intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Năng lực thông tin trong kỷ nguyên chuyển đổi số

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

10
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này hướng đến mục tiêu khám phá các năng lực số mà người lao động cần trang bị để thích ứng với kỷ nguyên công nghệ và tận dụng các cơ hội mà quá trình chuyển đổi số mang lại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Năng lực thông tin trong kỷ nguyên chuyển đổi số

  1. 124 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC NĂNG LỰC THÔNG TIN TRONG KỶ NGUYÊN CHUYỂN ĐỔI SỐ TS Trương Thành Công* TÓM TẮT Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, chuyển đổi số là yêu cầu tất yếu, tác động đến mọi mặt của cuộc sống. Để phục vụ cho quá trình này, năng lực để đáp ứng được môi trường chuyển đổi số là một vấn đề cần được quan tâm. Bài viết này hướng đến mục tiêu khám phá các năng lực số mà người lao động cần trang bị để thích ứng với kỷ nguyên công nghệ và tận dụng các cơ hội mà quá trình chuyển đổi số mang lại. Phương pháp sử dụng trong bài báo này là phương pháp phân tích theo chủ đề và nghiên cứu đánh giá tài liệu để phân tích các nội hàm của các năng lực số cần thiết. Kết quả của nghiên cứu này sẽ cung cấp các thêm các căn cứ để gợi mở hướng tiếp cận trong việc xây dựng khung năng lực số phù hợp cho sinh viên đại học nói riêng và người lao động tại Việt Nam nói chung để đáp ứng nhu cầu trong quá trình chuyển đổi số. Từ khóa: năng lực số, công nghệ số, chuyển đổi số 1. Giới thiệu Cụm từ “chuyển đổi số – Digital transformation” đã trở thành trào lưu trên thế giới và Việt Nam trong những năm gần đây. Mặc dù còn nhiều tranh luận về định nghĩa chung của thuật ngữ này, tuy nhiên về mặc tổng quát ta có thể hình dung chuyển đổi số (CĐS) là áp dụng các giải pháp số vào quy trình cốt lõi của một tổ chức một cách sâu sắc nhằm tạo sự đột phá trong cách thức vận hành của tổ chức đó bằng cách thiết lập ra các quy trình kinh doanh mới, nâng cao trải nghiệm khách hàng và thay đổi văn hóa của tổ chức. Tuy nhiên, để chuyển đổi số thành công, nhân lực cũng là vấn đề cần được quan tâm, đầu tư. Chính phủ rất quan tâm trong việc phát triển nguồn nhân lực trong chuyển đổi số, điều nay thể hiện qua Quyết định số 146/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Theo đó, đặt mục tiêu đến năm 2030 đạt 90% số người dân trong độ tuổi lao động biết đến các loại hình dịch vụ công trực tuyến và các dịch vụ số thiết yếu khác trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, giao thông, du lịch, ngân hàng; thành thạo cách thức sử dụng dịch vụ khi có nhu cầu. Để học tập, làm việc trong môi trường chuyển đổi số đòi hỏi mỗi cá nhân phải có các năng lực số tương ứng. Điều này là một thách thức cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý giáo dục trong việc Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Tài chính – Marketing *
  2. CHUYỂN ĐỔI SỐ: XU HƯỚNG VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ 125 tìm ra cách thức để trang bị các năng lực số cho người lao động cũng như đáp ứng được thị trường lao động trong tình hình mới. Đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm kiếm các yếu tố liên quan đến con người, kỹ thuật và bối cảnh để chuẩn bị sẵn sàng cho việc học tập và làm việc để thích nghi với môi trường chuyển đổi số. Trong các nghiên cứu này, năng lực số được nhấn mạnh là một trong những yếu tố cạnh tranh chính cho nhân viên trong thị trường lao động trong tương lai (Grosheva & Bondarchuk, 2019). Việc sở hữu các năng lực kỹ thuật số giúp cá nhân đạt đến thành công trong học tập, nghiên cứu và phát triển sự nghiệp trong tương lai, như trong nghiên cứu của (Killen, 2018) đã chỉ ra: hầu hết mọi ngành nghề và mọi vị trí việc làm đều phải có khả năng sử dụng công nghệ. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã chứng kiến xu hướng các ngành công nghiệp số trở thành nhân tố then chốt của nền kinh tế, các cơ sở giáo dục trở thành những mô hình trường học số, trong môi trường ấy, người giảng viên và học viên phải là những người biết cách tận dụng các thế mạnh của công nghệ để thúc đẩy phát triển. Bài viết này hướng đến mục tiêu tổng hợp các khái niệm và các khung năng lực số phổ biến trên thế giới, từ đó bước đầu phác thảo các năng lực kỹ thuật số cần thiết để gợi mở hướng tiếp cận trong phát triển khung năng lực số cho người lao động đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động quá trình chuyển đổi số. 2. Cơ sở lý thuyết liên quan 2.1. Các khái niệm về năng lực số Khái niệm năng lực kỹ thuật số có thể được định nghĩa là một tập hợp các khả năng sử dụng công nghệ một cách hiệu quả để tối ưu hóa cuộc sống hàng ngày của chúng ta (Ferrari & Punie, 2013), nó còn được hiểu là “việc sử dụng một cách tự tin, phê bình và có trách nhiệm các công nghệ từ xã hội thông tin cho công việc, giải trí và giáo dục” (Redecker, 2017). Vào năm 2018, nhóm nghiên cứu thuộc United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization (UNESCO) đã tiến hành nghiên cứu và đối sánh các năng lực số từ 47 các quốc gia, khu vực khác nhau trên thế giới nhằm xây dựng khung năng lực số toàn cầu (Digital Literacy Global Framework – DLGF). Nhóm này đã định nghĩa năng lực số năng lực số là khả năng truy cập, quản lý, hiểu, kết hợp, giao tiếp, đánh giá và sáng tạo thông tin một cách an toàn và phù hợp thông qua công nghệ số để phục vụ cho các công việc từ đơn giản đến phức tạp cũng như khởi nghiệp. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả chỉ ra năng lực số là sự tổng hợp của các năng lực sử dụng máy tính, năng lực công nghệ thông tin, năng lực về thông tin và năng lực truyền thông (Law và cộng sự, 2018). Tại Việt Nam, các tác giả Tấn và Marquet (2018) mô tả năng lực số là khả năng sử dụng vững vàng và có ý thức các công cụ của xã hội thông tin trong công việc, giải trí và giao tiếp. Trong đó yếu tố tiên quyết là khả năng làm chủ các phương tiện công nghệ truyền
  3. 126 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC thông: sử dụng máy tính để tìm kiếm, đánh giá, lưu trữ, tạo lập, giới thiệu và trao đổi thông tin, cũng như để giao tiếp và tham gia các mạng lưới hợp tác thông qua Internet. Trong khi đó, các tác giả trong nghiên cứu (Trần Đức Hòa & Đỗ Văn Hòa, 2021) cho rằng năng lực số là khả năng truy cập, quản trị, thấu hiểu, kết hợp, giao tiếp, đánh giá và sáng tạo thông tin một cách an toàn và phù hợp thông qua công nghệ số để phục vụ cho thị trường lao động phổ thông, các công việc cao cấp và khởi nghiệp kinh doanh. 2.2. Các yếu tố cấu thành năng lực số Các nghiên cứu đã đưa ra các yếu tố khác nhau cấu thành năng lực số. Như trong nghiên cứu của (Sánchez-Caballé và cộng sự, 2020) đã tổng hợp các nhóm kỹ năng cơ bản của năng lực số bao gồm: (1) Các kỹ năng thông tin (Information skills): khả năng tìm kiếm, phân loại, lưu trữ, bảo mật và các hiểu biết về thông tin; (2) Kỹ năng sáng tạo nội dung số/ truyền thông (Content creation/media skills): khả năng tạo ra các nội dung số với nhiều định dạng khác nhau như hình ảnh, âm thanh, văn bản; (3) Kỹ năng giao tiếp (Communication): khả năng tương tác thông qua các nền tảng trực tuyến cũng như khả năng cộng tác; (4) Kỹ năng công nghệ (Technical skills), đề cập đến khả năng truy cập các công cụ kỹ thuật số và kiến thức kỹ thuật cần thiết để sử dụng chúng; (5) Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving) mà nguồn gốc các vấn đề này xuất phát từ việc sử dụng các công cụ kỹ thuật số hoặc các vấn đề phát sinh như liên quan đến việc sử dụng; (6) Các vấn đề đạo đức (Ethical skills) khi sử dụng công nghệ; (7) Kỹ năng chiến lược (Strategic skills): khả năng sử dụng các kỹ năng số khác đã đề cập ở trên để thành công trong nghề nghiệp và cuộc sống. Tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu (Tấn & Marquet, 2018) đã đề xuất một mô hình năng lực số sơ thảo với 3 nhân tố là: 1) Định vị thông tin; 2) Thủ đắc thông tin; 3) Hiệu dụng thông tin và 8 thành tố bao gồm: 1) Xác định nhu cầu thông tin khi gặp vấn đề cần giải quyết; 2) Xác định phạm vi và tính phù hợp của nguồn thông tin; 3) Chọn phương pháp và công cụ tìm kiếm thông tin thích hợp; 4) Đánh giá, chọn lọc các thông tin tìm kiếm được; 5) Tổ chức, quản lí các thông tin thu thập được một cách khoa học; 6) Sử dụng hiệu quả các thông tin đã tìm thấy, sắp xếp và lưu trữ; 7) Sử dụng các công cụ trên máy tính để làm việc nhóm; 8) Soạn thảo tài liệu, trình bày ý tưởng dưới dạng nói hay viết. Trong một nghiên cứu gần đây (Trần Đức Hòa & Đỗ Văn Hòa, 2021), nhóm tác giả đã đề xuất một mô hình các kỹ năng để phát triển năng lực số: 1) Vận hành thiết bị và phần mềm; 2) Khai thác thông tin và dữ liệu; 3) Giao tiếp và hợp tác trong môi trường số; 4) An
  4. CHUYỂN ĐỔI SỐ: XU HƯỚNG VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ 127 toàn và an sinh số; 5) Sáng tạo nội dung số; 6) Học tập và phát triển kỹ năng số; 7) Sử dụng năng lực số cho nghề nghiệp. 3. Phương pháp nghiên cứu Bài viết này áp dụng chủ yếu phương pháp phương pháp phân tích theo chủ đề linh hoạt (Reflexive thematic analysis) do Braun và Clarke đề xuất (Braun & Clarke, 2012). Phương pháp này bao gồm sáu giai đoạn: (1) Làm quen với dữ liệu (data familiarization), (2) Mã hóa các thông tin (generating codes), (3) Tạo chủ đề (generating themes), (4) Đánh giá các chủ đề (reviewing potential themes), (5) xác định và đặt tên các chủ đề (defining and naming themes), và (6) Viết báo cáo (producing the report). Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, các giai đoạn mã hóa thông tin và tạo chủ đề được sự hỗ trợ bởi bộ công cụ Mallet: Machine Learning For Language Toolkit (Mallet, n.d.). Trong đó nguồn dữ liệu phục vụ nghiên cứu dựa vào các nguồn thông tin khác nhau như bài báo nghiên cứu, báo cáo nghiên cứu, chuyên khảo khoa học, sổ tay hướng dẫn thực hành ứng dụng, tài liệu mô tả tiêu chuẩn năng lực công nghệ số của các tổ chức quốc tế có uy tín. 1.Làm quen 1.Mã hóa các 1.Tạo chủ đề với dữ liệu thông tin Xác định và Đánh giá các Viết báo cáo đặt tên các chủ đề chủ đề Hình 1. Tóm tắt các bước thực hiện nghiên cứu, nguồn tổng hợp từ Nguồn: Braun & Clarke, 2012 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Các khung năng lực số phổ biến trên thế giới 4.1.1. Khung năng lực số châu Âu (European Digital Competence Framework for Citizens – DigComp) Xuất bản lần đầu vào năm 2013, DigComp đã trở thành một tài liệu tham chiếu cho việc xây dựng các chiến lược liên quan đến năng lực số tại châu Âu (Ferrari & Punie, 2013). Tháng 6/2016, phiên bản 2.0 được công bố, trong bản này nó cập nhật các thuật ngữ và mô hình khái niệm, cũng như trình bày các ví dụ triển khai của nó ở mức châu Âu, quốc gia và khu vực. Đến năm 2017, phiên bản DigComp 2.1 được xuất bản và nó tập trung vào mô tả 8 mức thông thạo chi tiết cũng như cung cấp các ví dụ sử dụng cho 8 mức thông thạo đó
  5. 128 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC (Carretero Gomez và cộng sự, 2017, p. 1). Phiên bản DigComp 2.1 có 21 năng lực được tổ chức theo 5 lĩnh vực gồm: 1) Năng lực về thông tin và dữ liệu (information and data literacy): Khả năng xác định rõ nhu cầu thông tin, vị trí và cách truy xuất dữ liệu, thông tin; đánh giá mức độ liên quan của giữa nội dung và nguồn thông tin; lưu trữ, quản lý và sắp xếp dữ liệu, thông tin và nội dung kỹ thuật số. 2) Giao tiếp và cộng tác (communication and collaboration): Khả năng tương tác, giao tiếp và hợp tác thông qua các công nghệ kỹ thuật số đồng thời nhận thức được sự đa dạng về văn hóa và thế hệ; tham gia vào cộng đồng thông qua các dịch vụ kỹ thuật số; khả năng quản lý định danh số và danh tiếng kỹ thuật số của cá nhân. 3) Sáng tạo nội dung số (digital content creation): Khả năng tạo và chỉnh sửa nội dung kỹ thuật số; cải thiện và tích hợp thông tin và nội dung vào khối kiến thức hiện có; có hiểu biết về bản quyền và giấy phép xuất bản; biết cách đưa ra các chỉ dẫn để hệ thống máy tính hoạt động. 4) An toàn (Safety): khả năng bảo vệ thiết bị, nội dung, dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong môi trường kỹ thuật số; bảo vệ sức khỏe thể chất và tinh thần, đồng thời có nhận thức về công nghệ kỹ thuật số vì lợi ích và hòa nhập xã hội. Nhận thức về tác động lên môi trường của công nghệ kỹ thuật số và việc sử dụng các công nghệ này. 5) Giải quyết vấn đề (problem solving): Khả năng xác định các vấn đề và nhu cầu giải quyết chúng, đồng thời giải quyết các vấn đề trong môi trường kỹ thuật số. Sử dụng các công cụ kỹ thuật số để đổi mới quy trình và sản phẩm; luôn cập nhật với sự tiến hóa kỹ thuật số. 4.1.2. Khung năng lực số UNESCO (Digital Literacy Global Framework – DLGF) Vào năm 2018, UNESCO đã khảo sát khung năng lực số tại 47 quốc gia, từ đó đối sánh với khung DigComp 2.0 của châu Âu (Law và cộng sự, 2018). Từ kết quả khảo sát này, UNESCO đã đề xuất một phiên bản khung năng lực số toàn cầu (Digital Literacy Global Framework - DLGF) dựa trên khung năng lực số DigComp và bổ sung thêm 2 nhóm năng lực liên quan đến vận hành các thiết bị và phần mềm và Năng lực liên quan đến nghề nghiệp. Khung năng lực UNESCO bao gồm các nhóm năng lực như sau: 1) Năng lực vận hành các thiết bị và phần mềm (Devices and software operations): Khả năng nhận dạng và sử dụng các công cụ và công nghệ phần cứng. Khả năng xác định dữ liệu, thông tin và nội dung kỹ thuật số cần thiết để vận hành các công cụ và công nghệ phần mềm 2) Năng lực về thông tin và dữ liệu (information and data literacy).
  6. CHUYỂN ĐỔI SỐ: XU HƯỚNG VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ 129 3) Giao tiếp và cộng tác (communication and collaboration). 4) Sáng tạo nội dung số (digital content creation). 5) Năng lực về an toàn (safety). 6) Năng lực giải quyết vấn đề (problem solving). 7) Năng lực liên quan đến nghề nghiệp (Career-related competences): Khả năng vận hành các công nghệ kỹ thuật số chuyên môn để hiểu, phân tích, đánh giá dữ liệu, thông tin trong một lĩnh vực cụ thể. 4.1.3. Khung năng lực số của Hội đồng Thủ thư Đại học Úc (Council of Australian University Librarians – CAUL) Hội đồng Thủ thư Đại học Úc đã đưa ra một khung năng lực số, phác thảo các kỹ năng và năng lực mà sinh viên sẽ cần để thành công trong lực lượng lao động trong tương lai (Digital Dexterity Framework, 2018). Khung năng lực số của CAUL bao gồm các nhóm năng lực như sau: 1) Khả năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông; 2) Học tập và phát triển kỹ năng số; 3) Sáng tạo nội dung số, giải quyết vấn đề, đổi mới; 4) Hợp tác, truyền thông và hội nhập; 5) Năng lực thông tin, năng lực truyền thông, và năng lực về dữ liệu; 6) Năng lực về định danh kỹ thuật số và an toàn. 4.1.4. Khung năng lực số của British Columbia Đây là khung năng lực được xây dựng dựa trên sáu đặc trưng được xác định bởi các nhà lãnh nhà lãnh đạo giáo dục của British Columbia – Canada. Những đặc trưng này dựa trên các tiêu chuẩn của Tiêu chuẩn Công nghệ Giáo dục Quốc gia dành cho Sinh viên (National Educations Technology Standards for Students – NETS • S) do Hiệp hội Công nghệ Giáo dục Quốc tế ( International Society for Technology in Education - ISTE) phát triển và bao gồm các loại kiến thức và kỹ năng mà người học cần để thành công trong thế kỷ XXI (Care, n.d.). Các nội dung trong Khung năng lực số từ British Columbia gồm: 1) Khả năng về nghiên cứu và thông tin (Research and Information Literacy): khả năng sử dụng các công cụ để thu thập, đánh giá và xử lý thông tin. 2) Tư duy phản biện, giải quyết vấn đề và ra quyết định (Critical Thinking, Problem Solving, and Decision Making): khả năng sử dụng các kỹ năng tư duy phản biện để lập kế hoạch và thực hiện nghiên cứu, quản lý dự án, giải quyết vấn đề và đưa
  7. 130 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC ra các quyết định sáng suốt bằng cách sử dụng các công cụ và tài nguyên kỹ thuật số phù hợp. 3) Sáng tạo và đổi mới (Creativity and Innovation): khả năng thể hiện tư duy sáng tạo, xây dựng khung kiến thức, phát triển các sản phẩm cải tiến và quy trình bằng cách sử dụng công nghệ kỹ thuật số. 4) Công dân số (Digital Citizenship): thấu hiểu các vấn đề về con người, văn hoá, xã hội liên quan đến công nghệ và khả năng thực hiện các hành vi hợp pháp và đạo đức. 5) Giao tiếp và cộng tác (communication and collaboration): khả năng sử dụng các phương tiện và môi trường kỹ thuật số để giao tiếp và cộng tác; hỗ trợ việc học của cá nhân cũng như đóng góp vào việc học của những người khác. 6) Khái niệm và hoạt động công nghệ (Technology Operations and Concepts): Khả năng thể hiện sự hiểu biết về các khái niệm, hệ thống và hoạt động công nghệ. 4.2. Khung năng lực số tại Việt Nam Theo nghiên cứu của UNESCO (Law và cộng sự, 2018), tại Việt Nam hiện đang có 3 khung năng lực số được phát triển bởi các tổ chức quốc tế là International Computer Drivers Licence (ICDL), Certiport Internet and Computing Core Certification(IC³), và Digital Literacy Standard Curriculum (DLSC) của Microsoft. Theo các nghiên cứu gần đây (Tấn & Marquet, 2018; Trần Đức Hòa & Đỗ Văn Hòa, 2021) cho rằng các khung này không còn phù hợp bối cảnh hiện nay vì các khung này chỉ tập trung mô tả sự thực hành từ cấp độ cơ bản đến trung cấp, chưa thể hiện được các hoạt động phức tạp về mặt nhận thức. Hơn nữa, các khung năng lực này chỉ mang tính định hướng công cụ, và đặc biệt tập trung vào các thao tác trên máy tính để bàn và máy tính xách tay trong khi hiện nay tỷ lệ cá nhân có xu hướng sử dụng thiết bị di động để kết nối Internet là rất cao, như theo báo cáo của Appota vào năm 2021, có 70% người dân Việt Nam kết nối Internet, trong đó 95% số người dân kết nối thông qua thiết bị di động. Dựa trên các khung năng lực số trên, năm 2014 Bộ Thông tin và truyền thông đã ban hành bộ chuẩn kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin (CNTT) của Việt Nam, được áp dụng cho tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia trực tiếp hoặc có liên quan đến hoạt động đánh giá kĩ năng sử dụng CNTT trong cả nước. Bộ chuẩn này gồm: Chuẩn kỹ năng sử dụng CNTT cơ bản (6 mô đun) và Chuẩn kỹ năng sử dụng CNTT nâng cao (9 mô đun). 4.3. Các thách thức trong đánh giá năng lực số Hiện nay các cơ quan chính phủ, các tổ chức quốc tế, hoặc doanh nghiệp phát triển đã đưa ra rất nhiều khung năng lực số cũng như các công cụ và phương pháp nhằm mục tiêu đánh giá các năng lực số này. Theo nghiên cứu của (Law và cộng sự, 2018) thì việc đánh giá các năng lực số có thể tham chiếu đến khung năng lực DigComp. Theo đó, Carretero
  8. CHUYỂN ĐỔI SỐ: XU HƯỚNG VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ 131 và cộng sự (2017) đã tiến hành phân tích toàn diện 22 năng lực và xếp chúng vào ba nhóm chính: đánh giá hiệu suất (performance assessment), đánh giá dựa trên kiến thức ​​ (knowledge-based assessment) và tự đánh giá (self-assessment). Đánh giá hiệu suất yêu cầu cá nhân giải quyết các vấn đề trong thực tiễn bằng cách sử dụng các công cụ phần mềm phổ biến, trong khi đó đánh giá dựa trên kiến ​​thức yêu cầu cá nhân giải thích cách họ sẽ thực hiện các nhiệm vụ nhất định. Tự đánh giá là những đánh giá chủ quan về năng lực của bản thân và có thể không thực sự phản ánh năng lực của người đó trong các tình huống thực tế. Tuy nhiên, việc đưa ra một bài kiểm tra hợp lệ và đáng tin cậy về mặt khoa học để đo lường các năng lực số DigComp dựa trên 8 cấp độ thành thạo là khá khó khăn do mỗi năng lực có một cấu trúc riêng biệt để được đánh giá một cách độc lập. Bên cạnh đó, hầu hết các khung năng lực số hiện tại (ngoại trừ DigComp) không quy định rõ mức độ thành thạo và do đó không đưa ra ngưỡng tối thiểu để đạt yêu cầu cho một năng lực cụ thể. Chính vì thế, việc đưa ra các mô tả mức độ thành thạo cho các khung năng lực số hiện nay là một vấn đề cần sự quan tâm nghiên cứu của các bên liên quan. 5. Sơ thảo các năng lực số cần thiết cho Từ các kết quả phân tích ở trên, chúng tôi xin sơ thảo một số năng lực số như sau: STT Nhóm năng lực Các năng lực cụ thể 1. Năng lực về thông tin, dữ liệu – Khả năng tìm kiếm, chọn lọc, đánh giá dữ liệu, thông tin và nội dung kỹ thuật số – Khả năng quản lý, phân phối lại thông tin – Khả năng tạo lập nội dung số – Khả năng đổi mới, sáng tạo sử dụng công cụ kỹ thuật số – Khả năng vận hành thiết bị, phần mềm, dịch vụ công trực tuyến 2. Năng lực về đạo đức trong thế – Năng lực giao tiếp đúng hoặc được chấp nhận trên giới số internet (Netiquette) – Hiểu rõ về giấy phép và bản quyền số 3. Tương tác, giao tiếp cộng tác – Tương tác, giao tiếp qua mạng internet thông qua công nghệ số – Khả năng cộng tác trong công việc thông qua các nền tảng số 4. An toàn trên không gian số – Năng lực quản lý định danh số – Bảo vệ sức khỏe tinh thần – Khả năng bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư – Bảo quản thiết bị
  9. 132 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC STT Nhóm năng lực Các năng lực cụ thể 5. Năng lực liên quan đến – Giải quyết các vấn đề kỹ thuật nghề nghiệp – Vận hành các công nghệ số đặc thù – Hiểu, phân tích và đánh giá dữ liệu thông tin và nội dung số 6. Học tập trong môi trường số – Khả năng nhận dạng và sử dụng tài nguyên số phục vụ cho học tập – Ứng dụng công nghệ để sắp xếp, lập kế hoạch và phân tích quá trình học tập, theo dõi tiến trình học tập cá nhân, quản lý thời gian và công việc 6. Kết luận Trong quá trình chuyển đổi số hiện nay đòi hỏi Việt Nam phải chuẩn bị một nguồn nhân lực có năng lực số tương xứng để thích ứng và làm chủ công nghệ trong các lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội nhằm giúp việc chuyển đổi số. Việc nghiên cứu khung năng lực số và xây dựng và tích hợp năng lực số vào chương trình đào tạo cho sinh viên nói riêng và người lao động nói chung là một nhu cầu cấp thiết đối với giáo dục đại học Việt Nam. Nghiên cứu này đã khảo sát các khái niệm và cấu trúc của năng lực số cũng như các khung năng lực số phổ biến trên thế giới từ đó phác thảo các năng lực kỹ thuật số cần thiết trong kỷ nguyên công nghệ. Đây là bước đầu tiên của tiến trình đào tạo nhân lực số – làm rõ nội hàm cũng như các thành phần của thành phần của năng lực số. Các nghiên cứu tiếp theo sẽ tập trung vào việc đưa ra một khung năng lực số chi tiết để làm cơ sở đề xuất các chương trình đào tạo năng lực số tích hợp tại Việt Nam. Tài liệu tham khảo Braun, V., & Clarke, V. (2012). Thematic analysis. American Psychological Association. Care, M. of E. and C. (n.d.). Digital Literacy—Province of British Columbia. Province of British Columbia. https://www2.gov.bc.ca/gov/content/education-training/k-12/teach/resources- for-teachers/digital-literacy Grosheva, P. Y., & Bondarchuk, N. V. (2019). Digital Competence as a Measure of Employee Competitiveness in the Labor Market of the Cyber Economy.  The Cyber Economy: Opportunities and Challenges for Artificial Intelligence in the Digital Workplace, 143-150. https://doi.org/10.1007/978-3-030-31566-5_15 Law, N., Woo, D., & Wong, G. (2018). A Global Framework of Reference on Digital Literacy Skills for Indicator 4.4.2 (p. 146). UNESCO. Mallet: MAchine Learning for LanguagE Toolkit. (n.d.). Mallet. Retrieved July 20, 2022, from https://mimno.github.io/Mallet/
  10. CHUYỂN ĐỔI SỐ: XU HƯỚNG VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ 133 Tấn, Đ. N., & Marquet, P. (2018). Năng lực công nghệ số đáp ứng nhu cầu xã hội: Các mô hình quốc tế và hướng tiếp cận tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học Xã hội TPHCM, 244(12), 23-39. Trần Đức Hòa, Đỗ Văn Hòa (2021). Khung năng lực số cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số. Carretero Gomez, S., Vuorikari, R., & Punie, Y. (2017, May 3). DigComp 2.1: The Digital Competence Framework for Citizens with eight proficiency levels and examples of use. JRC Publications Repository. https://doi.org/10.2760/38842 Digital Dexterity Framework (2018, March 16). CAUL. https://www.caul.edu.au/digital-dexterity- framework Ferrari, A., & Punie, Y. (2013). DIGCOMP: A framework for developing and understanding digital competence in Europe. Publications Office of the European Union Luxembourg. Killen, C. (2018). Collaboration and Coaching: Powerful Strategies for Developing Digital Capabilities. In J. Parker & K. Reedy (Eds.), Digital Literacy Unpacked (pp. 29–44). Facet. https://doi.org/10.29085/9781783301997.005 Kitchenham, B. (2004). Procedures for performing systematic reviews. Keele, UK, Keele University, 33(2004), 1–26. Law, N. W. Y., Woo, D. J., de la Torre, J., & Wong, K. W. G. (2018). A global framework of reference on digital literacy skills for indicator 4.4. 2. UNESCO. Redecker, C. (2017). European Framework for the Digital Competence of Educators: DigCompEdu. In JRC Working Papers (No. JRC107466; JRC Working Papers). Joint Research Centre (Seville site). https://ideas.repec.org/p/ipt/iptwpa/jrc107466.html Sánchez-Caballé, A., Gisbert Cervera, M., & Esteve-Mon, F. M. (2020). The digital competence of university students: A systematic literature review. http://repositori.uji.es/xmlui/ handle/10234/191134
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2