tốc độ tăng đáng kể, năm 2000 đạt gần 59 triệu USD. Với khối lượng 5 triệu Pound cá tra và cá basa chiếm 5-6% thị trường cá da trơn của Mỹ. Tuy trị giá chỉ chiếm 25% so với mặt hàng tôm, nhưng hiện nay Việt Nam là một trong số những nước đứng đầu xuất khẩu cá da trơn sang thị trường Mỹ, cạnh tranh mạnh mẽ với những nhà cung cấp cá nheo của Mỹ. Năm 2003 và 2004 thị trường Mỹ chiếm vị trí thứ nhất về giá trị mặt hàng này. Năm 2004 mặc dù khối lựong và giá trị đều giảm mạnh nhưng vẫn đạt trên 127 triệu USD (-34,3%) với khối lượng trên 38 nghìn tấn (-25%). II. Đánh giá khái quát về hoạt động xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian qua. 2.1. Những kết quả đạt được. Từ thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản vào thị trường Mỹ thời gian qua, chúng ta thấy xuất khẩu thủy sản đã có nhiều thành công , thể hiện rõ b ước phát triển của ngành , góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Có thể khẳng định đây là một
  19. thị trường có tốc độ tăng trưởng nhanh, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên qua các năm: năm 1994 chỉ đạt 5,8 triệu USD nhưng đến năm 2000 đã tăng lên 304,359 triệu USD và năm 2003 đã lên đến 782,238 triệu USD đóng góp lượng lớn ngoại tệ cần thiết cho sự nghiệp phát triển kinh tế nước nhà. Đồng thời đưa thị truờng Mỹ trở thành thị trường nhập khẩu hàng thủy sản của Việt Nam lớn nhất với thị phần đã thay đổi một cách ngoạn mục từ 11,6% năm 1998 lên 32,4% năm 2002 và 35,3% năm 2003. Bên cạnh đó, chất lượng của các mặt hàng ngày càng được cải thiện và đã tạo dựng được uy tín nhất định được nhiều người tiêu dùng Mỹ biết đến: Theo đánh giá của người tiêu dùng Mỹ thì các sản phẩm thủy sản của ta ngoài sự đa dạng về chủng loại( có tới 135 loại sản phẩm khác nhau) còn có chất l ượng tốt, mùi vị thơm ngon vì nuôi chủ yếu theo kiểu quảng canh và quảng canh cải tiến nên vị tôm ngọt tự nhiên, ngon hơn tôm nuôi công nghiệp của Thái Lan và Indonesia nên bán được giá cao hơn. Thí dụ, năm 2000, mặc dù Việt Nam chỉ xuất 15.000 tấn tôm nhưng giá trị rất cao 224 triệu USD. Trong khi đó ấn Độ xuất những 26.000 tấn mà chỉ thu được có 223 triệu USD.Tính ra 1kg tôm của Việt Nam bán được 14,935 USD, của Mehico là 13,961 USD, của Thái Lan là 11,895 USD và của ấn Độ là 8,076 USD. Ngoài ra, nhiều nhà máy chế biến sử dụng công nghệ hiện đại nên có khả năng đáp ứng tốt hơn nhu cầu hàng giá trị gia tăng của thị trường Mỹ. Nhiều Doanh nghiệp đã đảm bảo được tiêu chuẩn về quản lý chất lượng (HACCP) ,GMP, ISO 9000, ISO 14000…Ngành Thủy sản đã có sự quan tâm hỗ trợ đối với các Doanh Nghiệp xuất khẩu thủy sản vào thị trường Mỹ. Những kết quả đạt được trên đây đã đưa Ngành thủy sản Việt Nam trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng nhất, góp phần không nhỏ vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, đưa Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế… 2.2. Những tồn tại và nguyên nhân. Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian qua đã có những dấu hiệu khởi sắc, nhất là từ năm 2001. Tuy nhiên, thị trường Mỹ và mặt hàng thủy sản của Việt Nam còn có những khó khăn và hạn chế: * Về phía Việt Nam:
  20. Trước hết, các mặt hàng thủy sản của ta xuất khẩu vào thị tr ường Mỹ chủ yếu vẫn là ở dạng nguyên liệu thô và sơ chế; chưa đáp ứng yêu cầu vệ sinh thực phẩm , tiêu chuẩn về độ tươi sống; cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng, mẫu mã kiểu dáng chưa theo kịp yêu cầu và thị hiếu của thị trường nhập khẩu, chất lượng chưa cao.Một số trường hợp chưa đáp ứng tiêu chuẩn kiểm định ngặt nghèo của Mỹ nên bị tái xuất hoặc chưa hấp dẫn người tiêu dùng. Bên cạnh đó , thủy sản mà Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là thủy sản thực phẩm, còn các loại thủy sản phi thực phẩm như thức ăn gia súc, dầu cá, bột cá, cá cảnh…, còn rất ít trong khi nhu cầu những sản phẩm này trên thị trường Mỹ là rất lớn. Thứ hai, thủy sản Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh quyết liệt chẳng những về giá cả, chất lượng mà cả phương thức thanh toán đối với nhiều địch thủ trên thị trường Mỹ như : Thái Lan, ấn Độ, Mehico, Ecuador…Những nước này có bề dày kinh nghiệm làm ăn với Mỹ từ vài thập niên qua, có thị phần lớn. Còn các sản phẩm về cá thì Việt Nam lại gặp phải sừ cạnh tranh của chính các doanh nghiệp thủy sản Mỹ. Đặc biệt đó là các loại cá nheo, hiện chiếm đến 95% sản lượng cá nước ngọt, 56,7% sản lượng và 52,3% giá trị nuôi trồng thủy sản của Mỹ. Thứ ba, sự hiểu biết của các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam về thị tr ương Mỹ, về luật lệ làm ăn của Mỹ còn quá ít. Các doanh nghiệp Việt Nam còn bị động trong việc tìm kiếm khách hàng, xây dựng hợp đồng, xác định giá cả mua bán thủy sản..., yếu về công tác marketing, xúc tiến thương mại. Cho đến nay, chỉ có một số ít doanh nghiệp là tham gia hội trợ thủy sản Boston tại Mỹ tổ chức vào tháng 3 hàng năm, mới chỉ có hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam là có văn phòng đại diện tại Mỹ. Trong khi đó, các nước xuất khẩu lớn thủy sản vào Mỹ đều đã thiết lập nhiêu văn phòng ở khắp các thành phố khác nhau trên nước Mỹ để kịp thời nắm bắt thông tin và những biến động của thị trường thủy sản Mỹ nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước. Thứ năm, hoạt động thâm nhập thị trương còn thụ động, hầu như phải qua trung gian nên kim ngạch xuất khẩu còn thấp. Thứ sáu, chưa có chương trình tổng thể xúc tiến xuất khẩu thủy sản Việt Nam trên thị truờng Mỹ. Công tác xúc tiến thương mại vào thị trương Mỹ chưa tốt , mới chỉ thực hiện kênh thông tin cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý, còn kênh thông tin cho
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2