intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số yếu tố sinh lý sinh hóa ảnh hưởng tới khả năng tạo màng sinh học chủng nấm men Trichosporon asahii QN-B1 phân hủy phenol phân lập từ Hạ Long, Quảng Ninh

Chia sẻ: NI NI | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

84
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày về một số yếu tố sinh lý sinh hóa ảnh hưởng tới khả năng tạo màng sinh học của một số chủng nấm men phân hủy phenol phân lập từ Hạ Long, Quảng Ninh. Trong số các chủng nấm men đó, chủng QN-B1 có khuẩn lạc tròn, gọn, bề mặt khô cằn, ở giữa có nhân lồi, trắng, đường kính 3-4mm là chủng có các khả năng ấy tốt hơn các chủng còn lại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số yếu tố sinh lý sinh hóa ảnh hưởng tới khả năng tạo màng sinh học chủng nấm men Trichosporon asahii QN-B1 phân hủy phenol phân lập từ Hạ Long, Quảng Ninh

TẠP CHÍ SINH HỌC, 2013, 35(3se): 106-113<br /> <br /> MỘT SỐ YẾU TỐ SINH LÝ SINH HÓA ẢNH HƯỞNG TỚI KHẢ NĂNG TẠO<br /> MÀNG SINH HỌC CHỦNG NẤM MEN TRICHOSPORON ASAHII QN-B1 PHÂN<br /> HỦY PHENOL PHÂN LẬP TỪ HẠ LONG, QUẢNG NINH<br /> Lê Thị Nhi Công*, Cung Thị Ngọc Mai, Nghiêm Ngọc Minh<br /> Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam, *lenhicong@ibt.ac.vn<br /> TÓM TẮT: Từ các mẫu nước ô nhiễm dầu lấy ở vùng ven biển vịnh Hạ Long, Quảng Ninh chúng tôi đã<br /> phân lập được một số chủng nấm men tạo màng sinh học (biofilm) có khả năng phân hủy phenol. Trong<br /> số các chủng đó, chủng QN-B1 có khuẩn lạc tròn, gọn, bề mặt khô cằn, ở giữa có nhân lồi, trắng, đường<br /> kính 3-4mm là chủng có các khả năng ấy tốt hơn các chủng còn lại. Kết quả phân tích trình tự vùng bảo<br /> thủ cho nấm (ITS1-5.8r RNA-ITS2) và kết hợp với các đặc điểm hình thái, sinh lý, sinh hóa chủng B1<br /> được định tên là Trichosporon asahii QN-B1. Chủng đã được đăng ký trên ngân hàng gen với mã số<br /> KC139404. Chủng này có khả năng phân hủy phenol và tạo biofilm tốt ở pH từ 3 đến 7; với nồng độ NaCl<br /> là 1,5% và ở nhiệt độ 30oC, đồng thời chủng có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt ở nồng độ phenol<br /> lên tới 200ppm. Sử dụng các điều kiện cho khả năng tạo màng của chủng, sau 7 ngày nuôi cấy, chủng QNB1 đã phân hủy được 90% phenol, với nồng độ ban đầu là 200 ppm. Các kết quả này đã mở ra khả năng<br /> ứng dụng các chủng nấm men tạo màng sinh học nhằm xử lý các hợp chất gây ô nhiễm môi trường là các<br /> hydrocarbon thơm nói chung và phenol nói riêng.<br /> Từ khóa: Trichosporon asahii, màng sinh học, nấm men, phân hủy sinh học.<br /> MỞ ĐẦU<br /> <br /> Hiện nay, ngành công nghiệp sản xuất<br /> dầu mỏ ngày một phát triển mạnh và đã trở<br /> thành thế mạnh kinh tế đối với những quốc<br /> gia có tiềm năng dầu mỏ, trong đó có Việt<br /> Nam. Tuy nhiên, bên cạnh nguồn lợi về kinh<br /> tế do ngành công nghiệp này mang lại thì còn<br /> có hiểm họa ô nhiễm môi trường mà nguyên<br /> nhân từ những sự cố khai thác, vận chuyển<br /> trên biển và dự trữ dầu mỏ [ 6]. Trong nước<br /> thải nhiễm dầu, phenol là một chất gây ô<br /> nhiễm nghiêm trọng và có nhiều tác động xấu<br /> đến môi trường xung quanh. Phenol là một<br /> hợp chất vòng thơm rất độc hại, khó phân<br /> hủy, gây ra mùi khó chịu, ảnh hưởng lớn đến<br /> sản xuất nông nghiệp, gia tăng bệnh tật và tỷ<br /> lệ người mắc bệnh kể cả ở nồng độ rất thấp,<br /> nó cũng là tác nhân tiềm ẩn gây ung thư và<br /> nhiều bệnh nguy hiểm cho con người [ 3].<br /> Chính vì vậy, việc loại bỏ phenol ra khỏi<br /> nguồn nước là một vấn đề cấp thiết hiện nay.<br /> Việc xử lý phenol theo phương pháp phân<br /> hủy sinh học đã và đang được nhiều nhà khoa<br /> học trên thế giới cũng như trong nước quan<br /> tâm nghiên cứu. Nhờ có các ưu điểm vượt trội<br /> của nó so với các phương pháp hoá lý như: an<br /> toàn với môi trường, đơn giản, xử lý triệt để<br /> 106<br /> <br /> không gây ra hiện tượng ô nhiễm thứ cấp, mà<br /> giá thành lại rẻ. Trong các công nghệ phân<br /> hủy sinh học đó thì công nghệ sử dụng màng<br /> sinh học (biofilm) do các vi sinh vật tạo ra<br /> hiện đang được xem là công nghệ có hiệu quả<br /> xử lý ô nhiễm dầu cao [ 13]. Biofilm là một<br /> tập hợp các vi sinh vật gắn trên một bề mặt của<br /> vật thể rắn hoặc bề mặt chất lỏng, tạo thành lớp<br /> màng bao phủ bề mặt đó. Các vi sinh vật trong<br /> biofilm liên kết với nhau một cách chặt chẽ, tạo<br /> thành một cấu trúc bền vững. Do mật độ các<br /> chủng vi sinh vật trong biofilm cao, hỗ trợ và<br /> liên kết với nhau một cách chặt chẽ nên khả<br /> năng đồng hóa, trao đổi chất, phân hủy các<br /> hydrocarbon sẽ xảy ra nhanh hơn. Theo các<br /> công bố trong những năm gần đây, người ta<br /> thấy rằng một số chủng nấm men tạo biofilm<br /> tốt, chẳng hạn như Candida tropicalis,<br /> Cryptococcus terreus, Rhodotorula creatinivora<br /> và Rhodosporidium toruloides có nhiều tiềm<br /> năng ứng dụng trong xử lý nước ô nhiễm phenol<br /> một cách hiệu quả xử lý cao và an toàn [2, 10].<br /> Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay chưa có nhiều<br /> nghiên cứu về các chủng nấm men tạo màng<br /> sinh học có khả năng phân hủy phenol. Vì vậy,<br /> chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu một số đặc<br /> điểm sinh lý, sinh hóa của chủng nấm men biển<br /> <br /> Le Thi Nhi Cong, Cung Thi Ngoc Mai, Nghiem Ngoc Minh<br /> <br /> Trichosporon asahii QN-B1.<br /> VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> <br /> Vật liệu<br /> 15 mẫu đất và nước bị ô nhiễm dầu lấy<br /> ở các vị trí khác nhau của vịnh Hạ Long,<br /> Quảng Ninh.<br /> Môi trường Hansen: Glucose (30 g/l),<br /> K2HPO4 (3 g/l), NaCl (5 g/l), MgSO4 (2 g/l),<br /> peptone (7 g/l), cao men (1 g/l), thạch (20 g/l),<br /> pH 6; và môi trường muối khoáng cơ bản có bổ<br /> sung các nồng độ phenol khác nhau (50-250<br /> ppm) [16].<br /> Cặp mồi ITS1: 5’-TCC GTA GGT GAA<br /> CCT GCG G-3’; ITS4: 5’-TCC TCC GCT TAT<br /> TGA TAT GC-3’<br /> Phương pháp<br /> Phân lập nấm men; quan sát hình thái khuẩn<br /> lạc và hình thái tế bào<br /> Phương pháp làm giàu 3 lần được dùng để<br /> phân lập các chủng nấm men có khả năng sử<br /> dụng phenol. 5ml hỗn hợp các mẫu nước (hoặc<br /> 1g mẫu đất) được nuôi trong 100 ml môi trường<br /> muối khoáng có bổ sung 1% (v/v) dầu diesel,<br /> 0,5% glucose và 0,1% vitamin, nuôi lắc 5-7<br /> ngày ở 30oC với tốc độ 200 vòng/phút. Sau 5-7<br /> ngày, 10% giống ở lần làm giàu thứ nhất được<br /> chuyển sang bình làm giàu lần thứ hai và lần<br /> thứ ba. Sau lần làm giàu thứ 3, 0,5ml dịch nuôi<br /> cấy được pha loãng tới nồng độ 10-5 trong nước<br /> muối sinh lý 0,85% và cấy gạt trên môi trường<br /> Hansen có bổ sung chất kháng sinh cyclohexamid. Các khuẩn lạc tạo thành được quan sát<br /> hình thái và hình dạng tế bào nấm men theo<br /> phương pháp của Phạm Hương Sơn và nnk.<br /> (1999) [15].<br /> Tạo màng sinh học<br /> Sử dụng phương pháp đánh giá sự hình<br /> thành màng sinh học của Morikawa et al. (2006)<br /> [13]: chủng nuôi cấy non (trong 12-16 giờ)<br /> được đưa vào môi trường đặc hiệu. Sau 2 ngày,<br /> màng sinh học tạo thành sẽ được rửa bằng nước<br /> cất và nhuộm với dung dịch tím tinh thể, rửa lại<br /> bằng DMSO và đo ở bước sóng 570 nm. Các<br /> chủng có giá trị đo độ hấp thụ cao sẽ được lựa<br /> chọn.<br /> Phân loại và định tên nấm men<br /> <br /> Tách chiết DNA tổng số: DNA tổng số của<br /> nấm men được tách chiết theo phương pháp của<br /> Harju và cộng sự (2004) [9]. DNA tổng số sau<br /> khi kiểm tra trên gel agarose 1% thấy đảm bảo<br /> đủ chất lượng và số lượng được sử dụng làm<br /> khuôn để khuếch đại bằng PCR với cặp mồi<br /> ITS1 [16].<br /> Sản phẩm PCR được tinh sạch theo quy<br /> trình hướng dẫn của bộ kit AccuPrep PCR<br /> Purrification Kit (Bioneer, Hàn Quốc) và được<br /> xác định trình tự trên máy đọc tự động tại<br /> Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ gen,<br /> Viện Công nghệ sinh học. Mức độ tương đồng<br /> của đoạn gene ITS1 của 2 chủng TH1 và TH4<br /> được so sánh với các trình tự của các chủng<br /> nấm men khác trên Gen Bank (NCBI) bằng<br /> công cụ BLAST. Cây phát sinh chủng loại được<br /> xây dựng dựa trên các chương trình Blast,<br /> clustal X và Mega4.<br /> Đánh giá ảnh hưởng của một số điều kiện<br /> sinh lý, sinh hóa lên khả năng tạo màng<br /> Khảo sát các điều kiện: dải pH từ 3 đến 7;<br /> nồng độ NaCl từ 0 đến 2% (w/v) và nhiệt độ từ<br /> 20 đến 50oC, nhằm đánh giá ảnh hưởng của các<br /> điều kiện này lên khả năng tạo màng sinh học<br /> của các chủng lựa chọn.<br /> Đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển<br /> của các chủng nấm men trên nguồn cơ chất<br /> phenol<br /> Các chủng nấm men được nuôi lắc trên môi<br /> trường khoáng có bổ sung các nồng độ phenol<br /> khác nhau ở 30oC. Sau 1, 3, 5 và 7 ngày dịch<br /> nuôi cấy được lấy ra và đo ở bước sóng 600nm.<br /> Đánh giá khả năng phân hủy phenol: Theo<br /> Cung Thị Ngọc Mai và nnk. (2010) [7].<br /> KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> <br /> Phân lập các chủng nấm men có khả năng<br /> phân hủy phenol<br /> Từ các mẫu đất và nước bị ô nhiễm dầu lấy<br /> ở các vị trí khác nhau của vịnh Hạ Long, Quảng<br /> Ninh, sau 3 lần làm giàu trên môi trường<br /> khoáng có bổ sung phenol và vitamin, chúng tôi<br /> đã phân lập và tuyển chọn được 3 chủng nấm<br /> men với các đặc điểm hình thái khuẩn lạc được<br /> mô tả trong bảng 1. Các chủng này có khả năng<br /> sinh trưởng và phát triển tốt trên nguồn cơ chất<br /> 107<br /> <br /> TẠP CHÍ SINH HỌC, 2013, 35(3se): 106-113<br /> <br /> phenol với nồng độ là 100 ppm. Phenol và các<br /> dẫn xuất của nó thường được tìm thấy với nồng<br /> độ khá cao trong các mẫu nước ô nhiễm dầu<br /> mỏ. Còn trong các mẫu nước lấy tại các sông hồ<br /> với nồng độ cao, trong nước tự nhiên nồng độ<br /> phenol khoảng 0,01-0,2 ppm, trong nước thải<br /> <br /> của các nhà máy chế biến xăng dầu có thể lên<br /> tới 40 ppm. Trong khi đó, với nồng độ vài ppm<br /> trong nước, phenol đã gây ảnh hưởng rất lớn tới<br /> các sinh vật sống [3]. Do đó, chúng tôi đã sử<br /> dụng 3 chủng nấm men này cho các nghiên cứu<br /> tiếp theo.<br /> <br /> Bảng 1. Đặc điểm hình thái khuẩn lạc của ba chủng nấm men được phân lập<br /> STT<br /> <br /> Ký hiệu<br /> <br /> 1<br /> <br /> QN-B1<br /> <br /> Hình thái khuẩn lạc<br /> Khuẩn lạc tròn, gọn, bề mặt khô<br /> cằn, ở giữa có nhân lồi, trắng,<br /> đường kính 3-4 mm<br /> <br /> Khuẩn lạc tròn, gọn, bề mặt hơi<br /> lồi, đỏ cam nhạt, đường kính 1-2<br /> mm<br /> 2<br /> <br /> QN-B2<br /> <br /> Khuẩn lạc tròn, gọn, bề mặt xù xì,<br /> trắng, đường kính 3-5 mm<br /> 3<br /> <br /> QN-B3<br /> <br /> b<br /> <br /> a<br /> <br /> Đối chứng<br /> <br /> QN-B1<br /> <br /> QN-B2 QN-B3<br /> <br /> Hình 1. Khả năng tạo màng sinh học của ba chủng nấm men (K: đối chứng)<br /> a. Màng tạo thành trên các ống eppendorf; b. Kết quả đo giá trị hấp thụ ở bướ sóng 570 nm<br /> của các màng (Kết quả là giá trị trung bình của 3 lần thí nghiệm lặp lại).<br /> <br /> 108<br /> <br /> Le Thi Nhi Cong, Cung Thi Ngoc Mai, Nghiem Ngoc Minh<br /> <br /> Sàng lọc các chủng nấm men tạo màng<br /> sinh học<br /> Sử dụng phương pháp nghiên cứu khả năng<br /> tạo biofilm của Morikawa et al. (2006), chúng<br /> tôi đã thu được kết quả trong hình 1. So sánh<br /> các kết quả trên với chủng đối chứng dương<br /> Candida tropicalis VT09 trong nghiên cứu<br /> trước [4], chủng QN-B1 đã được lựa chọn cho<br /> các nghiên cứu tiếp theo.<br /> Phân loại và định tên nấm men<br /> Chủng QN-B1 đã được định danh bằng<br /> phương pháp giải trình tự vùng ITS1-5.8r RNAITS2. Kết quả được tra cứu trên ngân hàng gene<br /> của NCBI thông qua chương trình BLAST và<br /> dựa vào sự tương đồng để định tên đến loài. Kết<br /> quả cho thấy, chủng này có độ tương đồng đến<br /> <br /> 99% so với chủng Trichosporon asahii<br /> AB031520 (hình 2). Kết hợp với các kết quả<br /> sinh lý, sinh hóa của KIT chuẩn sinh hóa API<br /> 20C AUX, chủng QN-B1 được định tên là<br /> Trichosporon asahii QN-B1 và được đăng ký<br /> trên ngân hàng gene với mã số KC139404.<br /> Theo Awe et al. (2009) [1], Trichosporon asahii<br /> được xem là loài có khả năng phân hủy và<br /> chuyển hóa các hợp chất hydrocarbon thơm rất<br /> tốt. Tuy nhiên, cho tới nay chưa có công bố nào<br /> về khả năng tạo biofilm của loài này. Do đó,<br /> chúng tôi đã sử dụng chủng Trichosporon<br /> asahii QN-B1 vừa tạo biofilm tốt vừa có khả<br /> năng phân hủy phenol cao để nghiên cứu một số<br /> điều kiện hóa lý ảnh hưởng tới khả năng tạo<br /> màng của chủng này.<br /> <br /> Hình 2. Cây phát sinh chủng loại của chủng QN-B1<br /> Đánh giá ảnh hưởng của một số điều kiện<br /> sinh lý, sinh hóa lên khả năng tạo màng của<br /> chủng T. asahii QN-B1<br /> Ảnh hưởng của pH<br /> Nấm men thường sinh trưởng tốt trong<br /> khoảng pH môi trường từ axit đến gần trung<br /> tính [15]. Do đó, chúng tôi đã tiến hành khảo sát<br /> ảnh hưởng của pH lên khả năng tạo màng của<br /> chủng T. asahii QN-B1 với dải pH từ 3 đến 8.<br /> Kết quả được trình bày trên hình 3a cho thấy,<br /> chủng QN-B1 tạo biofilm tốt ở ở tất cả các pH<br /> từ 3-7 nhưng ở giá trị pH 8, khả năng tạo màng<br /> đã giảm đi rõ rệt. Đây là phát hiện khá thú vị về<br /> chủng QN-B1, chủng có khả năng sinh trưởng<br /> và tạo biofilm tốt ở phổ pH khá rộng, vì thông<br /> <br /> thường pH thích hợp cho sự sinh trưởng của<br /> nấm men là 5,5.<br /> Ảnh hưởng của nồng độ NaCl<br /> Do chủng T. asahii QN-B1 được phân lập từ<br /> vùng biển Hạ Long, Quảng Ninh, nên việc<br /> nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ muối đến sự<br /> sinh trưởng và tạo màng sinh học của chúng là<br /> một yếu tố rất quan trọng. Trong thí nghiệm,<br /> chúng tôi đã lựa chọn các nồng độ NaCl từ 0<br /> đến 2% (w/v) để nghiên cứu. Kết quả này cho<br /> thấy, chủng này tạo biofilm tốt ở nồng độ NaCl<br /> là 1,5 (hình 3b). Phát hiện này cho phép định<br /> hướng ứng dụng chủng TH4 vào các địa điểm<br /> có các điều kiện từ pH thấp đến trung tính, nồng<br /> độ NaCl cao.<br /> 109<br /> <br /> TẠP CHÍ SINH HỌC, 2013, 35(3se): 106-113<br /> <br /> a<br /> <br /> b<br /> <br /> c<br /> <br /> Hình 3. Ảnh hưởng của một số điều kiện sinh lý, sinh hóa<br /> lên khả năng tạo biofilm của chủng nấm men QN-B1<br /> a. pH; b. nồng độ NaCl; c. nhiệt độ (Kết quả là giá trị trung bình của 3 lần thí nghiệm lặp lại)<br /> Ảnh hưởng của nhiệt độ<br /> Tiến hành thí nghiệm với dải nhiệt độ từ 20<br /> đến 50oC, kết quả cho thấy ở nhiệt độ 30oC khả<br /> năng tạo màng của chủng QN-B1 là tốt nhất<br /> (hình 3c).<br /> Khả năng sinh trưởng và phát triển của<br /> chủng T.asahii QN-B1 với các nồng độ<br /> phenol khác nhau<br /> Tiến hành nuôi lắc chủng QN-B1 trên môi<br /> trường muối khoáng Gost (50 ml) có bổ sung<br /> 0,1 % vitamin và phenol với nồng độ khác nhau<br /> lần lượt là 50, 100, 150, 200, 250 ppm. Nuôi lắc<br /> ở 30oC với tốc độ 180 vòng/ phút trong vòng 7<br /> ngày. Các mẫu thử nghiệm được quan sát từng<br /> ngày dựa vào màu sắc môi trường nuôi cấy và<br /> lượng sinh khối tạo ra trong bình. Sau 1, 3, 5, 7<br /> ngày 1 ml dịch nuôi được hút ra và đem đi đo<br /> OD600. Thử nghiệm được lặp lại 3 lần và tiến<br /> hành lập biểu đồ sinh trưởng (hình 4). Kết quả<br /> cho thấy, sau 7 ngày thử nghiệm, ở các nồng độ<br /> từ 50 đến 200 ppm phenol chủng nấm men này<br /> có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt. Tuy<br /> nhiên, khi nâng nồng độ thử nghiệm lên tới 250<br /> ppm phenol, chủng không còn sinh trưởng và<br /> phát triển. Vì vậy, chúng tôi đã sử dụng nồng độ<br /> 110<br /> <br /> 200ppm để nghiên cứu khả năng phân hủy<br /> phenol của chủng QN-B1 ở dạng nuôi tĩnh<br /> biofilm.<br /> Đánh giá khả năng phân hủy phenol<br /> <br /> Hình 4. Khả năng sinh trưởng và phát triển<br /> của chủng QN-B1 với các nồng độ phenol<br /> khác nhau<br /> Tiến hành thử nghiệm khả năng phân hủy<br /> phenol 200 ppm đối với chủng T. asahii QN-B1<br /> ở điều kiện nuôi tĩnh tạo biofilm và dạng nuôi<br /> lắc. Sau 7 ngày, chúng tôi nhận thấy, ở mẫu thử<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2