intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu phân vùng chất lượng nước các sông kênh rạch khu vực Tp. Hồ Chí Minh theo chỉ số chất lượng nước (WQI) và đề xuất khả năng sử dụng, 2007-2008 (chủ trì)

Chia sẻ: Nguyễn Nhật Bá | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:7

570
lượt xem
139
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu phân vùng chất lượng nước các sông kênh rạch khu vực Tp. Hồ Chí Minh theo chỉ số chất lượng nước (WQI) và đề xuất khả năng sử dụng, 2007-2008 (chủ trì). Cơ quan quản lý: Sở KHCN TP. Hồ Chí Minh Cơ quan thực hiện: Phân viện Công nghệ mới và Bảo vệ Môi trường Chủ nhiệm:

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu phân vùng chất lượng nước các sông kênh rạch khu vực Tp. Hồ Chí Minh theo chỉ số chất lượng nước (WQI) và đề xuất khả năng sử dụng, 2007-2008 (chủ trì)

  1. Nghiên cứu phân vùng chất lượng nước các sông kênh rạch khu vực Tp. Hồ Chí Minh theo ch ỉ số chất lượng nước (WQI) và đề xuất khả năng sử dụng, 2007-2008 (chủ trì). Cơ quan quản lý: Sở KHCN TP. Hồ Chí Minh Cơ quan thực hiện: Phân viện Công nghệ mới và Bảo vệ Môi trường Chủ nhiệm: 1. Tính cấp thiết của việc sử dụng Chỉ số Chất lượng nước (WQI) trong đánh giá hiện trạng và quản lý chất lượng nước mặt và tình hình nghiên c ứu phát, tri ển ở n ước ngoài Để đánh giá chất lượng nước (CLN), ô nhiễm nước sông, kênh rạch, ao đầm, nước biển, hiện nay ở Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới, người ta thường dựa vào việc phân tích các thông số (parameter) CLN riêng biệt, rồi so sánh từng thông số đó với giá tr ị gi ới h ạn được quy định trong Tiêu chuẩn Quy chuẩn Quốc gia hoặc Tiêu chuẩn Quốc tế. Cách làm “truyền thống” này gặp phải một số hạn chế: Khó phân loại CLN cho một mục đích sử dụng nào đó, chẳng hạn, TCVN 5942-1995 quy i. định CLN sông (loại A - đạt tiêu chuẩn cấp nước cho sinh hoạt) và cột B (loại B - không đạt tiêu chuẩn cấp nước cho sinh hoạt), chỉ có thể dùng cho các mục đích khác) đối với oxy hoà tan (DO), chất rắn lơ lửng (SS) và tổng coliform (TC) tương ứng như sau: DO = 6 mg/L và 4 mg/L; SS = 20 mg/L và 80 mg/L; TC = 5000 MPN/100mL và 10.000 MPN/100mL. Tuy nhiên trong thực tế, con sông này (hoặc đoạn sông này) đạt yêu cầu loại A về DO, nhưng không đạt loại A về SS và TC, còn con sông khác (hoặc đoạn sông khác) đạt yêu cầu loại A về SS, nhưng không đạt loại A về DO và TC, hoặc cũng có thể đạt loại A về DO và SS, nhưng TC không đạt cả loại A và B… Mặt khác, đối với một mục đích sử dụng, mỗi thông số có tầm quan trọng khác nhau, chẳng hạn: độ đục và TC rất quan trọng cho mục đích tiếp xúc trực tiếp (tắm, bơi lội), nhưng lại không quan trọng cho mục đích cấp nước cho, nông nghiệp, nhiệt độ, độ mặn, NH 4+ không quan trọng lắm với nước bãi tắm nhưng rất quan trọng với nước nuôi thủy sản v.v…Rõ ràng, trong những trường hợp trên, rất khó kết luận CLN cua môt con sông (hay đoan sông) đạt loại A hay B và ̉ ̣ ̣ CLN đat yêu câu cho muc đich nay, nhưng lai không đat yêu câu cho muc đich khac. Những điêu đó ̣ ̀ ̣́ ̀ ̣ ̣ ̀ ̣́ ́ ̀ dân đên rât khó phân vùng và phân loai CLN sông, khó quyết định về khả năng khai thác sông ̃ ́ ́ ̣ (hoặc đoạn sông) cho một hoặc một số mục đích sử dụng nào đó… ii. Khi đánh giá CLN qua nhiều thông số riêng biệt, sẽ không thể nói đến diễn biến CLN tổng quát của một con sông (hay đoạn sông) và do vậy, khó so sánh CLN từng vùng của m ột con sông, so sánh CLN sông này với sông khác, CLN thời gian này với thời gian khác (theo tháng, mùa), CLN hiện tại so với tương lai… Như vậy, sẽ khó khăn cho công tác giám sát diên biên ̃ ́ CLN, khó đánh giá hiệu quả đầu tư để bảo vệ nguồn nước và kiểm soát ô nhiễm nước… Mặt khác, khi đánh giá qua các thông số CLN riêng biệt, chỉ cac nhà khoa học hoặc nhà ́ chuyên môn mới hiểu được và như vậy, khó thông tin về CLN cho cộng đồng và các cơ quan quản lý Nhà nước, các nhà lãnh đạo để ra các quyết định phù hợp về bảo vệ và khai thác nguồn nước… Để khắc phục những khó khăn trên, cần phải có một hoặc một hệ thống chỉ số(*) cho phép lượng hoá được CLN (tức là biểu diễn CLN theo một thang điểm thông nhât), có khả năng mô ́ ́ tả tác động tổng hợp của nồng độ nhiều thành phần hóa – lý – sinh trong ngu ồn n ước và t ầm quan trọng của môi thông số CLN đôi với môt mục đích sử dung nào đó. M ột trong nh ững ch ỉ ̃ ́ ̣ ̣ số đó làChỉ số chất lượng nước (Water Quality Index - WQI). WQI là một chỉ số được tính toán từ nhiều thông số CLN riêng biệt theo một phương pháp xác định (hay theo m ột công th ức toán học xác định). Mô hình WQI được đề xuất và áp dụng đầu tiên ở Mỹ vào những năm 1965 – 1970 và đang
  2. được áp dụng rộng rãi ở nhiều bang . Hiện nay nhiều mô hình WQI đã được tri ển khai nghiên cứu áp dụng ở nhiều quốc gia Ấn Độ: Canada , Chi lê, Anh, Wales, Đài loan, Úc, Malaixia , WQI được xem là một công cụ hữu hiệu đối với các nhà quản lý môi trường trong giám sát CLN, quản lý nguồn nước, đánh giá hiệu quả BVMT, kiểm soát ô nhiễm nước, cung cấp thông tin ô nhiễm nước cho cộng đồng và các nhà hoạch định chính sách... Với WQI, dễ áp dụng tin học để quản lý CLN và bản đồ hóa CLN (chẳng hạn, màu hóa CLN theo các thang điểm xác định). WQI cùng với Chỉ số chất lượng không khí (AQI), Chỉ số đa dạng sinh học (BDI)... là những bộ phận hợp thành của Chỉ số Chất lượng Môi trường(EQI). EQI cho phép đánh giá định lượng về chất lượng môi trường của một hệ sinh thái hay một vùng địa lý xác đ ịnh. M ặt khác, ngoài WQI, trên thế giới và ở Việt Nam, nhiều viện nghiên c ứu và nhà khoa h ọc còn ti ếp c ận sử dụng chỉ số sinh học (Bioindex - BI) để đánh giá CLN (các phiêu sinh, th ực v ật, phiêu sinh động vật, động vật đáy, động vật bám…). Song, việc lấy mẫu, xác định thành phần loài và mật độ của các loài sinh vật thường khó khăn hơn nhiều và khó chuẩn hóa so v ới l ấy m ẫu và phân tích các thông số CLN về mặt hóa – lý. Do vậy xu thế sử dụng WQI v ề hóa – lý đang đ ược nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Từ những năm 70 đến nay, trên thế giới đã có hàng trăm công trình nghiên c ứu phát tri ển và áp dụng mô hình WQI cho quốc gia hay địa phương mình theo một trong 3 hướng: Áp dụng một mô hình WQI có sẵn vào quốc gia / địa phương mình; (i) Áp dụng có cải tiến một mô hình WQI có sẵn vào quốc gia / địa phương mình; (ii) Nghiên cứu phát triển một mô hình WQI mới cho quốc gia / địa phương mình. (iii) Xu thế (i) và (ii) ít tốn kém về nhân lực, thời gian và tài chính, nên phù h ợp v ới các qu ốc gia đang phát triển. Hiện nay trên thế giới, có trên 30 loại WQI đang được s ử dụng . Đặc biệt, tại Hoa Kỳ, Canada… WQI được công bố hàng tháng đối với nhi ều dòng sông ở t ừng bang, giúp cho việc quản lý và sử dụng nước rất tiện lợi. 2. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu. TP Hồ Chí Minh nằm ở hạ lưu lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn có m ạng l ưới sông r ạch với mật độ cao. Các sông chính là Đồng Nai, Sài Gòn, Nhà Bè, Lòng Tàu, Đ ồng Tranh, D ừa, Ngã Bảy, Vàm Sát, Soài Rạp, Chợ Đệm, Cần Giuộc, Bến Lức… và hàng trăm kênh rạch. Sông, kênh, hồ đầm ở TP đang thực hiện 6 chức năng (một số sông rạch có 1, 2 chức năng, một số kênh rạch đồng thời có cả 6 chức năng này): Cấp nước cho sinh hoạt (thí dụ sông Đồng Nai từ cầu Đồng Nai về th ượng l ưu; sông - Sài Gòn ở Củ Chi) Nuôi trồng thuỷ sản (sông Sài Gòn, Đồng Nai, các sông kênh r ạch ở huy ện Nhà Bè, - Cần Giờ) Cấp nước thuỷ lợi (các sông Sài Gòn vùng không nhi ễm m ặn, sông Đ ồng Nai, B ến - Lức...) Giải trí, thể thao dưới nước (các sông Sài Gòn, Đồng Nai, các sông ở Cần Giờ) - Giao thông thuỷ (các sông Sài Gòn, Đồng Nai, Lòng Tàu, Ngã Bảy, Đ ồng Tranh, Nhà - Bè, Cần Giuộc, Soài Rạp và các kênh rạch lớn) Tiếp nhận và thoát nước thải (toàn bộ các sông kênh, rạch) - Phân vùng chất lượng nước là nội dung đặc biệt quan tr ọng không ch ỉ trongqu ản lý môi trường (như xác định vùng nào là nguồn nước loại A, loại B hoặc loại C theo TCVN 5942-1995 về chất lượng nước mặt, vùng nào có chất lượng nước đạt loại I (không ô nhi ễm), vùng nào có chất lượng nước đạt loại IV (ô nhiễm nặng) mà còn có tầm quan trọng trong quy ho ạch s ử dụng tài nguyên nước một cách hợp lý và an toàn. Khi có phân vùng tốt, lãnh đạo và các sở, ngành, doanh nghiệp ở TP H ồ Chí Minh và c ộng
  3. đồng sẽ xác định rõ: Vùng nào (đoạn sông nào) có khả năng sử dụng an toàn cho c ấp n ước sinh ho ạt (l ấy - nước cho nhà máy nước); Vùng nào có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ, nước ngọt an toàn, có - hiệu quả kinh tế; Vùng nào có khả năng cấp nước thuỷ lợi an toàn, có chất lượng tốt. - Vùng nào có khả năng xây dựng cơ sở thể thao, du lịch dưới nước đủ tiêu chuẩn. - Vùng nào không thể sử dụng cho các m ục đích trên, c ần ưu tiên x ử lý, ki ểm soát ô - nhiễm. Do chưa có nghiên cứu phân vùng chất lượng nước nên hiện nay vi ệc sử dụng n ước trong lưu vực Đồng Nai - Sài Gòn nói chung và TP Hồ Chí Minh nói riêng ch ưa phù h ợp: nhi ều đi ểm lấy nước cấp do nhà máy nước không đạt tiêu chuẩn về chất lượng – tr ường h ợp đi ển hình là nhà máy nước Tân Hiệp trên sông Sài Gòn; m ột số đi ểm nuôi thu ỷ sản gặp r ủi ro do không thích hợp về chất lượng nước (do độ mặn, độ đục hoặc ô nhiễm do các yếu tố hóa lý ho ặc vi sinh). Các vấn đề này thường được các phương tiện thông tin đại chúng và các c ơ quan quản lý môi trường cảnh báo nhưng chưa có biện pháp khắc phục. Với các lý do trên, việc thực hiện Đề tài này có tính cần thiết cấp bách, tính mới và có khả năng áp dụng trong thực tế 3. Mục tiêu của đề tài Mục tiêu (a): Xác lập cơ sở khoa học để phân loại chất lượng nước các sông, kênh ở - TP Hồ Chí Minh theo chỉ số chất lượng nước (WQI) có tính khả thi, dễ áp dụng. Mục tiêu (b): Thực hiện phân vùng chất lượng nước các sông, rạch khu vực TP H ồ Chí - Minh theo mô hình WQI đã lập có cơ sở khoa học và thực tế . Mục tiêu(c): Đánh giá đúng mức độ phù hợp của các vùng chất lượng nước đối với các - mục tiêu sử dụng khác nhau ở từng vùng n ước phục vụ cấp n ước, du l ịch, thu ỷ s ản và quản lý môi trường nước. 4. Nội dung nghiên cứu Để đạt 3 mục tiêu trên, Đề tài đã triển khai các nội dung sau: Thu thập, xử lý tài liệu, số liệu các dự án, đề tài cấp Nhà nước, Cấp TP, Hợp tác qu ốc - tế đã thực hiện trong lưu vực sông Đồng Nai – Sài Gòn và TP Hồ Chí Minh về quan tr ắc chất lượng nước và ô nhiễm nước mặt. Thu thập, tổng quan các tài liệu quốc tế và Việt Nam về phân loại chất lượng nước - theo WQI Triển khai khảo sát thực địa, thu mẫu, phân tích bổ sung các thông số chất l ượng n ước - đặc trưng Đo đạc diễn biến chất lượng nước theo chiều dài các dòng sông, kênh chính - Nghiên cứu cơ sở khoa học phân vùng chất lượng nước mặt ở TP Hồ Chí Minh - Triển khai phân vùng chất lượng nước sông, kênh rạch khu vực TP Hồ Chí Minh - Xây dựng tập bản đồ phân vùng chất lượng nước TP Hồ Chí Minh - Điều tra, đánh giá lấy ý kiến cộng đồng về khả năng sử dụng nước - Tham vấn ý kiến các chuyên gia về tầm quan tr ọng của các thông s ố đánh giá ch ất - lượng nước đặc thù cho TP Hồ Chí Minh Đánh giá mức độ phù hợp của các vùng chất lượng n ước đối với các m ục đích s ử - dụng nước 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập và xử lý thông tin về phương pháp luận -
  4. Các phương pháp thu mẫu, phân tích chất lượng nước về mặt hóa – lý - Phương pháp đo đạc, phân tích chất lượng nước liên tục - Các phương pháp thống kê, đánh giá lưu lượng, tải lượng ô nhiễm từ nước thải - Phương pháp lập và tính toán WQI - Phương pháp phân loại và phân vùng chất lượng nước dựa vào WQI - Kết quả nghiên cứu 6. Từ các kết quả nghiên cứu Đề tài chúng tôi có thể đưa ra một số kết luận chính: 1. Khu vực TP Hồ Chí Minh nằm ở hạ lưu hệ thống sông Đ ồng Nai – Sài Gòn có m ạng lưới sông, kênh rạch dày, chất lượng nước (CLN) các sông này b ị ảnh h ưởng rõ r ệt do các y ếu tố tự nhiên: chế độ thủy văn (dòng chảy từ thượng lưu và tri ều từ bi ển Đông), đặc đi ểm th ổ nhưỡng (đất phèn). Đặc biệt CLN các sông rạch bị tác đ ộng rõ r ệt do các ngu ồn gây ô nhi ễm do hoạt động sinh hoạt, công nghiệp, nông, ngư nghiệp, thủy lợi, tạo ra sự bi ến đ ổi r ất m ạnh về mức độ ô nhiễm theo không gian và thời gian. 2. Hiện nay sông rạch trong lưu vực sông Đ ồng Nai – Sài Gòn ti ếp nh ận kho ảng 1,2 tri ệu m nước thải công nghiệp và hàng triệu m3 nước thải từ đồng ruộng, trang trại thủy sản. Đến 3 năm 2020 lưu lượng nước thải sinh hoạt sẽ lên tới trên 2,2 tri ệu m 3/ngày (tăng 1,8 lần so với năm 2007), lưu lượng nước thải công nghiệp sẽ tăng đến hơn 2,8 triệu m 3/ngày (tăng 8,3 lần so với năm 2007 nếu các KCN, CCN đã quy hoạch được lấp đầy) Như vậy trong tương lai nguy cơ ô nhiễm nguồn n ước sông, kênh rạch ở TP H ồ Chí Minh không những không giảm mà còn gia tăng nhanh chóng, đặc bi ệt là ô nhi ễm do ch ất th ải công nghiệp. Đây là cảnh báo khẩn cấp cho công tác bảo vệ và phục hồi CLN ở TP H ồ Chí Minh phục vụ cấp nước an toàn cho sinh hoạt, thủy sản, du lịch và nông nghiệp. 3. Bằng đo đạc, phân tích liên tục CLN theo chiều dài các dòng sông, kênh r ạch k ết h ợp s ố liệu phân tích vào 2 mùa trong năm 2007 tại 35 điểm đại diện Đề tài đã xác định rõ ràng sự phân bố các vùng nước bị nhiễm mặn, bị axit hóa, bị ô nhiễm do các chất hữu cơ, dinh d ưỡng, dầu mỡ và vi sinh. Các bản đồ (số hóa) về diễn biến các thành phần ô nhiễm này đã đ ược xây dựng. Đường cong biến đổi oxy hòa tan (DO, đặc trưng cho ô nhi ễm h ữu c ơ) d ọc sông Sài Gòn kéo dài đến Lòng Tàu ra biển đã được xác lập. Đây là các tài li ệu có giá tr ị cao ph ục v ụ cho việc đánh giá diễn biến CLN hiện nay và trong tương lai, ph ục v ụ qu ản lý môi tr ường, c ảnh báo ô nhiễm và cung cấp thông tin cho việc sử dụng nước. 4. Bằng việc lựa chọn 10 thông số đặc trưng ( DO, BOD, SS, T.coliform, pH, T ổng N, Đ ộ đục, Dầu mỡ, COD, Tổng P) vận dụng và c ải ti ến các mô hình WQI c ủa Hoa Kỳ và Ấn Đ ộ). Đề tài đã lập mô hình WQI phù hợp cho đặc điểm môi trường nước TP Hồ Chí Minh (ký hi ệu WQI – NSF/HCM, WQIB – HCM và HCM - WQI). Trên cơ sở số liệu phân tích CLN của Đề tài giá trị WQI của từng điểm trong 35 điểm khảo sát đại di ện trên các sông r ạch chính đã đ ược tính toán. Dựa theo thang điểm của Hệ thống HCM – WQI CLN c ủa t ừng đi ểm đã đ ược phân loại. Kết quả cho thấy không có điểm nào ở TP Hồ Chí Minh đạt loại I (rất tốt - ô nhiễm nhẹ), chỉ có một số điểm trên sông Sài Gòn, Đồng Nai và một số sông ở Cần Gi ờ đ ạt lo ại II (t ốt, ô nhiễm nhẹ); phần lớn các điểm trên sông Đồng Nai và Sài Gòn, các sông ở C ần Gi ờ ch ỉ đ ạt loại III (trung bình, ô nhiễm trung bình); phần lớn các sông Chợ Đệm, Cần Giu ộc, kênh An H ạ, Thầy Cai, Rạch Tra, các sông rạch ở Bình Chánh, Nhà Bè, Hóc Môn ch ỉ đ ạt lo ại IV (kém, ô nhiễm nặng); phần lớn các kênh rạch ở các quận n ội thành chỉ đạt lo ại IV và V (r ất kém, ô nhiễm rất nặng). Kết quả phân loại CLN theo WQI được tính bằng ph ần m ềm có tính khách quan, do vậy có thể làm cơ sở cho công tác quan trắc môi trường nước s ử d ụng n ước và c ải tạo ô nhiễm trong các năm tới. Đây là lần đầu tiên ở lưu vực sông Đồng Nai – Sài Gòn và các sông phíaNam được phân
  5. loại CLN theo hệ thống WQI có tính quốc tế hóa. 5. Mô hình HCM – WQI theo 6 thông số, cũng có thể áp d ụng. K ết qu ả phân lo ại CLN theo hệ thống 10 thông số và 6 thông số ở từng đi ểm về c ơ bản là th ống nh ất, không có s ự chênh lệch lớn. 6. Dựa vào kết quả phân loại CLN theo WQI ở 35 điểm kết hợp chặt chẽ với kết quả của phương pháp đo đạc, phân tích CLN liên tục theo chiều dài các dòng sông, kênh rạch và 2 mùa theo 6 thông số đặc trưng chung cho ô nhiễm: hữu c ơ (qua DO), mặn hóa (qua đ ộ m ặn, EC), ô nhiễm do yếu tố tự nhiên và nước thải (qua độ đục), đề tài đã phân vùng CLN các sông kênh rạch khu vực TP Hồ Chí Minh. Việc phân vùng CLN đ ược th ực hi ện c ả theo y ếu t ố t ự nhiên (phân vùng theo nhiễm phèn và nhiễm mặn) và theo ô nhiễm do tự nhiên kết h ợp ho ạt đ ộng của con người (theo WQI). Phân vùng theo yếu tố tự nhiên (nhiễm m ặn, nhi ễm phèn) đ ược thực hiện theo kết quả đo đạc, phân tích trực tiếp; phân vùng theo ô nhi ễm được thực hi ện d ựa theo phân loại WQI. Các bản đồ phân vùng CLN (GIS) theo 2 mùa đã được xây d ựng. Đây là lần đầu tiên các bản đồ phân vùng CLN theo WQI được thực hiện ở Việt Nam. 7. Dựa vào kết quả phân vùng CLN kết hợp khảo sát thực địa ý ki ến thu th ập qua các b ảng câu hỏi và các TCVN về chất lượng nước. Đề tài đã đánh giá và đề xuất kh ả năng sử d ụng nước các vùng môi trường nước ở TP Hồ Chí Minh. Theo đó mức độ phù hợp (đ ộ an toàn) cho cấp nước sinh hoạt, thủy sản, du lịch, thủy lợi ở từng đo ạn sông đã đ ược đánh giá. K ết qu ả cho thấy một số đoạn ở sông Đồng Nai, Sài Gòn có thể cấp nước cho các nhà máy n ước nhưng yêu cầu phải xử lý đặc biệt, đoạn sông này cũng phục v ụ cho th ủy l ợi, th ủy s ản n ước ng ọt và du lịch. Phần lớn các đoạn sông ở Cần Giờ có thể phục vụ th ủy sản n ước m ặn – l ợ nh ưng v ới các mức độ phù hợp khác nhau. Nguồn nước các sông Chợ Đệm, kênh An Hạ, Rạch Tra, Thầy Cai, rạch Cần Giuộc và các sông ở Nhà Bè không phù h ợp cho th ủy l ợi và c ấp n ước sinh ho ạt. Các kênh rạch khu vực nội thành không thể sử dụng cho các mục đích trên. 8. Mặc dầu Đề tài không có mục đích đề xuất các giải pháp cải tạo ô nhi ễm, b ảo v ệ môi trường nước nhưng với các kết quả nghiên cứu trên cũng cho phép định hướng về các mục tiêu ưu tiên về bảo vệ và phục hồi CLN ở các sông rạch trên địa bàn TP Hồ Chí Minh.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2