JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0255<br />
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8D, pp. 56-62<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO NGÀNH CÔNG<br />
NGHỆ THÔNG TIN TRUYỀN THÔNG THEO XU HƯỚNG HỘI NHẬP<br />
<br />
<br />
<br />
Ngô Tứ Thành<br />
Viện Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội<br />
<br />
<br />
<br />
Tóm tắt. Đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội là nhiệm vụ quan trọng của mọi quốc gia. Đối<br />
với một nền kinh tế mới nổi như Việt Nam với nhiều ngành nghề mới ra đời và phát triển<br />
lại càng cần thiết hơn để cải tiến nhằm tạo ra một định hướng cho giáo dục và đào tạo. Nội<br />
dung bài viết này sẽ thảo luận về các biện pháp cải tiến trong đào tạo ngành công nghệ<br />
thông tin nhằm đáp ứng nhu cầu của ngành công nghiệp cao này. Những biện pháp này bao<br />
gồm những cải tiến trong môi trường giảng dạy, môi trường học tập, và trong môi trường<br />
lớp học; trong đó tập trung vào các môi trường giảng dạy (xây dựng chương trình).<br />
Từ khóa: Đào tạo, cải tiến, công nghệ thông tin, môi trường dạy học.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Ngày 22/9/2010, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chính thức phê duyệt “Đề án<br />
sớm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về ICT (công nghệ thông tin và truyền thông)”, trong đó<br />
nhấn mạnh mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cần 1 triệu nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp<br />
CNTT. Đề án này đã thu hút sự quan tâm rất lớn của các chuyên gia Công nghệ thông tin (CNTT)<br />
và các cơ sở đào tạo CNTT trong cả nước.<br />
Trong [1], trên cơ sơ nghiên cứu các mô hình Đại học đào tạo CNTT trên thế giới, bằng trải<br />
nghiệm nhiều năm trực tiếp giảng dạy chuyên ngành CNTT, tác giả và các cộng sự đã xây dựng<br />
mô hình “trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông” phù hợp với bối cảnh Việt Nam<br />
trong xu thế hội nhập.<br />
Trong bài viết này, trên cơ sở lí luận chung đã trình bày ở [1, 3, 4, 5, 6], tác giả mở rộng<br />
phạm vi nghiên cứu, không bó hẹp trong trường học mà cho toàn xã hội. Tác giả sẽ tập trung phân<br />
tích những cơ sở khoa học để đưa ra giải pháp đổi mới đào tạo ngành ICT Việt Nam, phân tích yêu<br />
cầu tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao ICT trong và ngoài nước hiện nay. Cuối cùng bài<br />
viết kiến nghị giải pháp nhằm đổi mới phương thức đào tạo nghề ICT theo hướng hội nhập, góp<br />
phần hiện thực hóa đề án đào tạo 1 triệu nhân lực trong lĩnh vực ICT vào năm 2020.<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 25/7/2015. Ngày nhận đăng: 20/10/2015.<br />
Liên hệ: Ngô Tứ Thành, e-mail: thanh.ngotu@hust.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
56<br />
Nghiên cứu đề xuất giải pháp đổi mới đào tạo ngành Công nghệ thông tin truyền thông,..<br />
<br />
<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Cơ sở khoa học thay đổi phương thức đào tạo ngành ICT<br />
2.1.1. Tốc độ phát triển ICT tác động đến “bức tranh” đào tạo nghề ICT<br />
Vào cuối năm 2010, thế giới đã có 500 triệu người truy cập băng rộng di động. Dự kiến năm<br />
2016-2017 sẽ có khoảng 5 tỉ người truy cập băng rộng di động, tương đương với số lượng truy cập<br />
internet sẽ gấp 5 lần hiện giờ. Xã hội kết nối là bước phát triển kế tiếp của thời đại xã hội thông tin<br />
hiện nay. Khi được kết nối một cách thông minh, cuộc sống của loài người sẽ thay đổi, thế giới sẽ<br />
phát triển mạnh mẽ hơn. Hãng Ericsson nhận định trong thời gian tới, hai phần ba số thiết bị điện<br />
tử sẽ được gắn thêm thiết bị kết nối di động, ví dụ như máy phát điện, bàn là điện, bếp điện,. . . như<br />
hình 1.<br />
Một bước tiến mới trong công<br />
nghệ ICT là điện toán đám mây (cloud<br />
computing). Nếu các cơ quan nhà nước ứng<br />
dụng công nghệ điện toán đám mây theo<br />
hình thức cung cấp phần mềm như dịch vụ<br />
(Software as service – SaaS), tức là phần<br />
mềm được tập trung tại một trung tâm dữ<br />
liệu để cho người dùng sử dụng thông qua<br />
internet, thì cơ quan nhà nước sẽ không phải<br />
đầu tư phần cứng, phần mềm hệ thống và<br />
phần mềm thương mại, giảm phần lớn chi<br />
phí vận hành (điện, đường truyền và nhân<br />
lực quản trị hệ thống). Như vậy triển khai<br />
ứng dụng điện toán đám mây sẽ tiết kiệm<br />
kinh phí duy trì hệ thống mạng và điều quan<br />
trọng nhất, nhu cầu nguồn nhân lực ICT sẽ Hình 1. Mô hình các thiết bị kết nối<br />
thay đổi.<br />
Thế kỉ XXI, với sự phát triển nhanh chóng của ICT, khối lượng thông tin và tri thức tăng<br />
theo hàm mũ. Ví dụ trong vòng vài tháng, trong công nghệ phần cứng của máy tính lại xuất hiện<br />
một công nghệ mới, trong vòng vài năm thì Microsoft lại xuất ra một phiên bản OS mới với nhiều<br />
tính năng mới, .v.v. Đây là thời kì mà số lượng các công trình khoa học nhiều đến nỗi ông thầy<br />
một số ngành ICT cũng không học hết nổi kiến thức một môn của mình dạy. Các thầy bậc đại học<br />
và đào tạo nghề ICT đứng trước nguy cơ là khó truyền bá hết kiến thức của môn mình cho học trò.<br />
Hơn nữa khi các thầy dạy nhiều kiến thức cho sinh viên trong trường, nhưng khi trò ra trường thì<br />
những kiến thức ở trường lại có thể trở thành lạc hậu và các sinh viên tốt nghiệp phải đi đào tạo lại<br />
mới có thể hành nghề, rất lãng phí công đào tạo.<br />
2.1.2. Hình thành đội ngũ lao động tri thức mới trong lĩnh vực ICT<br />
Cuối thế kỉ 20 đầu thế kỉ 21 (từ 1995 đến 2010, khoảng 15 năm) là thời kì tăng trưởng của<br />
thị trưởng Viễn thông- tin học. Kĩ sư viễn thông với công việc cụ thể như thiết kế mạng, lắp ráp<br />
thiết bị, bảo hành bảo trì, quản trị mạng... trở nên “hot” và sáng giá hơn so với nhiều nghề khác.<br />
Rất nhiều thanh niên ưu tú sau khi tốt nghiệp phổ thông đã đầu quân gia nhập ngành viễn thông.<br />
Tuy nhiên hiện nay (năm 2015) dịch vụ phần cứng viễn thông đang có xu hướng bão hòa. Các thiết<br />
bị di động thông minh ngày càng trở nên phổ biến thì nội dung trao đổi trên mạng di động (công<br />
nghệ phần mềm) mới là yếu tố bùng nổ các loại dịch vụ kinh doanh khác nhau như: truyền hình<br />
di động, game di động, thương mại điện tử, thanh toán di động,. . . . Như vậy nhu cầu nguồn nhân<br />
lực viễn thông đang có sự thay đổi, chuyển từ dịch vụ cung cấp thiết bị viễn thông phần cứng sang<br />
<br />
<br />
57<br />
Ngô Tứ Thành<br />
<br />
<br />
dịch vụ mới – cung ứng phần mềm đa phương tiện cho khách hàng sử dụng.<br />
Khi dữ liệu được lưu trữ và trao đổi trên mạng ngày càng lớn thì nhu cầu bảo mật thông tin<br />
trên mạng cũng ngày càng cao, tất yếu ngành mới: an toàn thông tin trên mạng ra đời. Các kĩ sư<br />
ngành ICT phải thích ứng với tốc độ phát triển công nghệ để nhanh chóng phù hợp với nghề mới,<br />
công việc mới. Thậm chí ngay cả khi các thầy hành nghề dạy học mà không cập nhật kiến thức<br />
mới là tự đào thải mình. Ví dụ, trong hệ thống Aptech, mỗi giảng viên phải thi mỗi quý một lần,<br />
bởi vì những gì thuộc chương trình năm trước có thể không còn trong năm nay.<br />
2.1.3. Hình thành Công nghệ thông tin liên ngành [2]<br />
Xã hội kết nối (Networked Society) là bước phát triển kế tiếp của thời đại xã hội thông tin.<br />
Mọi hoạt động trong xã hội kết nối đều trực tiếp hay gián tiếp sử dụng ICT, ví dụ: kĩ thuật mổ nội<br />
soi hiện đại sử dụng máy tính điều khiển, máy bay sử dụng phần mềm tại trung tâm điều khiển,<br />
tàu hỏa được điều khiển bởi phần mềm xử lí tín hiệu,. . . . Khi được kết nối một cách thông minh,<br />
các ngành khoa học, các nghề nghiệp khác nhau sẽ giao thoa với Công nghệ thông tin (CNTT). Ví<br />
dụ: CNTT + ngân hàng = tin học ngân hàng; CNTT + viễn thông = tin học viễn thông; CNTT +<br />
xây dựng = tin học xây dựng; CNTT + thương mại = thương mại điện tử...<br />
Một số liên ngành ra đời đồng nghĩa với thủ tiêu ngành cũ, ví dụ viễn thông tin học hiện<br />
nay đã thay thế viễn thông truyền thống sử dụng Tổng đài từ thạch, thủ tiêu luôn điện tín truyền<br />
thống. Các ngành giao thoa với CNTT sẽ luôn tồn tại với CNTT và không thể tách rời nhau, nếu<br />
hệ thống CNTT mất đi thì toàn bộ các liên ngành trên sẽ bị phá vỡ.<br />
Khi có liên ngành với CNTT, tất yếu sẽ hình thành đội ngũ người lao động liên ngành vừa<br />
có kiến thức chuyên môn vừa có kiến thức CNTT. Ví dụ, để hình thành đội ngũ nguồn nhân lực<br />
Tin học Xây dựng, trường Đại học Xây dựng đã thiết lập chương trình đào tạo phù hợp với thực<br />
tế sản xuất. Sinh viên ngành Tin học Xây dựng được trang bị tốt về chuyên môn Xây dựng và Lập<br />
trình tin học ứng dụng trong Xây dựng. Trong các trường đại học và cao đẳng hiện nay đã thành<br />
lập các khoa liên ngành: thương mại điện tử, tin học kinh tế. . . để phục vụ cho việc đào tạo nguồn<br />
nhân lực cho các liên ngành tương ứng. Các liên ngành mới ra đời với đội ngũ nguồn nhân lực qua<br />
đào tạo sẽ ngày một phát triển bền vững.<br />
Ví dụ về bức tranh nghành ICT trên cho thấy, chính tốc độ phát triển ICT đã làm thay đổi<br />
nhu cầu nguồn nhân lực ICT, nếu không có giải pháp đổi mới quy trình đào tạo ICT thì kết quả<br />
đào tạo trong nhà trường sẽ luôn chậm và đi sau bước phát triển công nghệ ICT trong thực tế và<br />
mọi thiệt thòi đó, suy cho cùng người học lãnh đủ.<br />
2.1.4. Yêu cầu tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao ICT trên thế giới<br />
Việt Nam đang đứng trước một cơ hội rất lớn để tham gia vào thị trường Công nghệ thông<br />
tin truyền thông (ICT) thế giới, một thị trường mang lại hàng nghìn tỉ đô la mỗi năm và còn thiếu<br />
hụt nguồn nhân lực trầm trọng. Việt Nam vừa gia nhập WTO và đầu tư thế giới đang hướng về<br />
Việt Nam như một điểm đến hấp dẫn. Đặc biệt, làn sóng đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực ICT<br />
đang diễn ra rất sôi động.<br />
Có thể dự báo trong 10 năm tới Việt Nam chưa thể trở thành một cường quốc công nghệ<br />
thông tin, song Việt Nam có thể trở thành “Cường quốc đào tạo và cung ứng nhân lực phần mềm”.<br />
Việt Nam có thể vào TOP5 (sau Trung Quốc, Ấn Độ, Nga)<br />
Các nước trên thế giới sẵn sàng tiếp nhận các kĩ sư phần mềm được đào tạo ở Việt Nam nếu<br />
chất lượng đạt chuẩn Quốc tế. Vì vậy Việt Nam cần có tầm nhìn toàn cầu về đào tạo nguồn nhân<br />
lực ICT để nắm cơ hội cung ứng nhân lực ICT cho thế giới và đưa ngành đào tạo ICT của Việt<br />
Nam hội nhập quốc tế !<br />
Theo một trang web của Mỹ (http://www.dice.com ): cơ hội việc làm từ xa” (có thể thực<br />
hiện bất cứ nơi đâu, không kể vị trí địa lí), thì cần 3 kĩ năng : kĩ năng phát triển, giao tiếp và ứng<br />
<br />
<br />
58<br />
Nghiên cứu đề xuất giải pháp đổi mới đào tạo ngành Công nghệ thông tin truyền thông,..<br />
<br />
<br />
dụng. Điều này có nghĩa là ứng viên muốn được chấp nhận phải biết cách sáng tạo những cái mới<br />
(công việc phát triển). Nhưng ngay cả trước khi sáng tạo ra cái mới, hoặc trong khi dự án đang tiến<br />
hành, người lao động cần có khả năng truyền đạt thông suốt những vấn đề kinh doanh và những<br />
vấn đề kĩ thuật với cấp trên và cấp dưới một cách có hiệu quả. Cuối cùng khi công việc hoàn thành,<br />
người lao động phải biết ứng dụng kết quả trong công ti hay trong một số trường hợp rộng hơn,<br />
triển khai ở cấp độ tổng công ti. Đối với các kĩ năng chuyên ngành kĩ thuật, phần mềm Oracle dẫn<br />
trước phần mềm Microsoft SQL với tỉ lệ 33/17 vị trí công việc trong lĩnh vực này.<br />
Lợi thế và cơ hội của Việt Nam trong việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực ICT [8]<br />
Việt Nam có dân số đông thứ 13 thế giới. Thu nhập trong nước một số ngành nghề rất chênh<br />
lệch. Người nông dân thu nhập 10USD/1 tháng, công nhân ngành may thu nhập 50USD/1 tháng,<br />
kĩ sư phần mềm thu nhập 800USD/1 tháng. Trong khi đó kĩ sư phần mềm quốc tế có thu nhập từ<br />
2000 – 5000USD/1 tháng là động lực lớn cho các gia đình Việt Nam sẵn sàng đầu tư cho con em<br />
theo học ngành phần mềm và ICT. Tại các nước công nghiệp như Mỹ Nhật, Đức,. . . giới trẻ không<br />
thích làm ICT, không có ý thức cạnh tranh với nguồn nhân lực của Việt Nam. Còn các nước đang<br />
phát triển như Indonesia, Pakistan, Brasil,. . . kém Việt Nam về giáo dục phổ thông.<br />
Tóm lại, từ số liệu phân tích ở trên, có thể đưa ra nhận định, ngành ICT Việt Nam muốn<br />
phát triển không thể “quanh quẩn ao làng” mà phải có thay đổi về chất theo hướng hội nhập với<br />
thế giới. Đây là yếu tố then chốt có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển và ứng dụng ICT<br />
Việt Nam. Tuy nhiên, ở thời điểm này, nhu cầu nhân lực ICT Việt Nam đã vượt quá khả năng đáp<br />
ứng của hệ thống đào tạo trong nước. Để đảm bảo mục tiêu phát triển nguồn nhân lực ICT đáp ứng<br />
nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu, cần phải có giải pháp quyết liệt theo phương châm đào<br />
tạo đạt chuẩn, đào tạo theo chuẩn Quốc tế và theo nhu cầu xã hội. Dưới đây sẽ trình bày các giải<br />
pháp đó.<br />
<br />
2.2. Một số giải pháp đổi mới phương thức đào tạo nghề ICT theo hướng hội<br />
nhập<br />
2.2.1. Giải pháp chung<br />
Theo mô hình đào tạo truyền thống thì nguồn cung ứng nhân lực nói chung, nguồn nhân<br />
lực ICT nói riêng chủ yếu đến từ các trường đào tạo nghề hoặc các trường đại học và bao gồm các<br />
bậc học phổ biến như: trung học nghề, cao đẳng, cử nhân/kĩ sư . . . . Tuy nhiên, đặc thù của ngành<br />
nghề trong xã hội kết nối có liên quan mật thiết với nhau. Nhiệm vụ của ngành ICT là phục vụ cho<br />
rất nhiều các lĩnh vực khác nhau, do đó người lao động phải có nhiều kĩ năng khác mà nhà trường<br />
ICT khó có thể đào tạo được nên việc đào tạo bổ sung là rất cần thiết trong mô hình mới. Ở đây<br />
cần phân biệt đào tạo lại và đào tạo bổ sung. Đào tạo lại là trường hợp đã được học nghề ở trường<br />
nhưng khi ra làm việc không đáp ứng được công việc phải đi đào tạo lại, có khi phải học ngành<br />
mới không liên quan với kiến thức đã học ở trường. Còn đào tạo bổ sung là trường hợp sinh viên<br />
được đào tạo cơ bản ở trường, sau đó đến làm việc ở lĩnh vực hẹp nào thì được đào tạo bổ sung<br />
kiến thức phù hợp công việc ở đó. Đào tạo bổ sung là tất yếu phù hợp với chuyên ngành ICT, còn<br />
đào tạo lại là một sự lãng phí.<br />
Trong hình 2, mũi tên từ trái sang phải có nghĩa là sau khi đào tạo truyền thống theo các<br />
trình độ khác nhau: kĩ thuật viên, cử nhân, thạc sĩ, tiễn sĩ . . . người học mới có nghề để đi làm.<br />
Mũi tên từ phải sang trái có nghĩa là người lao động đã có nghề nghiệp ổn định vẫn được thường<br />
xuyên được đào tạo bổ sung.<br />
Trong mô hình mới này, người lao động được đào tạo những kiến thức cơ bản về nghề và<br />
liên quan thông qua các chương trình đào tạo chính thức và sau khi đi làm nếu cần thêm kiến thức<br />
gì thì đi học bồi dưỡng bổ sung thông qua các chương trình đào tạo thường xuyên ngắn hạn như<br />
ngôn ngữ lập trình, công nghệ mới. . . Trong trường hợp đào tạo thường xuyên (hình 2) người thầy<br />
phải luôn cập nhật kiến thức thực tế mới đảm nhận vai trò “làm thầy thiên hạ” được. Theo mô hình<br />
<br />
59<br />
Ngô Tứ Thành<br />
<br />
<br />
đào tạo ở hình 2, trong trường đào tạo nghề không nhất thiết phải đào tạo tất cả những gì xã hội<br />
cần, mà nên lựa chọn những môn học thật cần thiết để làm nền tảng cho người học có thể phát<br />
triển kĩ năng làm việc trong tương lai.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 2. So sánh đào tạo nghề truyền thống và xu hướng đào tạo mới<br />
<br />
2.2.2. Đào tạo nghề ICT hướng tới người lao động tri thức<br />
Như đã trình bày ở 2.1.2, ngày nay, hầu hết các công việc như cài đặt, cấu hình và bảo trì<br />
được thực hiện một cách tự động, nên các kĩ năng cần thiết cho người lao động ICT sẽ thay đổi<br />
chuyển từ các công việc mang tính kĩ thuật trước đây sang đòi hỏi những kiến thức về trải nghiệm<br />
và những kĩ năng phù hợp khác. Sự phát triển này đi cùng với sự chấp nhận nhanh chóng của điện<br />
toán đám mây trên toàn cầu, sẽ đòi hỏi phải gia tăng rất mạnh số lao động hiểu biết về lĩnh vực<br />
này. Tức là nhu cầu nhân lực lao động kĩ thuật khai thác ICT sẽ giảm nhường chỗ cho nguồn nhân<br />
lực là những lao động tri thức có những kĩ năng mới.<br />
Vì vậy trước hết cần nâng cấp các trường cao đẳng đào tạo nghề ICT thành trường Đại học<br />
thực hành ICT. Vì thực chất lao động trong nghề ICT là lao động tri thức có kĩ năng mới khác<br />
với lao động thuần tuý kĩ thuật trước đây. Giải pháp này sẽ kích thích thu hút nhiều thanh niên gia<br />
nhập vào lĩnh vực nghề ICT.<br />
2.2.3. Thay đổi nội dung và phương pháp đào tạo nghề một cách khoa học<br />
Nếu trước đây việc tích lũy kiến thức (nhớ) là ưu tiên số 1 thì giờ đây khi mà các phương<br />
tiện lưu trữ đã đầy đủ, sẵn sàng cho việc truy cập và xử lí thông tin, thì ưu tiên số 1 lại là khả năng<br />
nhanh chóng tiếp cận tri thức mới, vận dụng tri thức mới và khả năng ... sinh ra tri thức mới. Trong<br />
tình hình đó, cách đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề bậc đại học nói riêng không thể giữ<br />
nguyên như khoảng nửa thế kỉ trước đây. Nếu trước kia người ta có thể sử dụng thời gian 4, 5 năm<br />
đại học để trang bị một vốn tri thức về một nghề nghiệp cao cấp nào đó cho một sinh viên để anh<br />
ta sử dụng hầu như trong cả cuộc đời hành nghề của mình, thì ngày nay điều đó là hoang tưởng.<br />
Nghĩa là nếu vẫn tập trung vào mục tiêu trang bị tri thức, thì dù có kéo dài bao nhiêu lần thời gian<br />
học ở đại học cũng không giải quyết được mâu thuẫn đã nêu. Do đó nội dung chương trình đào tạo<br />
nghề phải chú trọng loại kiến thức nền tảng chứ không phải loại kiến thức về một quy trình cụ thể,<br />
vì kiến thức nền tảng mới tạo cho người học một cái nền vững chắc để tiếp tục học tập những thứ<br />
cụ thể khác. Tiếp đến là đào tạo kĩ năng phù hợp với xã hội kết nối, phù hợp với ngành nghề mà<br />
<br />
60<br />
Nghiên cứu đề xuất giải pháp đổi mới đào tạo ngành Công nghệ thông tin truyền thông,..<br />
<br />
<br />
người lao động lựa chọn.<br />
Để thực hiện giải pháp này cần nhanh chóng nâng cấp vị thế giảng viên đào tạo nghề ICT.<br />
Người thầy trong lĩnh vực này ngoài việc phải được nâng cấp trình độ của mình qua mô hình đào<br />
tạo truyền thống (theo hình 2 từ trái sang phải) để đạt được các học vị Thạc sĩ, Tiến sĩ còn phải<br />
biết tự đào tạo bổ sung kiến thức cho chính mình.<br />
2.2.4. Đào tạo liên kết nhà trường với doanh nghiệp<br />
Trong lĩnh vực ICT ở Việt Nam hiện nay, cung vẫn chưa bằng cầu, vì thế các trường đại học<br />
chưa quan tâm đến doanh nghiệp. Nếu ngày càng nhiều các trường đại học của nước ngoài đến mở<br />
ra ở Việt Nam trong vài năm tới thì các trường đại học Việt Nam muốn cạnh tranh thắng lợi phải<br />
tìm đến với các doanh nghiệp. Trong kinh doanh, những phát minh sáng chế và những công nghệ<br />
mới được phát triển trong công nghiệp trước khi lan sang các lĩnh vực khác như giáo dục. Ngoài<br />
ra các trường đại học cần đến các doanh nghiệp để có nguồn vốn tài trợ, sắp đặt việc làm cho sinh<br />
viên của trường mình, chuyển giao công nghệ mới hay thậm chí là để bán những phát minh, nghiên<br />
cứu của trường. Để đẩy mạnh mối quan hệ giữa trường và doanh nghiệp, các trường đại học cần<br />
quan tâm đến những vấn đề sau:<br />
Tạo mối quan hệ với những doanh nhân có kinh nghiệm. Trường cần theo sát để biết cựu<br />
sinh viên của mình đang làm việc ở công ty nào, với chức danh gì. Mời các doanh nhân có kinh<br />
nghiệm tham gia việc giảng dạy qua những buổi thỉnh giảng về những chủ đề nóng, đương thời<br />
hay hay có liên quan đến các lĩnh vực kinh doanh đang được giảng dạy trong trường.<br />
Thành lập văn phòng dịch vụ việc làm. Sắp xếp việc làm cho sinh viên là một phần quan<br />
trọng trong các tiêu chí xếp hạng ở các trường có thứ hạng cao. Văn phòng dịch vụ việc làm có thể<br />
kết hợp với hội sinh viên tổ chức những buổi nói chuyện với những vị khách mời để đem lại cho<br />
sinh viên những kiến thức cần thiết này. Dịch vụ việc làm ở các trường tốt không chỉ cung cấp cho<br />
sinh viên thông tin việc làm mà còn chuẩn bị cho sinh viên những gì xảy ra trước, trong và sau<br />
cuộc phỏng vấn. Chẳn hạn, những quy tắc ứng xử trong kinh doanh là một lãnh vực rất quan trọng<br />
mà nhiều trường thường bỏ qua.<br />
Cuối cùng là kĩ năng giao tiếp và làm việc nhóm, không có kĩ năng này, sinh viên không<br />
thể là một nhân công làm việc hiệu quả. Trong lĩnh vực ICT, người lao động cần phải học cách làm<br />
việc nhóm để giải quyết những vấn đề phức tạp có liên quan đến nhiều người, hoặc để các nhóm<br />
thay phiên nhằm giải quyết vấn đề phức tạp hiệu quả v.v. . . Vì vậy, trong trường hợp chương trình<br />
đào tạo (CTĐT) của trường không thay đổi nhanh để đáp ứng yêu cầu này, sinh viên có thể phải<br />
tìm kiếm những hình thức học khác bên ngoài CTĐT.<br />
<br />
3. Kết luận<br />
Trong khi sự thiếu hụt về nguồn lực ICT rất lớn, vấn đề đào tạo không chuẩn dẫn đến không<br />
đáp ứng đủ nhân công chất lượng cao cho lĩnh vực này trong tương lai. Để giúp cho ngành ICT<br />
đáp ứng được nhu cầu to lớn và ngày càng tăng như hiện nay, cần phải có những những thay đổi có<br />
ý nghĩa trong CTĐT ngành ICT ở Việt Nam, đây là một thách thức lớn nhằm đưa Việt Nam trên<br />
con đường hội nhập vào “nền kinh tế tri thức”.<br />
Tuy nhiên, thực hiện được mục tiêu đổi mới chương trình đào tạo ngành ICT lại liên quan<br />
đến hàng loạt các vấn đề khác như: cơ sở vật chất, trang thiết bị. . . và cuối cùng cũng là vấn đề<br />
nhân lực: đội ngũ những nhà quản lí giáo dục và đội ngũ giảng viên có tâm và có tài, thực hiện<br />
mục tiêu đổi mới đó. Đây là một chu trình khép kín, đi lên, và liên hệ chặt chẽ với nhau. Cuối<br />
cùng tác giả muốn chuyển tải một thông điệp quan trọng là nếu chúng ta có quyết tâm đổi mới, thì<br />
việc phát triển đào tạo ngành ICT mới đi đúng hướng và đáp ứng nhu cầu của xã hội, góp một dấu<br />
chấm trong vòng tròn đi lên của xã hội Việt Nam.<br />
<br />
<br />
61<br />
Ngô Tứ Thành<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
[1] Ngô Tứ Thành, Trần Quang Tuyết, 2010. Mô hình trường đại học công nghệ thông tin và<br />
truyền thông trong xu thế hội nhập, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Số<br />
55 (4), tr.48-54.<br />
[2] Ngô Tứ Thành, 2014. Nghiên cứu xây dựng ngành công nghệ thông tin giáo dục. Tạp chí<br />
khoa học và Công nghệ các trường Đại học kĩ thuật, Số 98, tr. 75-81.<br />
[3] Ngô Tứ Thành, 2009. Đổi mới chương trình đào tạo ngành ICT theo tiêu chuẩn Quốc tế. Tạp<br />
chí Khoa học Giáo dục, Số 43, tr. 35-39.<br />
[4] Ngô Tứ Thành, 2009. Xây dựng triết lí giáo dục nhằm phát triển tư duy người học hình thành<br />
tri thức trong xu thế hội nhập. Tạp chí Nghiên cứu con người. Tập 1, Số 40, trang 59-66.<br />
[5] Ngô Tứ Thành, 2009. Đào tạo đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực Công nghệ thông tin. Tạp<br />
chí Giáo dục. Số 236, tr. 73-81.<br />
[6] Ngô Tứ Thành, 2010. Dự báo đào tạo đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực CNTT. Tạp chí Giáo<br />
dục, Số 236 kì 2 tháng 4, pp 36-40.<br />
[7] Quyết định 1755/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 “Phê duyệt đề án đưa Việt Nam sớm trở thành<br />
nước mạnh về công nghệ thông tin và truyền thông”.<br />
[8] Bộ thông tin và truyền thông, 2008. Hiện trạng sử dụng nguồn nhân lực CNTT. Hội thảo<br />
quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực CNTT và TT theo nhu cầu xã hội, tháng 1/2008.<br />
[9] Trần Khánh Đức, 2007. Kinh tế tri thức và phát triển chương trình đào tạo đại học hiện đại.<br />
Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Số 02 Tập 23, tr. 135.<br />
[10] Nguyễn Thị Hương Giang, 2013. Đổi mới chương trình giảng dạy chuyên ngành Sư Phạm Kỹ<br />
Thuật tại Đại học Bách khoa Hà Nội theo hướng tích hợp. Tạp chí Giáo dục, Số 315, tr 27.<br />
[11] Hativa, N., Barak, R., Simhi, E., 2001. Exemplary university teachers: Knowledge and beliefs<br />
regarding effective teaching dimensions and strategies. The Journal of Higher Education 72<br />
(6): 699-729.<br />
[12] Narendra M. Agrawal, Mohan Thite, 2003. Human resource issues, challenges and strategies<br />
in the Indian software industry. International Journal of Human Resources Development and<br />
Management (IJHRDM), Vol. 3, No. 3.<br />
[13] Tigelaar, 2004. The development and validation of a framework for teaching competencies in<br />
higher education. Higher Education 48 (2): 253-268.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
<br />
Improving curriculum and training of information technology to meet international<br />
standards<br />
<br />
Education that will meet social demand is a must for every nation. For an emerging economy<br />
like Vietnam with its many new sectors, it is even more essential that improvements be made to<br />
create an orientation for education and training. This paper presents measures that could be taken<br />
to improve the teaching of information technology such that it will meet the needs of this high<br />
tech industry. These measures include improvements in the teaching environment, in the learning<br />
environment and in the school environment itself, with a focus on the teaching environment<br />
(curriculum).<br />
Keywords: Training, improvements, information technology, teaching environment<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
62<br />