Phần thứ ba<br />
<br />
PHƯƠNG TIỆN SỐNG<br />
CỦA NÔNG DÂN<br />
BẮC KỲ<br />
<br />
C h ư ơ n g<br />
<br />
m ộ t<br />
<br />
NÔNG NGHIỆP<br />
<br />
T<br />
<br />
ính chất nổi bật hơn cả trong địa lý nhân văn của châu thổ Bắc kỳ<br />
là mật độ dân số; sự kiện chủ yếu đó thậm chí còn chi phối cảnh trí<br />
<br />
của xứ này. Những phương tiện sinh sống của những người nông dân ấy ra<br />
sao, làm thế nào mà những khối người chen chúc đến thế có thể tìm cách<br />
để sống được? Đó là những vấn đề bây giờ cần trả lời.<br />
Nông nghiệp là nguồn sinh sống cơ bản của người nông dân Bắc kỳ.<br />
Người nông dân sống trên miếng đất quá chật chội ấy đã khai thác đất<br />
đai một cách triệt để; lề lối canh tác thì cổ xưa, nhưng có hiệu quả, vả<br />
chăng người nông dân dễ dàng chấp nhận những loại cây trồng và những<br />
phương pháp trồng trọt mới. Người nông dân Bắc kỳ còn kiếm thêm được<br />
nguồn lợi ở những nghề phụ: thủ công, lao động ở thành thị, đi làm ăn xa,<br />
tuy nhiên nghề nông vẫn cung cấp cho họ phần lớn thu nhập. Không thể<br />
đánh giá được một cách thật chính xác phần riêng của nông nghiệp trong<br />
tổng thu nhập của người nông dân Bắc kỳ, nhưng có thể chắc chắn rằng<br />
nó vượt quá 8/10 của tổng số đó. Người Việt Nam hiểu rất rõ tất cả những<br />
cái họ thu được từ nông nghiệp và ngành này chẳng bị khinh rẻ chút nào.<br />
Trong thang bậc truyền thống (nhưng cần phải công nhận rằng thang bậc<br />
đó không có ý nghĩa gì lớn lắm) nếu các nhà nho (sĩ) đứng ở hàng đầu,<br />
thì những người làm ruộng (nông) lại được xếp hàng thứ hai, còn những<br />
người thợ thủ công (công) và những người buôn bán (thương) thì chỉ được<br />
xếp hàng thứ ba và thứ tư.<br />
<br />
P h ư ơ n g t i ệ n s ố n g c ủ a n ô n g d â n B ắ c k ỳ 413<br />
<br />
Tổng diện tích cày cấy ở châu thổ có bao nhiêu? Không phải dễ dàng<br />
gì mà biết được điều này. Đúng thế, không hề có một cuộc điều tra nào<br />
hoàn toàn chính xác về vấn đề đó. Những số liệu về thuế má không thể sử<br />
dụng được nếu không có những sự dè dặt cần thiết: những ruộng ẩn lậu<br />
thì không đóng thuế, và mặt khác không có gì chắc chắn rằng tất cả những<br />
ruộng đóng thuế đều được cày cấy. Chúng tôi biết có những làng đóng<br />
thuế cho những đất không thể sử dụng được, nhưng sau này sẽ có thể cấy<br />
cày được. Trong trường hợp này, làng đóng thuế để giữ lấy quyền sở hữu<br />
về mảnh đất đó để nó khỏi rơi vào tay Nhà nước. Ngoài ra, những đất thổ<br />
cư không phải không có giá trị nông nghiệp: ngay giữa làng xóm, người ta<br />
vẫn thấy có những bãi trồng màu, những cây ăn quả, những vườn rau, và<br />
ngay cả ruộng lúa nữa; do đó, không thể hoàn toàn trừ làng xóm ra khỏi<br />
diện tích trồng trọt được. Cuối cùng là, trong các con số ước lượng diện<br />
tích trồng trọt các bờ ruộng cũng được kể vào, các bờ này chính ra phải<br />
được trừ đi, vì chúng chiếm không kém 3% diện tích đất đai. Vì thế cho<br />
nên, muốn tìm diện tích trồng trọt thì tốt hơn cả là phải đem trừ ra khỏi<br />
tổng diện tích những phần không được trồng trọt. Những phần không<br />
được trồng trọt là: đồi, đất thành thị, đê, đường đi to nhỏ, bờ ruộng, nghĩa<br />
địa, nơi thờ cúng giữa cánh đồng, ao đầm, sông suối, nhà ở, bãi sú vẹt..<br />
Các ngọn đồi chiếm một diện tích là 250 km2 châu thổ. Diện tích đồi<br />
tại phía bắc lớn hơn ở phía nam. Tỉnh Thái Bình không có một mỏm núi<br />
nào trong khi đó thì Bắc Ninh, Bắc Giang có rất nhiều đồi. Những khoảnh<br />
đất bậc thang không được trồng trọt trong tỉnh Bắc Giang chiếm một<br />
diện tích khá rộng: tỷ dụ người ta thường nhất trí chỉ cho phủ Lạng Giang<br />
(Bắc Giang) có một diện tích 19.000 ha ruộng lúa thôi1, trong khi đó tổng<br />
diện tích của phủ là 38.000 ha. Trong phần tỉnh Bắc Giang thuộc châu<br />
thổ, những bậc thềm không trồng trọt chiếm 29.300 ha, trên 134.000 ha,<br />
<br />
1<br />
<br />
Theo Ressencourt thì ruộng lúa chỉ có diện tích là 15.000 ha, vì theo nhà quan sát thì<br />
ở đây có ít ruộng cày cấy hơn là ruộng đóng thuế; các ruộng hữu danh vô thực dường<br />
như chiếm gần 4.000 ha. Trong khi chỉ đạo chọn giống tằm ở Phủ Lạng Thương, ông<br />
Ressencourt có tiến hành điều tra tỉ mỉ tỉnh Bắc Giang, trong cuộc điều tra đó, ông đặc<br />
biệt xác định diện tích ruộng đất không trồng trọt ở mỗi xã, nghĩa là các bậc thềm và<br />
đồi. Tỉ dụ, trong riêng phủ Lạng Giang, ruộng đất không trồng trọt đó chiếm diện tích là<br />
8.114 ha.<br />
<br />
414 P I E R R E G O U R O U<br />
<br />
tức bằng 21% tổng diện tích. Như vậy không có gì là quá đáng nếu đem<br />
trừ khỏi diện tích có thể trồng trọt được 300 km2 các đất bậc thềm phía<br />
bắc, không những ở Bắc Giang mà cả ở Thái Nguyên, Phúc Yên và Vĩnh<br />
Yên nữa.<br />
Diện tích đất thành thị thì không lớn. Ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng,<br />
Nam Định chiếm diện tích 20 km2; những thị trấn nhỏ khác tổng cộng<br />
không chiếm quá 5 km2.<br />
Nhờ có một cuộc điều tra về diện tích ao đầm, chúng tôi biết được rằng<br />
đầm ao chiếm trung bình 1,6% diện tích châu thổ. Theo sự tính toán tiến<br />
hành trên tất cả các làng thuộc huyện Thanh Oai (Hà Đông)1, có thể tính ra<br />
các sông ngòi chiếm trung bình 2% diện tích của huyện này. Chúng tôi lấy<br />
tỉ số này áp dụng rộng ra cho toàn bộ châu thổ nhưng vẫn thấy rằng tỉ số ấy<br />
còn quá thấp vì ở miền hạ châu thổ các con sông lớn chia thành nhiều chi<br />
lưu và phình to ra: vùng phía bắc Hải Phòng, chúng chiếm tới 15% diện tích<br />
của một số mảnh bản đồ tỉ lệ 1/25.000.<br />
Đất đê ở châu thổ chiếm tổng diện tích là 1.100 km2, trong số đó ít ra<br />
có thể khấu đi 2/10 dành cho diện tích trồng trọt. Theo các chỉ số phần<br />
trăm đã tính cho huyện Thanh Oai, các đường đi to nhỏ và đê chiếm 1%<br />
tổng diện tích, các nghĩa địa chỉ chiếm 0,82%. Tỉ số này dường như có vẻ<br />
thấp đối với một dân tộc có tục chôn người chết và rất tôn thờ người chết:<br />
nhưng tất cả những người chết không phải đều được chôn ở nghĩa địa,<br />
nhiều ngôi mộ được đặt ngay giữa ruộng và chỉ là một nấm đất nhô lên trên<br />
mặt nước, được người đi cày tôn trọng chừa ra không động đến. Những đền<br />
chùa dựng ngay ngoài làng chiếm 0,3% tổng diện tích; các bờ ruộng chiếm<br />
khoảng 2 đến 3%; các bãi sú vẹt chiếm gần 250 km2.<br />
Tổng cộng có 20% đất đai không trồng trọt hay 3.000 km2. Như vậy<br />
phần trồng trọt chỉ chiếm có 1.200 km2, và chỉ có 1 ha trồng trọt cho hơn<br />
5 nhân khẩu.<br />
Các điều kiện thiên nhiên của nông nghiệp đã được trình bày. Nay xin<br />
bàn đến các điều kiện xã hội của nó, nghĩa là chế độ sở hữu.<br />
<br />
1<br />
<br />
Những sự tính toán này sở dĩ tiến hành được là nhờ ở lòng sốt sắng của ông Michel,<br />
giám đốc Sở Địa chính.<br />
<br />
P h ư ơ n g t i ệ n s ố n g c ủ a n ô n g d â n B ắ c k ỳ 415<br />
<br />