Hội thảo Khoa học Quốc tế ...<br />
<br />
NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN<br />
Ý ĐỊNH KHỞI SỰ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI<br />
CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC CẦN THƠ<br />
Lưu Tiến Thuận1 và Bùi Thị Trúc Đào2<br />
TÓM LƯỢC<br />
Bài nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự doanh<br />
nghiệp xã hội (DNXH) của sinh viên Đại học Cần Thơ (ĐHCT) qua việc chọn mẫu thuận tiện và<br />
phỏng vấn 225 sinh viên khóa 41, 40 (năm ba và năm tư) đại học chính quy trường ĐHCT. Các<br />
phương pháp kiểm định Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá và hồi quy đa biến được sử<br />
dụng trong nghiên cứu này. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, có 4 yếu tố tác động đến ý định khởi<br />
sự DNXH của sinh viên ĐHCT, lần lượt là: sự tự tin và chấp nhận rủi ro; nghĩa vụ đạo đức; nhận<br />
thức hành vi; và chính sách Nhà nước. Hàm ý của nghiên cứu này được mong đợi là đóng góp vào<br />
việc cải tiến chương trình khởi sự DNXH và chính sách của chính phủ.<br />
Từ khóa: doanh nghiệp xã hội, Đại học Cần Thơ, sinh viên, ý định khởi sự.<br />
<br />
STUDY THE FACTORS AFFECTING THE INTENTION OF SOCIAL<br />
ENTREPRENEURSHIP OF STUDENTS CANTHO UNIVERSITY<br />
ABSTRACT<br />
The study aims to determine the factors that influence the intention to start-up social entreprise<br />
of students at Can Tho University (CTU) by conducting a survey with 225 students of the course 41,<br />
40 (third and fourth year) of CTU through convenience sampling method. The cronbach alpha test,<br />
exploratory factor analysis and linear regression analysis methods were used in this study. The<br />
results showed that there are four factors affecting intention to start-up social entreprise of students<br />
at CTU including: confidence and risk acceptance; moral obligation; perceived behavioral; and<br />
government policies. Some recommendations to enhance social business initiatives of students<br />
were porposed, including particularly those on education progam and goverment policies.<br />
Key words: social enterprise, Can Tho University, student, intention to start-up<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Trong hai thập kỷ qua, thị trường kinh tế tự do đã lan rộng toàn cầu nhưng vẫn không thể giải<br />
quyết được những vấn đề như bất bình đẳng và nghèo đói. Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn<br />
của cuộc sống một hình thức tổ chức kinh tế mới – Doanh nghiệp xã hội (DNXH) - nơi mà tầm nhìn<br />
sáng tạo của doanh nhân xã hội được áp dụng cho những vấn đề nghiêm trọng nhất hiện nay: việc<br />
làm cho người thất nghiệp, nâng cao mức sống cho người nghèo, nhà ở cho người vô gia cư, chữa<br />
bệnh và bảo vệ môi trường,...Tại nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến, nền kinh tế phát triển trong<br />
khu vực và trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Singapore thì mô hình DNXH được khuyến khích<br />
thành lập và phát triển rất sớm, đồng thời nhận được nhiều hỗ trợ từ Chính phủ và các tổ chức phi<br />
lợi nhuận quốc tế. Trong khi bối cảnh kinh tế Việt Nam khó khăn, ước tính dân số thuộc nhóm “Đáy<br />
Kim Tự tháp” (BoP) chiếm khoảng một nửa dân số thì mô hình DNXH cần được đặc biệt chú trọng<br />
1 Tiến sĩ, Khoa kinh tế, ĐH Cần Thơ<br />
2 Sinh viên, Khoa kinh tế, ĐH Cần Thơ<br />
57<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
phát triển hơn như một giải pháp tích cực trong việc hạn chế các vấn đề xã hội. Nhiều năm gần đây,<br />
Chính phủ Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của việc định hướng tinh thần doanh nhân cho<br />
sinh viên và giới trẻ, hàng loạt những chương trình hỗ trợ, chính sách khuyến khích khởi nghiệp<br />
ra đời nhưng định hướng về DNXH, tinh thần doanh nhân xã hội vẫn còn nhiều hạn chế và những<br />
nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam còn khan hiếm. Thành phố Cần Thơ (TPCT) là trung tâm kinh<br />
tế của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trung tâm khởi sự doanh nghiệp quan trọng của cả nước<br />
cùng với Trường Đại học Cần Thơ (ĐHCT), cơ sở đào tạo đại học nổi tiếng của vùng. Nhiều năm<br />
qua, hoạt động khởi sự doanh nghiệp ở TPCT chung và trường ĐHCT nói riêng rất phát triển thể<br />
hiện qua các hoạt động vườn ươm doanh nghiệp, các câu lạc bộ khởi nghiệp, và câu lạc bộ doanh<br />
nhân trẻ. Nhưng thực tế cho thấy, mô hình DNXH vẫn chưa được triển khai rộng rãi, thậm chí rất<br />
nhiều người không biết về mô hình này. Theo khảo sát của Hội đồng Anh, ước tính đến năm 2014<br />
Việt Nam có 211 DNXH hoạt động, chưa kể có khoảng 165.000 các tổ chức khác có một số đặc tính<br />
hoạt động như DNXH. Điều đáng chú ý trong khảo sát là yếu tố giáo dục có ảnh hưởng đến hành<br />
động khởi sự DNXH. Tuy nhiên thực tế cho đến nay, kiến thức liên quan về DNXH vẫn chưa được<br />
đưa vào chương trình đào tạo, hiểu biết về DNXH đối với sinh viên vẫn còn nhiều hạn chế, thậm<br />
chí là lần đầu tiên được nghe.<br />
Từ thực trạng đã nêu, câu hỏi được đặt ra đâu là nguyên nhân khởi sự DNXH, nhân tố nào ảnh<br />
hưởng đến ý định khởi sự DNXH, các trường đại học, gia đình và xã hội cần làm gì để sinh viên có<br />
thêm kiến thức, động lực, đam mê, niềm tin để khởi sự DNXH. Mặc dù có nhiều nghiên cứu về ý định<br />
khởi sự DNXH ở các nước trên thế giới, nhưng một mô hình nghiên cứu lý thuyết chuẩn tìm được<br />
sự đồng thuận của cộng đồng nghiên cứu khoa học là chưa tồn tại, dữ liệu minh chứng cho mô hình<br />
nghiên cứu lý thuyết được điều tra ở Việt Nam là khan hiếm. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này<br />
nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự DNXH từ đó đưa ra một số hàm ý quản trị<br />
nhằm nâng cao tinh thần khởi sự DNXH trong sinh viên. Bài nghiên cứu kỳ vọng đóng góp và làm<br />
giàu lý thuyết và thực tiển về ý định khởi sự và DNXH. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu là căn cứ khoa<br />
học để các công ty, các trường, các học viện, các cơ sở đào tạo về lĩnh vực đào tạo khởi nghiệp, cũng<br />
như các nhà hoạch định chính sách tham khảo và hỗ trợ phát triển DNXH nhằm khơi dậy tinh thần<br />
doanh nhân xã hội và nâng cao vai trò đóng góp của DNXH vào sự phát triển chung của xã hội.<br />
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
2.1 Cơ sở lí luận và mô hình nghiên cứu<br />
Khái niệm ý định được hiểu là khả năng, là kế hoạch được xác định bởi một người để thực<br />
hiện hành vi nào đó trong bối cảnh nhất định. Ý định là động lực chính dẫn đến hành vi (Ajzen và<br />
Fishbein, 1975). Khởi sự kinh doanh theo nghĩa tiếng Việt là việc bắt đầu tạo lập một công việc<br />
kinh doanh mới. Trong lĩnh vực kinh tế và quản trị kinh doanh, khởi sự kinh doanh gắn liền với<br />
thuật ngữ “tinh thần doanh nhân – entrepreneurship”. Theo các cơ quan chính phủ ở châu Á thì<br />
“Doanh nghiệp xã hội là doanh nghiệp được thành lập nhằm tạo cơ hội đào tạo và việc làm cho<br />
các đối tượng yếu thế”. DNXH theo pháp luật Việt Nam, Luật Doanh nghiệp năm 2014 không đưa<br />
ra định nghĩa về DNXH nhưng có các tiêu chí để xác định DNXH tại Điều 10. Theo đó, DNXH<br />
là doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp, với mục đích hoạt động nhằm giải quyết<br />
vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng, trong đó sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng<br />
năm để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường. DNXH (có lợi nhuận và không có<br />
lợi nhuận) giống với các doanh nghiệp khác vì đều tổ chức và quản lý dưới hình thức doanh nghiệp.<br />
Tuy nhiên, DNXH được thành lập để giải quyết các vấn đề tồn tại của xã hội (như đói nghèo, nước<br />
sạch, ô nhiễm môi trường, bảo vệ trẻ em, v.v…). DNXH đo thành công của mình thông qua những<br />
thay đổi/tác động xã hội mà nó mang lại.<br />
Những nghiên cứu trước đây cho thấy có rất nhiều yếu tố tác động đến ý định khởi sự DNXH.<br />
58<br />
<br />
Hội thảo Khoa học Quốc tế ...<br />
Theo Preeti Tiwari et al., (2017), trí tuệ cảm xúc, tính sáng tạo và nghĩa vụ đạo đức có ảnh hưởng<br />
quan trọng đối với ý định của sinh viên lựa chọn kinh doanh xã hội. Bên cạnh đó các quy chuẩn<br />
chủ quan, nhận thức về kiểm soát hành vi và thái độ trở thành một Doanh nhân xã hội cũng có tác<br />
động tích cực đối với các ý định kinh doanh xã hội. Mair và Noboa (2006) đã chỉ ra ý định khởi sự<br />
DNXH bắt đầu từ nhận thức về đạo đức tới sự đồng cảm chính đáng. Họ cho rằng yếu tố đạo đức<br />
là yếu tố then chốt để phân biệt các Doanh nhân xã hội từ các doanh nhân kinh doanh. Nghiên cứu<br />
của Hockerts (2017) dựa trên mô hình đề xuất của Mair and Noboa (2006) phát hiện kinh nghiệm<br />
trước đó tiên đoán được ý định kinh doanh xã hội. Tính tự chủ DNXH có tác động lớn nhất đến<br />
các ý định cũng như tự đáp ứng tốt nhất đến kinh nghiệm trước đây. Các yếu tố nghĩa vụ đạo đức,<br />
sự thấu cảm và hỗ trợ xã hội, các dịch vụ học tập trong các tổ chức xã hội sẽ có xu hướng thúc đẩy<br />
các ý định kinh doanh xã hội. Trong mô hình “Lý thuyết về hành vi kế hoạch” của Ajzen (1991)<br />
chứng minh rằng, các ý định để thực hiện các hành vi khác nhau có thể được dự đoán với độ chính<br />
xác cao từ thái độ đối với hành vi, các chỉ tiêu chủ quan và kiểm soát hành vi nhận thức. Và những<br />
ý định này, cùng với nhận thức về kiểm soát hành vi đã tạo ra sự khác biệt đáng kể trong hành vi<br />
thực tế. Trên cơ sở kế thừa từ các nghiên cứu trước, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu gồm 4 yếu<br />
tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự DNXH của sinh viên gồm: thái độ đối với hành vi, nhận thức hành<br />
vi, hỗ trợ xã hội, hoàn cảnh gia đình; biến Ý định và biến điều khiển (hình 1).<br />
Dựa trên lược khảo tài liệu và cơ sở lý thuyết qua các nghiên cứu của Ajzen (1991), Preeti<br />
Tiwari et al. (2017), Driessen and Zwart (2007), Hockerts (2017), Wongnaa và Seyram (2014),<br />
Souitaris et al. (2007), Phan Anh Tú và Giang Thị Cẩm Tiên (2015), Nguyễn Thu Thủy (2015) bộ<br />
tiêu chí đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự DNXH của sinh viên ĐHCT gồm 30<br />
biến quan sát, bao gồm thái độ đối với hành vi (8 biến quan sát), nhận thức hành vi (7 biến quan<br />
sát), hỗ trợ xã hội (7 biến quan sát), hoàn cảnh gia đình (4 biến quan sát), Thang đo “Ý định khởi<br />
sự doanh nghiệp” dựa vào thang đo của Linãn và cộng sự (2005) và Hockerts (2017) gồm 4 biến<br />
quan sát. Thang đo Likert 7 mức độ được sử dụng để đánh giá 1 là “Hoàn toàn rất không đồng ý”<br />
cho đến 7 là “Hoàn toàn rất đồng ý”.<br />
<br />
Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất<br />
59<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
2.2 Phương pháp thu thập số liệu<br />
Số liệu thứ cấp được thu thập từ các tạp chí khoa học, các báo cáo liên quan trong và ngoài<br />
nước. Số liệu sơ cấp thu thập bằng cách phỏng vấn sinh viên khóa 40, 41 trường ĐHCT. Theo Hair<br />
và cộng sự (1998), dựa vào số lượng các biến đo lường để xác định kích thước mẫu. Kích thước<br />
mẫu tối thiểu cần phải từ 50 trở lên và tỉ lệ quan sát/biến đo lường là 5:1. Nghiên cứu này bao gồm<br />
30 biến quan sát, do đó số quan sát tối thiểu của nghiên cứu là 150. Do bài nghiên cứu chọn mẫu<br />
thuận tiện nên số quan sát thực tế là 225, đảm bảo số mẫu để thực hiện tốt nghiên cứu.<br />
2.3 Phương pháp phân tích dữ liệu<br />
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích thống kê mô tả để đánh giá thực trạng ý định khởi<br />
sự DNXH của sinh viên trường ĐHCT. Sử dụng hệ số Cronbach’s Alpha kiểm định sự phù hợp<br />
của thang đo. Phân tích nhân tố khám phá (EFA) được sử dụng để gom nhóm các biến và sử dụng<br />
mô hình hồi quy đa biến nhằm ước lượng và xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến đến<br />
ý định khởi sự DNXH của sinh viên trường ĐHCT. Bên cạnh đó bài nghiên cứu còn sử dụng phân<br />
tích ANOVA để kiểm định sự khác biệt của sinh viên đối với ý định khởi sự DNXH.<br />
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
3.1 Mô tả mẫu nghiên cứu<br />
Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn 48% là sinh viên nam và 52% là sinh viên nữ. Tỉ lệ nữ giới<br />
nhiều hơn nam giới phù hợp với thực tế tại trường ĐHCT là số lượng nữ sinh nhiều hơn nam sinh.<br />
Hơn 55% sinh viên sống ở khu vực nông thôn và gần 45% sống ở khu vực thành thị. Sinh viên năm<br />
3 chiếm tỉ lệ 60% và 40% là sinh viên năm 4. Có 30% sinh viên Kinh tế, 22% sinh viên Công nghệ,<br />
sinh viên khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng chiếm 26% và còn lại 22% sinh viên thuộc các<br />
khoa, viện khác của trường. Nhìn chung, số sinh viên có kinh nghiệm làm thêm nhiều khoảng gấp<br />
3 lần sinh viên không có làm thêm. Có hơn 91% sinh viên đã từng tham gia các hoạt động tình<br />
nguyện/ thiện nguyện. Qua đó cho thấy tinh thần tham gia các hoạt động thiện nguyện của sinh<br />
viên rất cao. Những gia đình đáp viên có kinh doanh, buôn bán chiếm tỷ lệ 52,4%. Trong số những<br />
đáp viên mà gia đình có kinh doanh, buôn bán khi được hỏi có thừa kế công việc kinh doanh của<br />
gia đình hay không thì có 88% đáp viên trả lời là “Không”, chỉ có 12,0% đáp viên trả lời là “Có”.<br />
Điều này cho thấy phần lớn đáp viên đều không muốn thừa kế công việc kinh doanh của gia đình,<br />
có thể họ muốn tự lập hoặc tự khởi nghiệp theo sở thích riêng của họ.<br />
3.2 Thực trạng chung về ý định khởi sự DNXH của sinh viên ĐHCT<br />
Thực trạng chung về ý định khởi sự DNXH của sinh viên ĐHCT từ kết quả khảo sát 225 đáp<br />
viên được trình bày ở bảng 1.<br />
Bảng 1: Thực trạng chung về ý định khởi sự DNXH<br />
Mô tả<br />
Khả năng khởi nghiệp của sinh viên:<br />
- <br />
Không khó cũng không dễ<br />
- <br />
Không dễ dàng<br />
Lí do quan trọng mà sinh viên cho rằng sẽ không khởi nghiệp:<br />
- <br />
Thiếu kỹ năng, kiến thức và kinh nghiệm<br />
- <br />
Thiếu vốn<br />
- <br />
Thiếu mối quan hệ<br />
<br />
60<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
48,0<br />
44,9<br />
30,2<br />
27,7<br />
18,1<br />
<br />
Hội thảo Khoa học Quốc tế ...<br />
- <br />
Không tự tin<br />
- <br />
Sợ thất bại<br />
Sinh viên có ý định khởi nghiệp thay vì đi làm công vì:<br />
- <br />
Muốn làm chủ<br />
- <br />
Nhận thấy có nhiều cơ hội và nắm bắt cơ hội<br />
- <br />
Sự ham muốn khởi nghiệp<br />
Người ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh viên:<br />
- <br />
Tự bản thân<br />
- <br />
Gia đình<br />
- <br />
Bạn bè<br />
- <br />
Giáo viên<br />
Trước khi đọc phiếu khảo sát có nghe về DNXH<br />
- <br />
Chưa từng nghe<br />
- <br />
Đã từng nghe<br />
<br />
13,3<br />
10,6<br />
42,3<br />
39,4<br />
15,1<br />
49,3<br />
31,3<br />
13,3<br />
4,1<br />
56,4<br />
43,6<br />
<br />
3.3 Kiểm định độ tin cậy thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha<br />
Thực hiện kiểm định độ tin cậy với 30 biến quan sát, kết quả đạt được có hệ số Cronbach’s<br />
Alpha từ 0,6 mới được xem là chấp nhận được. Bên cạnh đó, các biến có hệ số tương quan biến tổng<br />
nhỏ hơn 0,4 sẽ bị loại. Những mục hỏi có Cronbach’s Alpha nếu bỏ đi mục hỏi lớn hơn Cronbach’s<br />
Alpha chung sẽ bị loại bỏ (Nunally và et al., 1994). Như vậy trong quá trình kiểm định có 6 biến bị<br />
loại, 24 biến còn lại đạt độ tin cậy với hệ số Cronbach’s Alpha đều lớn hơn 0,787<br />
3.4 Phân tích nhân tố khám phá (EFA) các yếu tố ảnh hưởng tới ý định khởi sự DNXH của sinh viên<br />
Phân tích EFA với việc sử dụng phương pháp rút trích Principal Component và phép xoay<br />
Varimax cho 21 biến của mô hình. Kết quả của phân tích có hệ số KMO = 0,898 lớn hơn 0,5 và nhỏ<br />
hơn 1, chứng tỏ phân tích EFA là phù hợp. Trong kiểm định Barlett’s có sig = 0,000