intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam góp phần xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

17
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam góp phần xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư" làm rõ một số tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với giáo dục đại học ở nước ta, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở nước ta hiện nay góp phần xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam góp phần xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư

  1. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM GÓP PHẦN XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC MỞ, THỰC HỌC, THỰC NGHIỆP TRƯỚC TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ PGS.TS. Vũ Công Thương* 1 Tóm tắt: Sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại trong thời gian gần đây đã đưa nhân loại bước sang một kỷ nguyên mới. Đặc biệt, sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã làm thay đổi toàn diện các lĩnh vực kinh tế - xã hội và có tác động đa chiều đến giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục đại học. Bài viết làm rõ một số tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với giáo dục đại học ở nước ta, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở nước ta hiện nay góp phần xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp. Từ khóa: Khoa học, công nghệ, cách mạng công nghiệp, chất lượng, giáo dục. 1. MỞ ĐẦU Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với việc ứng dụng khoa học và công nghệ cao đã và đang tác động mạnh mẽ làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội. Đối với lĩnh vực giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động theo chiều hướng khác nhau, bên cạnh những tác động tích cực, cuộc cách mạng này cũng đã đặt ra cho ngành giáo dục không ít khó khăn, thách thức. Vì vậy, nghiên cứu tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến giáo dục đại học ở nước ta, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học góp phần xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp ở nước ta là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. 2. NỘI DUNG 2.1. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những tác động của đối với giáo dục đại học Việt Nam 2.1.1. Khái quát chung về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư Lịch sử loài người đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp lớn làm thay đổi toàn bộ nền sản xuất và các điều kiện kinh tế - xã hội của thế giới. Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên (diễn ra từ giữa cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX), bắt đầu ở nước Anh. Với sự xuất hiện của máy chạy bằng hơi nước và thủy lực đã mở ra kỷ * Trường Đại học Sài Gòn.
  2. 548 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP nguyên cơ khí hóa; phương thức sản xuất thay đổi từ sản xuất bằng thủ công sang sản xuất bằng cơ khí; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX). Cuộc cách mạng này đã có vai trò to lớn trong việc chuyển từ sản xuất hàng hóa đơn lẻ sang sản xuất hàng hóa hàng loạt bằng máy móc chạy với năng lượng điện. Đồng thời, từ khi có điện, con người cũng thay đổi nếp sống, thói quen và có cuộc sống văn minh hơn; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (từ giữa thế kỷ XX) mở ra kỷ nguyên tự động hóa bằng sử dụng điện tử và công nghệ thông tin. Hầu hết, các hoạt động lao động được thực hiện bằng máy móc, nhờ đó năng suất lao động tăng lên đột biến. Ngày nay, chúng ta đang ở giai đoạn đầu của cuộc cách mạng lần thứ tư được khởi phát vào thời điểm chuyển giao sang thế kỷ XXI. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (thường gọi là cách mạng 4.0 hay Industrie 4.0) là một thuật ngữ mới được giới thiệu lần đầu tiên năm 2011 tại triển lãm công nghệ Hannover - Đức. Đến nay, thuật ngữ này thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều quốc gia trên thế giới và là chủ đề thảo luận nhiều nhất tại Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos (tháng 01/2016). Bản chất của cách mạng công nghiệp lần thứ tư là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất. Trong đó, công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy... đang có ưu thế nổi trội. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là xu hướng hiện tại của tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống của sự kết hợp công nghệ cảm biến mới, phân tích dữ liệu lớn (SMAC), điện toán đám mây và Internet kết nối vạn vật (IoT)… Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các “nhà máy thông minh” hay “nhà máy số”. Trong các nhà máy thông minh này, các máy móc được kết nối Internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự hình dung toàn bộ quy trình sản xuất, từ đó đưa ra quyết định sẽ thay thế dần các dây chuyền sản xuất trước đây. Trí tuệ nhân tạo sẽ ngày càng trở nên phổ biến và thông dụng thay thế một phần trí tuệ của con người. Nhờ ứng dụng công nghệ mới này con người có thể sản xuất ra những robot với khả năng tự học và sẽ thay thế con người đảm đương những công việc chính xác và nặng nhọc với năng suất, chất lượng cao. Cách mạng 4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển ở Mỹ, châu Âu, một phần châu Á. Bên cạnh những thuận lợi, cuộc cách mạng này cũng đặt ra cho nhân loại không ít thách thức, khó khăn như sự bất bình đẳng trong lao động sản xuất, phá vỡ thị trường lao động khi sản xuất tự động hóa thay thế lao động chân tay, khi đó nhiều lao động sẽ rơi vào tình cảnh thất nghiệp. Ở Việt Nam, cuộc cách mạng 4.0 đang kích hoạt các làn sóng tạo nên những đột phá xa hơn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm thay đổi cách thức sản
  3. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 549 xuất, làm việc và lối sống của con người. Đặc biệt, cuộc cách mạng này ảnh hưởng rất lớn đến lực lượng lao động phổ thông, nhất là đối với những người đang làm việc ở các lĩnh vực: y tế, giáo dục, nông nghiệp, dệt may, dịch vụ, giải trí, thương mại, giao thông. Nhờ công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), “người máy” làm việc ngày càng thông minh, có khả năng ghi nhớ, học hỏi vô biên, trong khi khả năng đó ở mỗi con người có giới hạn. Ưu điểm của robot làm việc 24/24h mà không cần phải trả lương, đóng thuế, bảo hiểm…. đang đe dọa đến sự tương quan trong việc sử dụng lao động là “người thật” hay “người máy”. Vì vậy, giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thực tiễn đất nước. 2.1.2. Một số tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với giáo dục đại học ở nước ta Thứ nhất, những tác động tích cực của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với giáo dục đại học. Một là, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tạo ra cơ hội cho các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta thực hiện những bước đột phá mới trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, làm thay đổi mục tiêu đào tạo và mô hình đào tạo truyền thống. Với thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, Internet kết nối vạn vật với tốc độ cao, các lớp học truyền thống được giảng dạy trực tiếp dần được thay thế hoặc có sự kết nối với các lớp học trực tuyến, lớp học ảo. Không gian học tập sẽ đa dạng hơn, thay vì học tập trong phòng thí nghiệm hay phòng mô phỏng truyền thống, thì người học có thể học tập bằng không gian ảo, có thể tương tác trong điều kiện như thật thông qua các phần mềm và hệ thống mạng. Tài nguyên học tập số trong điều kiện kết nối không gian thật và ảo sẽ vô cùng phong phú, không gian thư viện không còn là địa điểm cụ thể nữa mà người học có thể khai thác ở mọi lúc, mọi nơi một cách dễ dàng. Hai là, chương trình học được thiết kế đa dạng, linh hoạt, cụ thể hơn và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người học. Công nghệ thông tin, kỹ thuật số, hệ thống mạng kết nối và siêu dữ liệu sẽ là những công cụ và phương tiện tốt để thay đổi cách thức tổ chức và phương pháp giảng dạy. Những thành tựu của công nghệ số như Internet kết nối vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)…, thiết bị di động thông minh, robot,… đã và đang tạo điều kiện cho việc tìm kiếm các nguồn thông tin, dữ liệu đa dạng, dễ dàng hơn. Thông qua công nghệ số và kết nối Internet, những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy đại học sẽ nhanh chóng nắm bắt được những vấn đề cần học tập và nghiên cứu. Từ đó, công tác nghiên cứu và giảng dạy không những phong phú, đa dạng, mà còn bám sát nhu cầu thực tiễn, nắm bắt và định hướng thực tiễn.
  4. 550 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Ba là, cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ làm cho doanh nghiệp và các cơ sở giáo dục đại học gắn bó với nhau hơn, tạo ra môi trường thực hành đa dạng, giúp người học tiếp cận sớm hơn với môi trường làm việc thực tế ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhờ đó, tính thực tiễn của quá trình đào tạo và chất lượng đào tạo được nâng cao, đảm bảo hài hòa lợi ích của cả nhà trường và doanh nghiệp. Bốn là, cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo điều kiện cho giảng viên và sinh viên dễ dàng tiếp cận các nguồn thông tin, tri thức đa dạng ở trong nước và quốc tế. Nhờ sự hỗ trợ của công nghệ thông tin mà họ có thể tiếp cận với nhiều loại hình khác nhau trong cùng một lúc (video, trang website, sách, báo điện tử…). Trong thời đại công nghệ số, đa phần các tài liệu được số hóa. Hiện nay, ở nước ta hầu hết các thư viện đều mở thư viện điện tử và dần dần số hóa các tài liệu để phục vụ bạn đọc tốt hơn. Một số thư viện ở các trường đại học, thư viện các tỉnh, thành phố đều có hệ thống kết nối với nhau trao đổi tư liệu. Nguồn tài nguyên giáo dục mở đa dạng, có ý nghĩa thiết thực cho việc chia sẻ kiến thức miễn phí, chất lượng luôn được cập nhật và giảm chi phí phát triển. Điều đó, là cơ sở quan trọng cho việc phát huy, phát triển các thiết bị học tập cá nhân như thiết bị đọc sách điện tử, smartphone, máy tính bảng, máy tính xách tay… Thứ hai, những thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với giáo dục nước ta hiện nay. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với việc ứng dụng khoa học công nghệ cao đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực, ngành nghề, trong đó giáo dục đại học chịu ảnh hưởng lớn nhất. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi một nguồn lao động có chất lượng cao, điều này đã và đang đặt nền giáo dục nước ta trước những thách thức to lớn: Một là, một số cơ sở giáo dục đại học sẽ tụt hậu do thiếu các chuyên gia công nghệ thông tin, cơ sở vật chất chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của đổi mới. Nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự kết nối giữa thế giới thật và ảo thông qua phần mềm công nghệ thông tin và kỹ thuật số có vai trò quan trọng trong toàn bộ quá trình dạy, học và quản lý. Trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mô hình giáo dục hiện đại đang đi theo khuynh hướng mở rộng các tiện ích gắn với không gian mạng Internet, wifi. Phòng học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo sẽ trở thành xu hướng trọng tâm trong hoạt động đào tạo đại học thời đại mới. Hiện nay, phần lớn các cơ sở giáo dục vẫn sử dụng trang thiết bị chưa đáp ứng được nhu cầu của thời đại cách mạng số, trong khi nguồn vốn và kinh phí của các trường còn hạn chế. Đây là thách thức không nhỏ đối với các cơ sở đào tạo đại học trước yêu cầu đồng bộ về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất, hiện đại hóa trang thiết bị để chuyển sang mô hình giáo dục mở, thực chất, thực nghiệp.
  5. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 551 Hai là, nội dung, chương trình đào tạo và phương pháp đào tạo ở nhiều cơ sở giáo dục đại học còn chậm đổi mới, cứng nhắc; nội dung kiến thức đào tạo còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa tạo được sự thống nhất, sự gắn kết giữa mục tiêu đào tạo với mục tiêu tìm kiếm việc làm. Sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo áp lực lớn đối với giáo dục, đào tạo trong việc cập nhật, sửa đổi, bổ sung, phát triển chương trình đào tạo, đào tạo kỹ năng cho người học để đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng. Phương pháp, hình thức đào tạo thay đổi gắn với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật số và hệ thống Internet. Các mô hình đào tạo online, lớp học ảo, số hóa bài giảng… sẽ là xu hướng đào tạo phổ biến trong tương lai. Vai trò quyền uy và độc quyền của người thầy truyền thống mặc nhiên bị thay đổi từ vai trò cấp phát, truyền thụ kiến thức sang vai trò huấn luyện viên, hỗ trợ, hướng dẫn người học là chính. Việc học tập sẽ kéo dài suốt đời và mang tính tự nguyện, tự giác, người học chủ động lĩnh hội kiến thức vì mục tiêu cá nhân và mục đích nghề nghiệp, tăng cường hội nhập xã hội và chủ động phát triển bản thân nhằm tăng tính cạnh tranh cá nhân trong nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, các cơ sở giáo dục đại học cần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo từ nội dung chương trình, phương pháp hình thức giáo dục đến xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục. Ba là, những thách thức từ yêu cầu rút ngắn thời gian đào tạo đại học nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập. Trước xu hướng áp dụng công nghệ mới trong giảng dạy cùng với sự hỗ trợ của phương tiện công nghệ thông tin, sinh viên không nhất thiết phải có mặt trên giảng đường tất cả thời gian như cách dạy học truyền thống. Vì vậy, giờ tự học, tự nghiên cứu của sinh viên với sự hướng dẫn của giảng viên tăng lên, giờ giảng trực tiếp trên lớp giảm. Đồng thời, khung thời gian đào tạo, cấu trúc chương trình đào tạo đại học các nước trên thế giới hiện nay rất đa dạng và khác nhau. Điều đó, gây khó khăn cho việc công nhận chương trình, văn bằng và hạn chế việc trao đổi sinh viên giữa các nước. Bốn là, thực tế cho thấy, trình độ ngoại ngữ, tin học của giảng viên và sinh viên ở nước ta còn nhiều hạn chế, không đồng đều so với các nước trong khu vực và thế giới. Đây chính là một trong những rào cản lớn cho sự tiếp cận những nguồn thông tin và phương pháp giáo dục hiện đại trên thế giới. Có thể nói, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đặt giáo dục, nhất là giáo dục đại học ở nước ta trước nhiều thách thức lớn. Trong đó, sự xuất hiện của các công nghệ mới, sự ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin đã làm thay đổi nền tảng sản xuất và đặt ra những yêu cầu mới về năng lực nhân sự, khoa học, công nghệ và tri thức. Để đáp ứng được thị trường lao động hiện đại cần phải đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao, đảm bảo các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng và phẩm chất thích ứng
  6. 552 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP với môi trường lao động mới. Điều đó, đòi hỏi ngành Giáo dục nước ta phải nhận thức được những thách thức mà cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại để sẵn sàng thay đổi và các hoạt động giáo dục - đào tạo và có định hướng cụ thể cho sự phát triển như: đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, quản lý sinh viên, phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá chuẩn đầu ra, đầu tư cơ sở vật chất... 2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học góp phần xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp ở nước ta hiện nay Thứ nhất, đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học, thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đổi mới giáo dục. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục đại học nói riêng là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết từ tư duy, quan điểm đến mục tiêu, hệ thống, chương trình giáo dục, các chính sách, cơ chế và các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục. Đổi mới phải đồng bộ cả chiều rộng và chiều sâu. Đổi mới để tạo ra chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục là điểm xuất phát mới và cũng là điểm tựa cơ bản để tiếp tục gợi mở tư duy và cách làm mới đối với sự nghiệp giáo dục. Đây cũng chính là cơ hội để tiếp thu, chọn lọc thêm những yếu tố tích cực của các nền giáo dục tiên tiến, hiện đại của nhân loại. Vì vậy, để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục cần thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đổi mới giáo dục như Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ “về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; Quyết định số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017 về việc phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy và học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025”…. Thứ hai, tăng cường sự liên kết giữa các cơ sở giáo dục với các doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội. Sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay mang lại nhiều cơ hội mới cho sự phát triển của các quốc gia, dân tộc về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Song, cuộc cách mạng đó cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức khi xuất hiện các ngành nghề mới đòi hỏi trình độ, kỹ thuật lao động sáng tạo bậc cao. Do vậy, công tác đào tạo nguồn nhân lực cần phải có sự liên kết chặt chẽ giữa cơ sở giáo dục đại học
  7. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 553 với các doanh nghiệp để xây dựng các phòng thí nghiệm, xây dựng nội dung chương trình đào tạo, phù hợp với thực tiễn, đảm bảo được chất lượng “đầu vào” cũng như quá trình đào tạo và đầu ra của “sản phẩm” - sinh viên tốt nghiệp; tổ chức cho sinh viên thực tế, thực hành, thực tập nhằm gắn lý luận với thực tiễn, nhà trường với xã hội. Thứ ba, tăng cường tính tự chủ trong hoạt động đào tạo và quản trị đại học. Các cơ sở giáo dục đại học cần nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước các cơ quan nhà nước về các mặt: tổ chức, quản lý bộ máy, nhân sự của mình; tài chính, mở rộng nguồn thu và khoán chi; thường xuyên sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ phù hợp với thực tế; thường xuyên kiểm tra, kiểm soát nội bộ và công khai tài chính; đào tạo, phát triển đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục; hoạt động đào tạo (kế hoạch đào tạo, công tác tuyển sinh, chương trình đào tạo, tổ chức đào tạo, kiểm tra, đánh giá). Đặc biệt, thực hiện cam kết của nhà trường với xã hội về chất lượng đào tạo nhằm động viên, khuyến khích cán bộ quản lý, giảng viên và người học nỗ lực vươn lên trong giảng dạy, học tập và thực hiện tốt sứ mệnh, triết lý giáo dục mà nhà trường đã tuyên bố. Thứ tư, đổi mới nội dung chương trình đào tạo, phương pháp, hình thức tổ chức, quản lý dạy và học phù hợp với tốc độ phát triển của công nghệ thông tin. Hiện nay, chương trình đào tạo, giáo trình nhiều môn học bậc đại học đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Kiến thức nghiêng nhiều về lý thuyết hàn lâm, tính ứng dụng vào thực tiễn còn hạn chế. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi cần phải đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo và phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với từng chuyên ngành. Đây chính là cơ sở giúp cán bộ, giảng viên, sinh viên có những định hướng đúng, tạo ra sự đồng thuận trong nhà trường đối với việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy và học. Vì vậy, các cơ sở giáo dục đại học cần phải từng bước xây dựng chương trình đào tạo linh hoạt, kiến thức cập nhật hơn, hướng tới phát triển các kỹ năng phù hợp với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm đảo bảo cung cấp kiến thức nền tảng nhằm phát triển năng lực cho người học. Bên cạnh đó, cần đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra đánh giá theo hướng đáp ứng năng lực làm việc và tính sáng tạo của người học; đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức, quản lý dạy và học, tận dụng tối đa các công cụ hỗ trợ cho quá trình tổ chức, quản lý dạy và học mà công nghệ thông tin mang lại nhằm tiết kiệm thời gian, công sức, “mở rộng được tầm mắt, kéo dài được đôi tay” để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học. Thứ năm, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, đội ngũ giảng viên có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có trình độ cao về chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục.
  8. 554 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Để đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, biết ứng dụng công nghệ hiện đại trong công tác quản lý, giảng dạy; có khả năng thích ứng trước sự thay đổi về chương trình, mô hình đào tạo và hình thức, nhu cầu học tập của người học. Đồng thời, cán bộ quản lý, giảng viên cần phải có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, là tấm gương cho người học noi theo. Vì vậy, các cơ sở giáo dục đại học cần phải quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là kiến thức về công nghệ thông tin, ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, đảm bảo tất cả cán bộ quản lý, giáo viên ngành giáo dục được trang bị những kỹ năng, phát triển năng lực tin học, ngoại ngữ, có khả năng sử dụng các phần mềm ứng dụng trong các hoạt động nghiệp vụ theo tiêu chuẩn của từng chức danh thích ứng với bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tăng cường giảng dạy, nâng cao kỹ năng sử dụng máy tính và ứng dụng công nghệ thông tin cho sinh viên ở tất cả các bậc học, ngành học. Đồng thời, xã hội hóa công tác phổ cập tin học cho toàn xã hội. Có cơ chế, chính sách khuyến khích, động viên các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đào tạo, bồi dưỡng nhân lực công nghệ thông tin dưới nhiều hình thức. Đồng thời, bản thân mỗi giảng viên, cán bộ quản lý phải nâng cao tính chủ động, tích cực tự học, tự tìm hiểu về công nghệ thông tin để nâng cao năng lực ứng dụng trong dạy, học, nghiên cứu khoa học, quản lý giáo dục trong mọi lúc, mọi nơi khi có Internet. Thứ sáu, đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy, học, hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, hiện đại và liên thông. Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông hiện nay, việc dạy, học có thể diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc. Ngoài các hình thức dạy, học tập trung trên lớp học truyền thống, cần quan tâm áp dụng các hình thức dạy học khác để người học có thể học ở mọi nơi, mọi lúc và bằng nhiều phương tiện khác nhau như trên các mạng zalo, messenger, facebook cá nhân, email... Thực hiện nghiêm túc Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025”: “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đẩy mạnh triển khai chính phủ điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong hoạt động quản lý điều hành của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở trung ương và các địa phương; đổi mới nội dung, phương pháp dạy - học, kiểm tra, đánh giá và nghiên cứu khoa học và công tác quản lý tại các cơ sở giáo dục đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân góp phần hiện đại hóa và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo” [2]. Mục tiêu cụ thể đến năm 2020 là: “Hình thành cơ sở dữ liệu toàn ngành giáo dục và đào tạo; phấn đấu 100% các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, các
  9. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 555 cơ sở giáo dục và đào tạo thực hiện quản lý hành chính xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng; 70% cuộc họp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và cơ sở giáo dục và đào tạo được áp dụng hình thức trực tuyến; 70% lớp bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được thực hiện qua mạng theo phương thức học tập kết hợp (blended learning); 50% hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý trực tuyến tối thiểu mức độ 3, trong đó 30% được xử lý trực tuyến ở mức độ 4... Định hướng đến năm 2025: Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học đạt trình độ tiên tiến trong khu vực ASEAN, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Công nghệ thông tin trở thành động lực đổi mới quản lý, nội dung, phương pháp dạy - học, kiểm tra đánh giá trong giáo dục và đào tạo” [2]. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở và liên thông, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, cần coi trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao ở tất cả các cấp trình độ. Xây dựng một hệ thống giáo dục đa dạng về phương thức học tập, đảm bảo mọi người dân được học theo nguyện vọng của chính mình và được học suốt đời. Thứ bảy, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị, chương trình, giáo trình, tài liệu, học liệu và Internet phục vụ đào tạo công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông và ứng dụng công nghệ thông tin ở tất cả các cơ sở giáo dục. Ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất cho một số cơ sở đào tạo trọng điểm về công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và quốc tế. Xây dựng và phát triển hạ tầng công nghệ theo hướng đồng bộ, tập trung, thống nhất, kết nối Internet, thiết bị công nghệ thông tin đảm bảo phục vụ tốt cho dạy - học, tạo cơ hội học tập bình đẳng cho sinh viên các trường, giữa các vùng miền có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, ưu tiên hình thức thuê dịch vụ và tăng cường xã hội hóa, hợp tác với các doanh nghiệp lớn triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục. 3. KẾT LUẬN Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã có tác động mạnh mẽ và toàn diện đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức. Ngoài việc mang lại những thời cơ, thuận lợi, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn có những thách thức không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển giáo dục đại học nói riêng. Trong bối cảnh nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng hội nhập quốc tế, để đáp ứng yêu cầu mới về nguồn nhân lực, đòi hỏi các trường đại học thích ứng, tận dụng được thời cơ và vượt qua những thách thức do cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại. Chỉ có thực hiện triệt để, thành công sự nghiệp
  10. 556 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng mới có thể đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần vào xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp ở nước ta hiện nay. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. 2. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017, phê duyệt đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025”. 3. Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ “về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2