intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhan đề tác phẩm văn học Pháp và phương pháp chuyển dịch sang tiếng Việt

Chia sẻ: Kethamoi Kethamoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

74
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhan đề là yếu tố không thể tách rời của một tác phẩm văn học, giúp người đọc tiếp cận tác phẩm một cách nhanh chóng trên nhiều bình diện khác nhau. Cách đặt nhan đề thể hiện khả năng sáng tạo, ý đồ, tình cảm của mỗi tác giả. Trên thực tế, việc giải mã và chuyển dịch nhan đề tác phẩm văn học nói chung, nhan đề tác phẩm văn học Pháp nói riêng sang tiếng Việt tưởng chừng đơn giản song thường đặt ra những vấn đề khó khăn cho dịch giả, những nhà nghiên cứu ngôn ngữ, có khi còn là tâm điểm gây tranh luận. Trong khuôn khổ bài báo, chúng tôi sẽ trình bày những nét đặc trưng của nhan đề tác phẩm văn học, nghiên cứu và chia sẻ cảm nhận về những cách chuyển dịch nhan đề một số tác phẩm văn học Pháp sang tiếng Việt. Hy vọng ít nhiều hữu ích cho các giảng viên tiếng Pháp nói chung, giảng viên dạy bộ môn văn học Pháp nói riêng cũng như các bạn học viên, sinh viên học tiếng Pháp trong quá trình tiếp cận ngôn ngữ và văn học Pháp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhan đề tác phẩm văn học Pháp và phương pháp chuyển dịch sang tiếng Việt

dịch thuật v<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> NHAN ĐỀ TÁC PHẨM VĂN HỌC PHÁP<br /> VÀ PHƯƠNG PHÁP CHUYỂN DỊCH<br /> SANG TIẾNG VIỆT<br /> NGUYỄN THU HÒA*, VŨ ANH BA**<br /> *<br /> Học viện Khoa học Quân sự,  hoa.nguyen26178@gmail.com<br /> **<br /> Học viện Khoa học Quân sự,  vuanhba1161982@gmail.com<br /> Ngày nhận bài: 22/3/2019; ngày sửa chữa: 09/4/2019; ngày duyệt đăng: 15/5/2019<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Nhan đề là yếu tố không thể tách rời của một tác phẩm văn học, giúp người đọc tiếp cận tác phẩm<br /> một cách nhanh chóng trên nhiều bình diện khác nhau. Cách đặt nhan đề thể hiện khả năng sáng<br /> tạo, ý đồ, tình cảm của mỗi tác giả. Trên thực tế, việc giải mã và chuyển dịch nhan đề tác phẩm<br /> văn học nói chung, nhan đề tác phẩm văn học Pháp nói riêng sang tiếng Việt tưởng chừng đơn<br /> giản song thường đặt ra những vấn đề khó khăn cho dịch giả, những nhà nghiên cứu ngôn ngữ, có<br /> khi còn là tâm điểm gây tranh luận. Trong khuôn khổ bài báo, chúng tôi sẽ trình bày những nét đặc<br /> trưng của nhan đề tác phẩm văn học, nghiên cứu và chia sẻ cảm nhận về những cách chuyển dịch<br /> nhan đề một số tác phẩm văn học Pháp sang tiếng Việt. Hy vọng ít nhiều hữu ích cho các giảng<br /> viên tiếng Pháp nói chung, giảng viên dạy bộ môn văn học Pháp nói riêng cũng như các bạn học<br /> viên, sinh viên học tiếng Pháp trong quá trình tiếp cận ngôn ngữ và văn học Pháp.<br /> Từ khóa: nhan đề, tác phẩm văn học Pháp, chuyển dịch, tiếng Việt<br /> <br /> <br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ gần như có chung một cách chuyển dịch sang tiếng<br /> Việt (cho dù được tái bản, được một dịch giả khác<br /> Trong xu thế toàn cầu hóa, giao lưu, hợp tác dịch lại) trong khi một số nhan đề có thể có nhiều<br /> trên các lĩnh vực phát triển mạnh mẽ, văn học cách chuyển dịch khác nhau; mức độ Tín, Đạt,<br /> nước ngoài được du nhập ngày càng nhiều vào<br /> Nhã cũng khác nhau? Sự khác biệt trong những<br /> Việt Nam. Độc giả Việt Nam đã từng rất quen<br /> cách chuyển dịch đó nói lên điều gì? Ý đồ của dịch<br /> thuộc với những bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine,<br /> giả và những ấn tượng mà các nhan đề dịch đem<br /> tiểu thuyết của Victor Hugo hay Balzac tiếp tục<br /> chào đón những ấn phẩm dịch các tác phẩm của lại cho độc giả như thế nào? Những yếu tố nào gây<br /> những nhà văn đương đại nổi tiếng của Pháp như khó khăn cho dịch giả và người học tiếng Pháp khi<br /> Guillaume Musso, Marc Levy… Dịch văn học nghiên cứu và chuyển dịch nhan đề một tác phẩm<br /> ngày càng phát triển ở Việt Nam song cũng đặt ra văn học Pháp sang tiếng Việt? Những trăn trở đó là<br /> không ít vấn đề suy ngẫm không chỉ đối với dịch nguồn động lực để chúng tôi mạnh dạn khám phá<br /> giả, nhà nghiên cứu ngôn ngữ mà ngay cả các độc khu vườn muôn màu của dịch văn học nói chung<br /> giả Việt Nam. Tại sao có những nhan đề tác phẩm và dịch nhan đề tác phẩm văn học Pháp nói riêng.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 20 (7/2019) 63<br /> v Dịch thuật<br /> <br /> <br /> 2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHAN ĐỀ Theo Tehrani và Raissonssadati (1974, tr.87-88)<br /> TÁC PHẨM VĂN HỌC nhan đề có ba chức năng chính, bao gồm: chức<br /> năng gọi tên (fonction appellative), chức năng<br /> 2.1. Khái niệm tham chiếu (fonction référentielle) và chức năng<br /> thu hút độc giả (fonction séductive). Genette<br /> Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý, 2008,<br /> (1987, tr.96) bổ sung thêm chức năng hàm ngôn<br /> tr.1149) đưa ra một định nghĩa ngắn gọn cho nhan<br /> (fonction connotative).<br /> đề: “tên đặt cho cuốn sách hoặc bài viết”.<br /> - Chức năng gọi tên (fonction appellative):<br /> Theo Từ điển Hachette (Mauffrey A., Cohen I,<br /> Đây là chức năng đầu tiên của nhan đề, cho phép<br /> 1987, tr.173), nhan đề là một phát biểu dùng để gọi nhận diện một tác phẩm văn học và phân biệt nó<br /> tên một văn bản và thường gợi mở nội dung của văn với các tác phẩm văn học khác. Nhan đề những<br /> bản (“énoncé servant à nommer un texte, et qui, tác phẩm văn học lớn có sức sống mãnh liệt trong<br /> le plus souvent, évoque le contenu de celui-ci”). lòng độc giả, nhiều trường hợp độc giả nhớ tên tác<br /> phẩm hơn tên tác giả.<br /> Tehrani và Raissonssadati (1974, tr.84) cho<br /> rằng, nhan đề là một tập hợp ngữ đoạn được liên - Chức năng tham chiếu (fonction référentielle)<br /> kết chặt chẽ và trả lời cho một số câu hỏi nhằm hay chức năng thông tin (fonction informative):<br /> hỗ trợ quá trình đọc hiểu và định hướng cho độc Đây là chức năng phổ biến của nhan đề, đặc biệt<br /> giả (“… le titre comme un ensemble de syntagmes là với những nhan đề rõ ràng, mang tính miêu<br /> étalés les uns sur les autres, répondant à un tả. Chức năng tham chiếu của nhan đề cho phép<br /> certain nombre de questions, qui facilite la lecture người đọc có những thông tin ban đầu xoay quanh<br /> et guide le lecteur”). Eco (1985) thì cho rằng mỗi tác phẩm. Ví dụ:<br /> nhan đề là một chiếc chìa khóa giải mã (“clef<br /> interprétative”). + về thể loại: Ode à Cassandre (Pierre de<br /> Ronsard), Essais (Montaigne)…<br /> Từ các quan điểm đó có thể hiểu rằng, nhan<br /> đề tác phẩm văn học là đầu đề, là tên của một + về sự kiện hoặc nội dung chính: Cinq<br /> tác phẩm văn học, thường do người viết (tác giả) semaines en ballon (Jules Verne), Le dernier jour<br /> đặt ra. Nhan đề có thể coi như gương mặt của tác d’un condamné (Victor Hugo), À la recherche du<br /> phẩm, là cái nổi bật nhất để phân biệt tác phẩm này temps perdu (Marcel Proust)…<br /> với tác phẩm khác. Việc đặt tên cho“đứa con tinh<br /> + về địa điểm: Autour de la Lune (Jules Verne),<br /> thần”của mình, luôn khiến các nhà văn trăn trở bởi<br /> Aux champs (Guy de Maupassant), L’archipel de<br /> cái tên là nơi gửi gắm rất nhiều thông điệp và tình<br /> la Manche (Victor Hugo), Le Lac (Lamartine)…<br /> cảm của tác giả. Chúng tôi nhìn nhận nhan đề tác<br /> phẩm văn học với tư cách là một yếu tố tiếp cận tác + về thời gian: L’Été (Albert Camus), Demain<br /> phẩm đầu tiên, một tín hiệu nghệ thuật có vai trò dès l’aube (Victor Hugo)…<br /> định hướng và hỗ trợ quá trình đọc hiểu của độc giả.<br /> Vì lẽ đó, chúng tôi không nghiên cứu các tác phẩm + về nhân vật chính hoặc đối tượng chính<br /> văn học được đặt theo kiểu vô đề (khuyết danh). trong tác phẩm: Le bossu de Notre-Dame (Victor<br /> Hugo), L’homme qui rit (Honoré de Balzac), La<br /> 2.2. Chức năng của nhan đề tác phẩm văn học main écorchée (Guy de Maupassant), Les Rougon-<br /> Macquart (Émile Zola), L’homme révolté (Albert<br /> Nhan đề có ý nghĩa rất quan trọng trong quá Camus), Les yeux d’Elsa (Louis Aragon)…<br /> trình tìm hiểu và cảm thụ một tác phẩm văn học.<br /> Mỗi nhan đề thường đảm nhiệm nhiều chức năng. + về cảm xúc: Illusions perdues (Honoré de<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 64 Số 20 (7/2019)<br /> dịch thuật v<br /> <br /> <br /> <br /> Balzac), La joie de vivre (Émile Zola), La douleur đặt tên cho tác phẩm của mình. Nhan đề tác phẩm<br /> (Marguerite Duras)… văn học có thể là một danh từ hoặc một ngữ danh từ;<br /> có thể là danh từ riêng, danh từ chung, danh từ cụ<br /> - Chức năng hàm ngôn (fonction connotative): thể, danh từ trừu tượng. Nhiều tác giả có xu hướng<br /> Thường một nhan đề có mối quan hệ ẩn dụ với sử dụng danh từ riêng chỉ tên nhân vật chính, tên<br /> đối tượng của tác phẩm (nhan đề hàm ẩn) sẽ mang địa danh quan trọng để đặt tên cho tác phẩm của<br /> chức năng hàm ngôn, nhất là với những lối diễn mình như: Don Juan (Molière), Madame Bovary<br /> đạt quen thuộc hoặc những nghĩa mở rộng về văn<br /> (Flaubert), Eugénie Grandet (Honoré de Balzac),<br /> hóa. Ví dụ tiểu thuyết Le mythe de Sisyphe của<br /> Le pont Mirabeau (Lamartine), Notre-Dame de<br /> Albert Camus liên quan đến huyền thoại Hy Lạp<br /> Paris (Victor Hugo)…<br /> hay nhan đề bài thơ Le dormeur du val của Arthur<br /> Rimbaud gợi lên mối quan hệ ẩn dụ giữa hình ảnh Nếu là danh từ chung thì thường để chỉ nghề<br /> một người trai trẻ đang ngủ say trong thung lũng nghiệp, xuất thân, ngoại hình, tính cách hoặc<br /> với đối tượng được nói đến chính xác trong bài thơ<br /> mối quan hệ, vị thế của nhân vật chính như: Les<br /> là một người lính đã hy sinh, từ đó cho thấy tình<br /> travailleurs de la mer (Victor Hugo), Les Indes<br /> cảm và thông điệp của tác giả gửi gắm qua nhan đề.<br /> noires (Jules Verne), Le bossu de Notre-Dame<br /> - Chức năng thu hút độc giả (fonction séductive): (Victor Hugo), L’avare (Molière), L’amant<br /> Ngoài những chức năng cơ bản trên, nhan đề còn (Marguerite Duras), Le Député d’Arcis (Honoré<br /> có chức năng thu hút sự quan tâm của độc giả. de Balzac)… Không ít trường hợp nhan đề là danh<br /> Nhiều nhan đề thoạt nhìn thấy, nghe thấy, chúng từ chung chỉ một đối tượng, một sự kiện hoặc một<br /> ta đã hiếu kỳ muốn tìm đọc tác phẩm trong khi cảm xúc nổi bật: La peau de chagrin (Honoré<br /> có những nhan đề không hề gây ấn tượng với độc de Balzac), Automne (Paul Verlaine), Voyage au<br /> giả. Không ít tác phẩm bán chạy, dễ đến với công centre de la Terre (Jules Verne), Les châtiments<br /> chúng cũng một phần nhờ vào nhan đề tác phẩm. (Victor Hugo), La chute (Émile Zola), La douleur<br /> (Marguerite Duras)…<br /> 2.3. Đặc điểm cấu tạo của nhan đề tác phẩm<br /> văn học Chúng ta cũng biết đến những nhan đề được<br /> Xét về cấu tạo hay về mặt hình thái, chúng ta cấu tạo từ tính từ [(Fort comme la mort (Guy<br /> nhận thấy nhan đề tác phẩm văn học có thể là một de Maupassant), Modeste Mignon (Honoré<br /> từ, một ngữ, một mệnh đề hoặc một câu và độ dài de Balzac)]; từ động từ nguyên thể [Écrire<br /> ngắn cũng khác nhau. (Marguerite Duras), Fendre l’armure (Anna<br /> Gavalda), Vous revoir (Levy)]; từ trạng từ hoặc<br /> Trường hợp nhan đề là một mệnh đề hay một phó từ [Parallèlement (Paul Verlaine), Demain<br /> câu, có thể kể đến một số tác phẩm sau: Tous les (Guillaume Musso)]; từ đại từ [Lui?(Guy de<br /> hommes sont mortels (Simone de Beauvoir); Il Maupassant), Ceux qui savent comprendront<br /> pleure dans mon cœur (Paul Verlaine); Si c’était (Anna Gavalda), Elle et lui (Marc Levy)] hoặc<br /> à refaire, Et si c’était vrai…, Où es-tu? (Marc từ giới từ [Sans dessus dessous, De la Terre à la<br /> Levy); Parce que je t’aime (Guillaume Musso);<br /> Lune (Jules Verne); En famille, Sur l’eau (Guy de<br /> Je voudrais que quelqu’un m’attende quelque<br /> Maupassant)], thậm chí cả thán từ [Ah! Ernesto<br /> part, Ensemble, c’est tout hay Je l’aimais (Anna<br /> (Marguerite Duras)]. Bên cạnh đó, không hiếm<br /> Gavalda), Un cirque passe (Patrick Modiano)…<br /> trường hợp nhan đề tác phẩm là những con số: Le<br /> Khi nhan đề là một từ hoặc một ngữ, các từ loại quatorze Juillet (Romain Roland), Cinq semaines<br /> cấu thành nên nhan đề rất đa dạng; trong đó, danh en ballon, Vingt mille lieues sous les mers (Jules<br /> từ là từ loại được các tác giả sử dụng nhiều nhất để Verne), Quatrevingt-treize (Victor Hugo)…<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 20 (7/2019) 65<br /> v Dịch thuật<br /> <br /> <br /> Tóm lại, cách đặt tên cho tác phẩm văn học rất (André Breton), Le rouge et le noir (Stendhal),<br /> phong phú, thể hiện phong cách, ý đồ của mỗi tác Le dormeur du val (Arthur Rimbaud), La nausée<br /> giả. Người thích dài, người thích ngắn, người thích (Jean-Paul Sartres), L’endroit et l’envers (Albert<br /> gây ấn tượng, người thích che giấu ý đồ: Trong Camus)…<br /> khi Balzac, nhà văn hiện thực Pháp nổi tiếng của<br /> thế kỷ XIX, được biết đến qua những tiểu thuyết Như vậy, có thể phân biệt ngắn gọn sự khác<br /> có nhan đề ngắn gọn, rõ ràng và thường liên quan nhau giữa nhan đề tường minh và nhan đề hàm ẩn<br /> đến nhân vật chính trong truyện nhằm tái hiện nằm ở tính cụ thể, tường minh hay tính trừu tượng<br /> những cảnh đời khác nhau trong một “Tấn trò đời” của nội dung mà mỗi loại nhan đề đem đến cho<br /> (La Comédie humaine) thì tiểu thuyết gia đương người đọc. Thông thường, khi đọc nhan đề tường<br /> đại Marc Levy lại thiên về những nhan đề dài và minh, người đọc có thể hiểu ngay và hiểu chính<br /> thường liên quan đến ngôi thứ ba chung chung nào xác thông tin được đề cập còn với nhan đề hàm ẩn<br /> đó. Nhan đề không chỉ thể hiện phong cách riêng thì thường phải đọc tác phẩm, thậm chí đọc toàn bộ<br /> của từng tác giả mà còn mang dấu ấn thời đại. tác phẩm mới có thể tìm được mối liên hệ giữa nội<br /> Chẳng hạn, với các tác phẩm thế kỷ XVII, XIX, dung tác phẩm với nhan đề. Tuy nhiên, việc phân<br /> nhan đề thường là danh từ hoặc ngữ danh từ, có loại thành nhan đề tường minh và nhan đề hàm ẩn<br /> quan hệ mật thiết với nội dung của tác phẩm trong không phải lúc nào thuần nhất: điều này phụ thuộc<br /> khi các tác giả thế kỷ XX, XXI lại có nhiều cách một phần vào khả năng cảm thụ của độc giả, một<br /> đặt nhan đề táo bạo hơn và một số tác giả có xu phần vào những lớp nghĩa mà một số nhan đề có<br /> hướng đặt nhan đề theo kiểu mệnh đề hoặc câu, thể thâu đựng trong nó.<br /> mang ý nghĩa hàm ẩn sâu sắc.<br /> 3. DỊCH NHAN ĐỀ TÁC PHẨM VĂN HỌC<br /> 2.4. Phân loại nhan đề tác phẩm văn học PHÁP SANG TIẾNG VIỆT<br /> <br /> Tehrani và Raissonssadati (1974, tr.87-88) 3.1. Một số vấn đề liên quan đến dịch nhan<br /> phân loại nhan đề tác phẩm văn học thành nhan đề đề tác phẩm văn học Pháp sang tiếng Việt<br /> tường minh (titres explicites) và nhan đề hàm ẩn<br /> (titres implicites). Theo Nida và Charles (1974), dịch thuật là tái<br /> tạo lại trong ngôn ngữ tiếp nhận (receptor language)<br /> Nhan đề tường minh (titres explicites) là những sự tương đương tự nhiên và sát với thông điệp của<br /> nhan đề có mối quan hệ chặt chẽ với nội dung của ngôn ngữ nguồn (source language), trước hết là về<br /> tác phẩm, có thể hiểu ngay và được hiểu mạch nghĩa (meaning) và sau đó là phong cách (style).<br /> lạc, ví dụ: Le père Goriot (Honoré de Balzac), Dịch văn học cũng vậy và được biết đến là một<br /> L’invité (Simone de Beauvoir), Mon ami (Guy de lĩnh vực đặc thù, khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian,<br /> Maupassant), Les misérables (Victor Hugo), Le công sức, phải qua nhiều khâu, nhiều bước để có<br /> docteur Pascal (Émile Zola), Vingt mille lieues được một bản dịch được độc giả tiếp nhận tích cực.<br /> sous les mers (Jules Verne)...<br /> Dịch giả Trần Đình Hiến, người từng chia sẻ<br /> Trái lại, nhan đề hàm ẩn (titres implicites) mất ba tháng để lựa ra cái tên Báu vật của đời cho<br /> không có mối quan hệ tường minh với nội dung bản dịch của nhà văn Trung Quốc Mạc Ngôn (giải<br /> tác phẩm, thường gây khó hiểu (có khi còn gây Nobel Văn học năm 2012) mà không dừng lại ở vẻ<br /> hiểu lầm) và khó giải thích cho người đọc bởi việc đẹp phồn thực của người phụ nữ như cái tên trong<br /> sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nguyên gốc là Phong nhũ phì đồn, đã khái quát các<br /> lối nói ám chỉ, thậm chí nói ngược… Chúng ta có bước chuyển dịch một văn bản văn học bằng tiếng<br /> thể kể ra một số nhan đề loại này như: La peau nước ngoài như sau: Từ văn bản (bao gồm văn hóa<br /> de chagrin (Honoré de Balzac), Le crève-cœur trong nguyên tác) → người dịch → văn bản do<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 66 Số 20 (7/2019)<br /> dịch thuật v<br /> <br /> <br /> <br /> người dịch tạo dựng (bao gồm nội hàm văn hóa qua một phương pháp dịch hiệu quả nhất nhằm chuyển<br /> lăng kính người dịch) → văn bản người dịch công tải rõ nét thông điệp của tác phẩm và tác giả. Trong<br /> bố (bao gồm nội hàm văn hóa mà người dịch có phạm vi nghiên cứu, chúng tôi chỉ tập trung vào<br /> thể công bố) → sự tiếp nhận của độc giả (bao gồm một số phương pháp phổ biến và phù hợp với dịch<br /> nội hàm văn hóa qua lăng kính của người dịch). nhan đề tác phẩm văn học Pháp sang tiếng Việt.<br /> <br /> Rõ ràng dịch văn học không chỉ liên quan đến 3.2. Phương pháp dịch nhan đề tác phẩm<br /> hai ngôn ngữ mà cao hơn nữa ở đó là sự giao lưu văn học Pháp sang tiếng Việt<br /> liên văn hóa. Dịch văn học cũng được hiểu là một<br /> hoạt động nghệ thuật đòi hỏi cao đối với dịch giả 3.2.1. Dịch vay mượn (Emprunt)<br /> cũng như sản phẩm dịch của họ. Một nhan đề tác<br /> Đây là phương pháp dịch đơn giản nhất, dịch<br /> phẩm văn học nước ngoài nói chung và văn học<br /> mà không dịch, bằng cách giữ nguyên một từ hoặc<br /> Pháp nói riêng được chuyển dịch sang tiếng Việt<br /> một cách diễn đạt của ngôn ngữ gốc sang ngôn<br /> đương nhiên cũng phải tuân thủ quy trình trên và<br /> ngữ đích và thường được sử dụng khi không có từ<br /> sản phẩm đó thực chất là quá trình xử lý, kết hợp<br /> tương đương trong ngôn ngữ đích hoặc với những<br /> hài hòa các yếu tố: nguyên văn + bối cảnh văn hóa<br /> từ mới (néologisme) và từ đặc biệt thông dụng.<br /> trong nguyên văn + dịch văn + bối cảnh văn hóa<br /> trong dịch văn + khí chất, phong cách của tác giả Trong dịch nhan đề tác phẩm văn học Pháp<br /> nguyên tác + khí chất, phong cách dịch giả. Một sang tiếng Việt, phương pháp này thường được<br /> sản phẩm dịch văn học nói chung, dịch nhan đề tác sử dụng cho các danh từ chỉ tên riêng, dưới hai<br /> phẩm văn học nói riêng cần đạt đủ ba tiêu chí Tín hình thức: Trước kia, các dịch giả có xu hướng vay<br /> - Đạt - Nhã, thể hiện được ý đồ nghệ thuật của tác mượn từ nhưng biến tấu cách viết phù hợp với đặc<br /> giả và có sức thu hút với độc giả. trưng ngôn ngữ của tiếng Việt: Bố của Xi-mông (Le<br /> papa de Simon, Guy de Maupassant), Người chị<br /> Chúng tôi nhận thấy, khi dịch một tác phẩm họ Bét-tơ (La cousine Bette, Honoré de Balzac),<br /> văn học Pháp, bao gồm cả nhan đề tác phẩm, dịch Ơgiêni Grăng đê (Eugénie Grandet, Honoré de<br /> giả hoặc người nghiên cứu ngôn ngữ có thể phải Balzac), Bá tước Môngtơ Crixtô (Le comte de<br /> đối mặt với những khó khăn, trở ngại như: thiếu Monte Cristo, Alexandre Dumas), Đôi mắt En-xa<br /> kiến thức về tiếng Pháp và tiếng Việt; thiếu kiến (Les yeux d’Elsa, Louis Aragon… Tuy nhiên, hiện<br /> thức văn hóa liên quan cả hai nền văn hóa Việt nay, đa số là vay mượn nguyên bản từ gốc tiếng<br /> Nam và Pháp; sự khác biệt về ngôn ngữ giữa tiếng Pháp: Chú bé thành Paris (Victor Hugo), Bác sỹ<br /> Pháp và tiếng Việt cũng như khác biệt về văn hóa, Pascal (Le docteur Pascal, Émile Zola), Oscar và<br /> thói quen ngôn ngữ, thị hiếu đọc của hai dân tộc; Bà áo hồng (Eric Emmanuel Schmitt)... Những<br /> hiện tượng đồng nghĩa, đa nghĩa của tiếng Pháp và tác phẩm được tái bản, dịch mới cũng thường giữ<br /> tiếng Việt; phong cách đặt nhan đề theo lối chơi nguyên gốc các danh từ chỉ tên riêng như trong<br /> chữ, ám chỉ hay phản nhan đề của một số nhà văn tiếng Pháp: Bố của Simon, Bá tước Monte Cristo.<br /> Pháp... Có trường hợp người dịch hiểu rất rõ vấn Xu hướng này là hợp thời đại, cho phép đảm bảo<br /> đề của bản dịch song không phải lúc nào cũng có sự chính xác thông tin, đồng thời tái hiện được một<br /> thể tìm ra phương án tối ưu thỏa mãn mọi độc giả bối cảnh văn hóa cho văn bản thông qua cấp độ<br /> và đảm bảo tất cả các tiêu chí đối với dịch văn học. ngôn ngữ được sử dụng.<br /> Như chúng ta đã biết, phương pháp và kỹ thuật 3.2.2. Dịch sao chép (Calque) và dịch câu<br /> dịch rất phong phú, mỗi phương pháp chỉ có thể chữ (Traduction littérale)<br /> phát huy được hiệu quả tối đa khi được sử dụng<br /> đúng cách, đúng chỗ. Căn cứ vào từng nhan đề và Dịch sao chép (calque hay traduction mot à<br /> tác phẩm văn học cụ thể, dịch giả có thể lựa chọn mot trong tiếng Pháp, word-for-word trong tiếng<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 20 (7/2019) 67<br /> v Dịch thuật<br /> <br /> <br /> Anh) là cách dịch theo kiểu sao chép bản gốc - Quá trình dịch sao chép từ tiếng Pháp sang<br /> vay mượn và dịch. Đây là phương pháp dịch phổ tiếng Việt, người dịch có thể gặp một số vấn đề<br /> biến đối với nhan đề tác phẩm văn học từ tiếng liên quan chủ yếu đến hiện tượng đa nghĩa, đồng<br /> Pháp sang tiếng Việt, nhất là dạng đặc biệt của nó: nghĩa, đòi hỏi những kỹ thuật xử lý tinh tế.<br /> dịch câu chữ (traduction littérale), nghĩa là dịch sát<br /> từng từ, từng chữ, không thay đổi trật tự từ trong Trước hết liên quan đến từ đa nghĩa tiếng Pháp<br /> văn bản gốc. Ví dụ, các truyện ngắn Une vie, La (polysémie): Nghiên cứu tác phẩm L’Étranger của<br /> main écorchée, Fort comme la mort của Guy de Albert Camus, chúng ta cùng tìm hiểu nghĩa của từ<br /> Maupassant được dịch tương ứng thành Một cuộc étranger trong Từ điển Le Robert plus (Trouillez<br /> đời, Bàn tay bị lột da, Mạnh như cái chết (nhiều E., Le Fur D. 2007, tr.366-367):<br /> dịch giả, Nhà xuất bản Thời đại, 2011); Lê Đình<br /> Chí dịch nhan đề Le voleur d’ombres của Marc Étranger (adj):<br /> Levy sang tiếng Việt là Người trộm bóng (Nhà 1. qui est d’une autre nation<br /> xuất bản Hội Nhà văn, 2012); Dans le café de la 2. relatif aux rapports avec les autres nations<br /> jeunesse perdue được Trần Bạch Lan dịch thành 3. qui n’appartient pas à un groupe<br /> Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối (Nhà xuất bản 4. qui n’est pas naturel à/familier de (qqn)<br /> Văn học, 2014). 5. qui se tient à l’écart de (qqch) <br /> 6. qui ne fait pas partie de<br /> Trên thực tế, có những nhan đề tác phẩm văn<br /> học đòi hỏi người dịch phải trung thành tuyệt đối Étranger (n.m):<br /> với câu từ của bản gốc, bởi sự triệt tiêu một yếu tố<br /> ngôn ngữ nhỏ trong bản gốc có thể dẫn đến hiểu sai 1. personne dont la nationalité n’est pas celle<br /> ý đồ của tác giả. Trường hợp tiểu thuyết Le Rouge d’un pays donné<br /> et le Noir của Stendhal khi chuyển sang tiếng Việt 2. personne qui ne fait pas partie d’un groupe<br /> nếu phóng tác thành Đỏ đen theo phương pháp 3. personne inconnue<br /> collocation (sử dụng những cụm từ có xu hướng 4. pays étranger<br /> kết hợp với nhau tạo thành những ngữ cố định)<br /> có lẽ sẽ chỉ gợi ra một canh bạc cuộc đời (như Ở đây, nếu xem xét étranger là một danh từ và<br /> nhiều độc giả vẫn cảm nhận khi đọc tác phẩm) chứ dịch sang thành Người dưng như dịch giả Dương<br /> không thấy hết ý đồ nghệ thuật của tác giả khi đối Tường (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1995) thì<br /> chọi giữa đỏ và đen, giữa vận may và vận rủi, giữa thật sự chưa chuyển tải đúng thông điệp của tác<br /> cái thiện và cái ác. Vì lẽ đó, nhà văn đã quyết định giả về nhân vật Meursault, bởi nhân vật này không<br /> đổi tên tác phẩm thành Le Rouge et le Noir sau phải là người lạ, người dưng, người không quen<br /> nhiều ngày đề tên trên bản thảo là Julien (tên nhân biết mà là một người xa lạ, khác biệt với mọi người<br /> vật chính). Ở đây, dịch giả Đoàn Phú Tứ đã chuyển trong cách cư xử và hành động. Như vậy, étranger<br /> sát nghĩa Le Rouge et le Noir sang tiếng Việt là Đỏ thực chất là một tính từ được sử dụng như một<br /> và đen (bản in lần thứ 6, Nhà xuất bản Văn học, danh từ nhằm khắc họa tính cách nhân vật. Những<br /> 1998). Tương tự như vậy, Trần Thiện Đạo dịch bản dịch sang tiếng Việt thành Người xa lạ của Võ<br /> cuốn L’endroit et l’envers của Albert Camus thành Lang (Nhà xuất bản Thời đại mới, 1965), Thanh<br /> Bề mặt và bề trái (Nhà xuất bản Giao điểm, 1967). Thư (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2017) và Kẻ xa<br /> Tuy nhiên, theo chúng tôi, trường hợp này, phương lạ của Dương Kiến, Bùi Ngọc Dung (Nhà xuất bản<br /> án dịch Bề mặt, bề trái cũng là một lựa chọn có thể Ngày nay, 1965), Lê Thanh Hoàng Dân, Mai Vi<br /> xem xét vì không làm thay đổi nghĩa biểu đạt của Phúc (Nhà xuất bản Trẻ, 1973), Nguyễn Văn Dân<br /> văn bản (sự đối lập được thể hiện qua dấu phẩy) và (Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 2002) đều đã lột<br /> câu từ cũng nhẹ nhàng hơn trong tiếng Việt. tả được đúng nghĩa của từ étranger.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 68 Số 20 (7/2019)<br /> dịch thuật v<br /> <br /> <br /> <br /> Trường hợp Oscar et la Dame Rose của Eric và Người cười (trích nguồn https://websrv1.ctu.<br /> Emmanuel Schmitt lại đặt ra một vấn đề khác edu.vn/coursewares/supham/lsvhphuongtay/ch1.<br /> trong dịch sao chép sang tiếng Việt, vừa liên quan htm). Theo chúng tôi, phương án dịch Thằng cười<br /> đến hiện tượng đồng nghĩa của từ, vừa liên quan lột tả rõ nét hơn những nỗi thống khổ mà nhân<br /> đến nét văn hóa của người Pháp. Theo nghĩa trong vật Gwynplaine với khuôn mặt méo mó, biến dạng<br /> từ điển, rose có thể là hoa hồng hoặc màu hồng. phải chịu đựng vì những mưu đồ chính trị bẩn thỉu,<br /> Bản dịch nhan đề Oscar và Bà Áo hồng của Ngô đồng thời làm nổi bật tính chất bi hài trong tiểu<br /> Bảo Châu, Nguyễn Khiếu Anh (Nhà xuất bản Văn thuyết, từ đó đem lại cho độc giả nhiều cảm xúc hơn.<br /> học, 2015) đã dịch sao chép trên cơ sở xác định<br /> đúng nghĩa biểu đạt của từ rose: đó là màu áo của Thứ ba, liên quan đến hiện tượng đa nghĩa<br /> những người làm việc thiện nguyện chăm sóc các trong tiếng Việt. Chúng tôi xin minh chứng bằng<br /> bệnh nhân, phân biệt với màu áo trắng của các bác hai bản dịch nhan đề tiểu thuyết Les Misérables<br /> sỹ: Bà Áo hồng trong truyện là một người phụ nữ của Victor Hugo: Những kẻ khốn nạn của Nguyễn<br /> cao tuổi, phúc hậu trong chiếc áo thiện nguyện Văn Vĩnh (Nhà Trung Bắc Tân Văn, 1967) và<br /> màu hồng đã cho cậu bé Oscar, một bệnh nhân Những người khốn khổ (Nhóm dịch giả: Huỳnh<br /> ung thư máu, lời khuyên vô giá như một phép màu Lý, Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn, Đỗ Đức Hiếu, Nhà<br /> giúp cậu vượt qua mười hai ngày cuối đời vô cùng xuất bản Văn học, 1961, tái bản 1967, 2013). Theo<br /> thanh thản và ý nghĩa. Quyết định chọn phương án Từ điển tiếng Việt, từ khốn nạn có hai nghĩa:<br /> dịch nhan đề là Oscar và Bà Áo hồng của nhóm<br /> 1. (cũ) khốn khổ đến mức thảm hại, đáng<br /> dịch giả là chính xác bởi nếu chuyển dịch thành<br /> thương;<br /> Oscar và Bà Hoa hồng (như cách dịch bên trong<br /> 2. hèn mạt, không còn chút nhân cách, đáng<br /> truyện - đương nhiên không loại trừ trường hợp<br /> khinh bỉ, nguyền rủa.<br /> nhóm dịch giả có ý đồ riêng) thì đã đi trật văn cảnh<br /> và làm mất đi ý nghĩa biểu tượng của chiếc áo. Đối Cố nhà văn, dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882-<br /> chiếu với bản dịch tiếng Anh Oscar and the lady in 1936) chuyển dịch sang khốn nạn với nghĩa thứ<br /> pink, chúng ta có thể nhận ra sự tương đồng giữa nhất, có lẽ do thói quen ngôn ngữ của các cụ thời<br /> cụm từ áo hồng và in pink. đó, cũng có thể do muốn nhấn mạnh đến mức độ<br /> cùng cực của cái đói nghèo, thống khổ mà các nhân<br /> Thứ hai, liên quan đến hiện tượng đồng nghĩa<br /> vật phải chống chọi (đương nhiên ở đây không thể<br /> (synonymie) trong tiếng Việt, đặc biệt là hệ thống<br /> có sự hiểu nhầm theo nghĩa thứ hai vì thông điệp, ý<br /> đại từ nhân xưng và mạo từ vốn phong phú hơn<br /> đồ của Victor Hugo biểu lộ qua các tuyến nhân vật<br /> tiếng Pháp rất nhiều. Ví dụ, trong tiếng Pháp, mạo<br /> trong truyện rất rõ ràng). Tuy nhiên, nhiều độc giả<br /> từ xác định đi với danh từ chỉ người giống đực, số<br /> Việt Nam, nhất là các bạn trẻ, thường chỉ hiểu từ<br /> ít chỉ có các dạng Le hoặc L’ (trước một danh từ<br /> khốn nạn theo nghĩa xấu (nghĩa thứ hai), mà không<br /> giống đực, số ít bắt đầu bởi một nguyên âm hoặc<br /> biết đến nghĩa cũ của từ nên có vẻ khó ưng ý với<br /> phụ âm h câm) song khi chuyển sang tiếng Việt lại nhan đề dịch Những kẻ khốn nạn của cụ Vĩnh. Bởi<br /> có rất nhiều phương án dịch, có thể là Người, Kẻ, lẽ đó, phương án dịch Những người khốn khổ của<br /> Gã, Tay, Thằng, Lão, Ông, Chú, Anh, Cậu… tùy nhóm tác giả Huỳnh Lý, Vũ Đình Liên, Lê Trí<br /> vào đặc điểm của nhân vật trong tác phẩm (tính Viễn, Đỗ Đức Hiếu là an toàn, hiệu quả và phù<br /> cách, lứa tuổi, vị thế, vai trò ảnh hưởng…) và góc hợp với thói quen ngôn ngữ của đại đa số người<br /> nhìn của nhà văn, dịch giả. Điều này giải thích tại Việt Nam.<br /> sao có những sự khác biệt về cách sử dụng định<br /> ngữ tiếng Việt trong văn bản dịch. Theo đó, tiểu 3.2.3. Dịch lược (Suppression)<br /> thuyết L’homme qui rit của Victor Hugo cũng có<br /> hai phiên bản dịch sang tiếng Việt là Thằng cười Tiếng Pháp được biết đến là một ngôn ngữ rất<br /> (Hoàng Lâm, Lê Chi, Nhà xuất bản Văn học, 2009) chặt chẽ về mặt ngữ pháp nên câu tứ thường dài và<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 20 (7/2019) 69<br /> v Dịch thuật<br /> <br /> <br /> xuất hiện nhiều từ chức năng (mots fonctionnels chuyện tình éo le và thực tế trong tiểu thuyết của<br /> ou grammaticaux) chỉ có giá trị về mặt ngữ pháp Duras, hình ảnh nam chính mờ nhạt hơn so với nữ<br /> để liên kết các từ, các ý trong câu, khác với lối chính. Thêm nữa, nhan đề Gã nhân tình mặc dù<br /> hành văn thông dụng, gọn gàng của tiếng Anh. dịch rất sát nghĩa của danh từ amant song có thể<br /> Do đó, khi dịch tiếng Việt (cũng như tiếng Anh) do quá chú trọng vào chuyển dịch đầy đủ nét nghĩa<br /> sang tiếng Pháp, thông thường bản dịch dài hơn và về giới tính thông qua từ gã nên đương nhiên phải<br /> người dịch thường sử dụng phương pháp dịch mở ghép cặp với nhân tình. Để rồi cụm từ gã nhân<br /> rộng (étoffement) để làm rõ nghĩa văn bản và đảm tình ấy trong tiếng Việt, theo cách hiểu của người<br /> bảo tính chuẩn mực ngữ pháp. Ngược lại, khi dịch Việt có thể khiến độc giả liên tưởng đến hình ảnh<br /> từ tiếng Pháp sang tiếng Việt, người dịch có xu một gã Sở Khanh trong khi người tình ấy, cho dù<br /> hướng giản lược những mots grammaticaux như có nhu nhược thuận theo ý gia đình phụ tình cô gái<br /> giới từ de, đại từ quan hệ qui, que như trong các ví da trắng để kết hôn với một người con gái khác,<br /> dụ minh họa dưới đây: vẫn âm thầm dõi theo nàng, vẫn ấp ủ một tình yêu<br /> mãnh liệt với nàng sau nhiều năm xa cách.<br /> Tiếng Pháp Tiếng Việt<br /> <br /> La place de l’Étoile Quảng trường Ngôi sao<br /> Một kỹ thuật khác trong phương pháp dịch lược<br /> (Patrick Modiano) (Vũ Đình Phòng, Nxb Văn học, 2000) cho phép rút gọn câu từ trong bản dịch tiếng Việt,<br /> Rue des boutiques obscures  Phố những cửa hiệu u tối  đó là sử dụng từ Hán Việt – một hiện tượng độc<br /> (Patrick Modiano) (Dương Tường, Nxb Hội Nhà văn, 1992) đáo trong chuyển dịch Pháp-Việt. Chúng ta từng<br /> Notre-Dame de Paris Nhà thờ Đức Bà Paris biết đến Chanson d’automne của Paul Verlaine với<br /> (Victor Hugo) (Nhị Ca, Nxb Văn học, 2017) tựa đề Thu ca hay Harmonie du soir của Charles<br /> L’homme qui rit Thằng cười Beaudelaire với tựa đề Khúc chiều tà. Đặc biệt độc<br /> (Victor Hugo) (Hoàng Lâm, Lê Chi, Nxb Văn học,<br /> 2009)<br /> giả Việt Nam chắc hẳn không xa lạ với tiểu thuyết<br /> La dame aux camélias của Alexandre Dumas (con)<br /> Le Sumo qui ne pouvait pas Chàng Sumo không thể béo<br /> grossir (Nguyễn Đình Thành, Nxb Văn học,<br /> qua bản dịch của cố nhà báo, nhà văn Bùi Thế Mỹ.<br /> (Eric Emmanuel Schmitt) 2010) Thành công đầu tiên của ông chính là ở sự sáng tạo<br /> Toutes ces choses qu’on ne Mọi điều ta chưa nói trong dịch nhan đề tác phẩm: ông không dịch sao<br /> s’est pas dites (Bảo Linh, Nxb Hội Nhà văn, 2008) chép kiểu Người phụ nữ bên hoa trà mà gói gọn<br /> (Marc Levy)<br /> trong vẻn vẹn ba từ: Trà hoa nữ. Sau này, những<br /> dịch giả trẻ vẫn kế thừa nhan đề Trà hoa nữ cho<br /> Đôi khi đó là sự giản lược một số nét nghĩa<br /> bản dịch của mình (Hải Nguyên, Nhà xuất bản<br /> không quá quan trọng trong nhan đề gốc để đảm<br /> Văn học, 2010). Một nhan đề không chỉ gọn gàng,<br /> bảo sự hài hòa giữa ba tiêu chí Tín, Đạt, Nhã.<br /> đủ ý mà còn làm nổi bật nét đẹp tâm hồn của nàng<br /> Ví dụ nhan đề tiểu thuyết L’amant (Marguerite<br /> kỹ nữ Marguerite Gautier với tình yêu, lòng vị tha,<br /> Duras) được Trịnh Xuân Hoành dịch thành Người<br /> trong trắng như bông hoa trà. Như vậy, Trà hoa<br /> tình (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 1991) trùng với<br /> nữ đã trở thành một hình tượng đẹp, một biệt danh<br /> phương án của Lê Ngọc Mai (Nhà xuất bản Văn<br /> mỹ học gắn cho Marguerite, thể hiện tính nhân văn<br /> học, 2007) trên cơ sở lược bớt nét nghĩa thể hiện<br /> cao cả của tác phẩm.<br /> giới tính trong danh từ amant. So với bản dịch<br /> Gã nhân tình (Đình Kinh Hiệt, Nhà xuất bản 3.2.4. Dịch chuyển đổi (Transposition)<br /> Trẻ, 1989) có thể độ Tín trong nhan đề dịch của<br /> Trịnh Xuân Hoành và của Lê Ngọc Mai không Phương pháp này kéo theo sự chuyển đổi từ<br /> bằng nhưng mức độ Đạt và Nhã theo chúng tôi loại của từ văn bản gốc sang văn bản dịch, làm<br /> cảm nhận có phần chênh hơn: với nhan đề Người cho bản dịch phù hợp với đặc trưng ngôn ngữ<br /> tình nhẹ nhàng mà bao quát, dịch giả đã gợi lên đích, đảm bảo tiêu chí Nhã trong dịch thuật. Dịch<br /> được cả nhân vật nam chính và nữ chính trong câu chuyển đổi được áp dụng phổ biến cho những<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 70 Số 20 (7/2019)<br /> dịch thuật v<br /> <br /> <br /> <br /> nhan đề tiếng Pháp cấu tạo là danh từ (ngữ danh đương của nó là “Khu chợ của thành phố Paris”<br /> từ): thường được biến đổi thành động từ (bỏ những thì độc giả Việt Nam mới có thể hiểu và tiếp nhận<br /> từ cái, sự, việc, cuộc…) hoặc tính từ cho ngắn gọn được thông tin.<br /> và mềm mại hơn trong tiếng Việt.<br /> 3.2.6. Dịch thích nghi (Adaptation)<br /> Tiếng Pháp Tiếng Việt<br /> Phương pháp này được sử dụng trong những<br /> Danh từ Động từ<br /> Illusions perdues Vỡ mộng<br /> trường hợp đặc biệt khi các phương pháp khác đều<br /> (Honoré de Balzac) (Trọng Đức, Nxb Văn học, 2001) không hiệu quả, nhất là khi dịch những tình huống<br /> La chute Sa đọa<br /> (Albert Camus) (Trần Thiện Đạo, Nxb Hội nhà văn, 1995)<br /> hoặc thực tế (ví dụ về văn hóa) không có trong<br /> Les travailleurs de mer Lao động biển cả ngôn ngữ đích. Đây là phương pháp rất phổ biến<br /> (Victor Hugo) (Hoàng Lâm, Nxb Văn học, 2015)<br /> La nausée Buồn nôn<br /> trong dịch tiêu đề phim và nhan đề tác phẩm văn<br /> (Jean-Paul Sartres) (Phùng Thăng, Nxb Văn hóa Sài Gòn) học. Ví dụ, nhan đề bài thơ Il pleure dans mon<br /> Le malentendu Ngộ nhận coeur của Paul Verlaine không thể dịch sao chép<br /> (Albert Camus) (Bùi Giáng, Nxb. Võ Tánh, 1967)<br /> là Nó khóc trong tim tôi mà phải bám vào ý nghĩa<br /> Danh từ Tính từ<br /> Clair de lune Sáng trăng<br /> tổng thể của toàn bài để chuyển dịch nhan đề thành<br /> (Guy de Maupassant) (nhiều dịch giả, Nxb Hội Nhà văn, 2006) Mưa trong tim.<br /> Le Rouge et le Noir Đỏ và đen<br /> (Stendhal) (Đoàn Phú Tứ, Nxb Văn học, 1998)<br /> Cũng có trường hợp nhan đề tác phẩm văn<br /> Danh từ Trạng từ học Pháp có thể dịch sang tiếng Việt thông qua<br /> Sept jours pour une éternité Bảy ngày cho mãi mãi<br /> (Marc Levy) (Hương Lan, Nxb Hội Nhà văn, 2014) các phương pháp dịch kiểu vay mượn hoặc sao<br /> Trạng ngữ Danh từ<br /> chép song dịch giả có thể sáng tạo trên tinh thần<br /> Pour la prochaine fois Kiếp sau của tác phẩm nhằm tạo ra một hiệu quả thẩm<br /> (Marc Levy) (Hương Lan, Nxb Hội Nhà văn, 2010) mỹ và cũng ghi dấu ấn cá nhân rõ nét. Về điểm<br /> Le tour du monde en 80 jours 80 ngày vòng quanh thế giới<br /> (Jules Verne) (Phương Nhung, Nxb Mỹ thuật, 2016) này, cố dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh là người rất<br /> thành công với hai bản dịch Mai nương lệ cốt và<br /> 3.2.5. Dịch tương đương (Équivalence) Miếng da lừa. Khi dịch cuốn Manon Lescaut hay<br /> L’histoire du chevalier Grieux et Manon Lescaut<br /> Dịch tương đương được hiểu là dịch một thông của Abbé Prévost, cụ Vĩnh không dịch vay mượn<br /> điệp trong tổng thể của nó (nhất là khi được sử từ Manon Lescaut, cũng không lựa chọn phương<br /> dụng cho câu cảm thán, các ngữ cố định, khẩu án dịch sao chép L’histoire du chevalier Grieux et<br /> ngữ). Người dịch phải hiểu được tình huống trong Manon Lescaut thành Chuyện của hiệp sĩ Grieux<br /> ngôn ngữ gốc và phải tìm được một cách diễn đạt và Manon Lescaut mà mô phỏng cách phát âm tên<br /> tương đương phù hợp được sử dụng cùng tình nhân vật nữ Manon Lescaut sang tiếng Việt thành<br /> huống như ở ngôn ngữ gốc. Trong dịch tương Mai nương lệ cốt. Đây là một sự chuyển dịch<br /> đương, phương án dịch cho một từ, một ngữ có táo bạo và tài hoa hiếm có. Với cách biến tấu âm<br /> thể khác hoàn toàn với văn bản gốc và chỉ nhấn tiết như vậy, dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh đã đem<br /> mạnh vào sự tương đương về nghĩa biểu đạt. Ví Manon Lescaut đến gần hơn với độc giả Việt Nam<br /> dụ khi dịch nhan đề cuốn Le ventre de Paris của qua hình tượng một cô gái đẹp (mai nương) mà số<br /> văn hào Patrick Modiano, người dịch không thể phận éo le (lệ cốt). Theo bạn chí thân của cụ Vĩnh,<br /> dịch nghĩa đen của từ ventre là cái bụng mà phải Mai nương lệ cốt là cuốn sách cụ gọt giũa công<br /> hiểu được nét văn hóa ẩn trong cách nói ví von phu nhất, hơn cả cuốn Ba người ngự lâm pháo thủ<br /> của người bản ngữ: Đúng là chợ trung tâm Les (Les trois mousquetaires). Có lẽ chính tâm huyết<br /> Halles được ví như “cái bụng của Paris” nhưng dành cho cuốn tiểu thuyết, dành cho nhân vật đã<br /> không thể dịch sang tiếng Việt theo kiểu sao chép thôi thúc dịch giả trau chuốt được cách dịch nhan<br /> như vậy mà phải chuyển sang nghĩa biểu đạt tương đề đẹp đến thế, tình đến thế, sâu sắc đến thế!<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 20 (7/2019) 71<br /> v Dịch thuật<br /> <br /> <br /> Vẫn lối dịch táo bạo, sắc sảo như vậy, Nguyễn thể chuyển dịch tương ứng sang tiếng Việt được.<br /> Văn Vĩnh tiếp tục thành công với bản dịch Miếng da Trên thực tế, việc nhà văn sử dụng lối chơi chữ hay<br /> lừa cho tiểu thuyết La peau de chagrin của Honoré những cách nói ví von, nhiều lớp nghĩa luôn đặt ra<br /> de Balzac khi gieo từ “lừa” như một lối chơi chữ, thách thức cho các dịch giả. Lấy ví dụ vở kịch phi<br /> tương ứng với lối chơi chữ trong nguyên gốc tiếng lý En attendant Godot của Samuel Beckett miêu<br /> Pháp. Chúng ta cùng xem xét nghĩa biểu đạt của tả sự chờ đợi vô vọng của hai nhân vật khốn khổ<br /> danh từ chagrin và ngữ cố định peau de chagrin là Estragon và Vladimir, chờ đợi một người được<br /> liên quan đến tác phẩm: gọi là Godot: từ Godot được tác giả sử dụng mang<br /> một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, đó là một biến âm<br /> Theo Từ điển Larousse (https://www.larousse.fr): của từ God (có nghĩa là Thượng đế, Chúa trời).<br /> Như vậy, Godot thực chất không phải là một nhân<br /> 1. peau de chèvre de tannage végétal à grain vật cụ thể mà là một vị cứu tinh, Đấng cứu thế<br /> naturel très apparent; vô hình trong tưởng tượng của những người trong<br /> 2. état de déplaisir, de peine, d’affliction. cuộc. Theo đó, nếu trung thành với tiêu chí Tín về<br /> ngôn ngữ thì phương án thông thường và an toàn<br /> Theo Từ điển Hachette (Mauffrey A., Cohen I, là dịch sao chép thành Trong khi chờ đợi Godot<br /> 1987, tr.173): (Mai Vi Phúc, Nhà xuất bản Kỷ nguyên, 1969; Vũ<br /> Đình Phòng, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 3,<br /> 1. peine morale, affliction, déplaisir; 1997) hoặc Đợi Godot (tương tự bản dịch tiếng<br /> 2. cuir à surface grenue, préparé à partir de Anh: Waiting for Godot) (Đình Quang, Nhà xuất<br /> peaux de chèvre ou de mouton, utilisé pour les bản Thế giới, 1995). Nhưng nếu muốn nhấn mạnh<br /> reliures; vào tính chất phi lý, vào sự đợi chờ vô vọng của<br /> 3. peau de chagrin: se dit à propos d’une chose Estragon và Vladimir cũng như thân phận bọt bèo,<br /> vô nghĩa của họ thì chúng tôi mạnh dạn đề xuất<br /> qui se réduit, se rétrécit régulièrement.<br /> một số phương án dịch thích nghi như: Hoài mong<br /> Tựu chung lại và căn cứ vào nội dung tác Đấng cứu thế; Thượng đế, Người ở đâu? Song có<br /> phẩm, xét cả nghĩa đen và nghĩa bóng thì la peau lẽ cả hai trường hợp dịch sao chép và dịch thích<br /> de chagrin dùng để chỉ một miếng da thuộc có nghi trên đều chưa lột tả được nghệ thuật chơi chữ<br /> trong nhan đề gốc.<br /> những đặc tính sau: bằng da dê hoặc da cừu; đem<br /> lại phiền não, đau khổ; tự co ngắn lại một cách đều Ngoài Nguyễn Văn Vĩnh, Bùi Giáng cũng được<br /> đặn. Như vậy, bản dịch nhan đề Miếng da lừa của xếp vào danh sách những dịch giả có những phương<br /> Nguyễn Văn Vĩnh độc đáo ở chỗ lớp nghĩa đen về án dịch thích nghi “đắt”, đặc biệt khi ông chuyển<br /> chất liệu miếng da mà người đọc tri nhận tức thì dịch những tác phẩm của Albert Camus. Không đi<br /> không phải là nghĩa thực, nghĩa cốt lõi mà chính theo lối mòn dịch nhan đề Le mythe de Sisyphe của<br /> lớp nghĩa bóng về bản chất của miếng da mới là Camus thành Huyền thoại Sisyphe, Bùi Giáng đã<br /> chìa khóa của câu chuyện: sự giàu có, quyền lực và chọn cách nhấn mạnh vào nội dung và thông điệp<br /> hạnh phúc mà Raphaël có được nhờ miếng da lừa mà Camus muốn gửi gắm qua hình ảnh vị thần Hy<br /> phép thuật cho anh được thỏa nguyện bằng cách Lạp Sisyphe vì bị thần linh kết án mà ngày ngày<br /> đổi lại một phần cuộc sống của anh thực chất chỉ phải đẩy và lăn một tảng đá lên, xuống núi một<br /> là thứ hạnh phúc, quyền lực và giàu có ảo tưởng, cách vô nghĩa. Vì thế, ông lựa chọn phương án<br /> lừa lọc, đẩy anh đến gần hơn với sự tuyệt vọng, dịch là Biển Đông xe cát (Nhà xuất bản An Tiêm,<br /> với cái chết. 1969) để chuyển tải tính chất phi lý của cuộc đời.<br /> Rõ ràng, việc chuyển dịch thích nghi những yếu<br /> Tuy nhiên, không phải cứ nhận biết được những tố ngôn ngữ, văn hóa trong nhan đề tác phẩm văn<br /> biện pháp tu từ trong nhan đề nguyên gốc là có học không chỉ phụ thuộc vào khả năng ngôn ngữ<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 72 Số 20 (7/2019)<br /> dịch thuật v<br /> <br /> <br /> <br /> mà còn phụ thuộc vào cảm nhận, sự say mê sáng Mong muốn lớn nhất của chúng tôi là được chia<br /> tạo và trách nhiệm của những người làm nghề. sẻ một vài cảm nhận với tư cách là một độc giả,<br /> một người nghiên cứu và giảng dạy tiếng Pháp; từ<br /> Có thể nói, dịch thích nghi là trình độ dịch cao đó rút ra một số kinh nghiệm cho bản thân và hy<br /> nhất, đòi hỏi kinh nghiệm xử lý văn bản, xử lý vọng sẽ hữu ích cho các giảng viên tiếng Pháp nói<br /> ngôn ngữ và quan điểm của từng dịch giả về dịch chung, giảng viên dạy bộ môn văn học Pháp nói<br /> thuật. Ngay cả những bản dịch nhan đề được coi là riêng cũng như các bạn học viên, sinh viên học<br /> “đắt” đôi khi vẫn phải chấp nhận điều hòa giữa các tiếng Pháp trong quá trình tiếp cận ngôn ngữ và<br /> tiêu chí Tín, Đạt, Nhã, chấp nhận lược bớt một nét văn học Pháp.<br /> nghĩa, lớp nghĩa mà ngôn từ trong nhan đề gốc biểu<br /> đạt để ưu tiên cho nét nghĩa, lớp nghĩa hay thông 4. KẾT LUẬN<br /> điệp chính mà tác giả (thậm chí cả dịch giả) muốn<br /> truyền tải tới độc giả. Chẳng hạn: để tạo hiệu quả Nhan đề là yếu tố không thể tách rời của một<br /> nghệ thuật từ lối chơi chữ, trong bản dịch Miếng da tác phẩm văn học, là một yếu tố tiếp cận tác phẩm<br /> đầu tiên, một tín hiệu nghệ thuật có vai trò định<br /> lừa (đã phân tích ở trên), dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh<br /> hướng, hỗ trợ quá trình đọc hiểu của độc giả và<br /> đã lược đi nét nghĩa thứ ba về tính chất tự co lại của<br /> khơi gợi hứng thú cho độc giả. Quá trình tìm hiểu<br /> miếng da. Cũng có khi dịch giả vừa lược bớt, vừa<br /> một tác phẩm văn học nước ngoài nói chung, văn<br /> bổ sung thông tin cho nhan đề như trường hợp bản<br /> học Pháp nói riêng, người đọc, người dịch thường<br /> dịch Catherine cô bé đeo mắt kính (Hoàng Nhụy,<br /> bắt đầu từ nhan đề tác phẩm để nắm bắt nội dung,<br /> Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2016): Hoàng Nhụy đã<br /> thông tin chính, song cũng có trường hợp phải kết<br /> không vay mượn như nguyên gốc nhan đề tác phẩm<br /> thúc câu chuyện mới giải mã được chính xác nội<br /> là Catherine Certitude mà chỉ giữ lại tên riêng của<br /> hàm nhan đề tác phẩm. Trên thực tế, công đoạn<br /> nữ chính và bổ sung một đặc điểm nhận diện của cô<br /> giải mã và chuyển dịch nhan đề tác phẩm văn học<br /> bé là “đeo mắt kính” để làm nổi bật nhân vật trong từ tiếng Pháp sang tiếng Việt không phải lúc nào<br /> hai thế giới đối lập: một thế giới hiện thực bụi bặm, cũng thuận lợi, đòi hỏi người dịch không chỉ có<br /> sắc cạnh khi em đeo kính và một thế giới yên bình, kiến thức ngôn ngữ, kiến thức văn hóa mà còn<br /> trong trẻo khi em không đeo kính, nơi Catherine có cần khả năng cảm thụ tác phẩm văn học, khả năng<br /> thể mặc sức khiêu vũ như trong một giấc mơ. sáng tạo cũng như khả năng vận dụng linh hoạt các<br /> phương pháp dịch phù hợp với từng loại nhan đề,<br /> Như vậy, chúng tôi đã tập trung nghiên cứu một<br /> từng thể loại và từng tác phẩm cụ thể.<br /> số nhan đề tác phẩm văn học Pháp được các dịch<br /> giả Việt Nam dịch sang tiếng Việt; thông qua đối Từ những minh chứng về các phương pháp<br /> chiếu với văn bản gốc để nhận diện những thuận dịch nhan đề tác phẩm văn học Pháp sang tiếng<br /> lợi và khó khăn cơ bản cho công tác dịch thuật; Việt nêu trên, chúng ta nhận thấy một điểm rõ<br /> đối chiếu các bản dịch để tìm hiểu phương pháp, ràng: Trong cảm thụ và dịch nhan đề tác phẩm văn<br /> kỹ thuật cũng như ý đồ của các dịch giả trong quá học, luôn có chỗ cho những quy tắc và cả những<br /> trình xử lý các yếu tố ngôn ngữ, văn hóa và truyền sự sáng tạo với điều kiện những sự sáng tạo đó<br /> tải thông điệp của tác giả ứng với từng loại nhan không đi chệch nội dung, thông điệp của tác phẩm<br /> đề, từng tác phẩm cụ thể. Nếu có đưa ra nhận định và chạm đến trái tim của độc giả. Một điều nữa mà<br /> nào bị cho là “không thỏa mãn” không có nghĩa chúng tôi muốn nhấn mạnh, đó là bản dịch văn học<br /> là chúng tôi muốn áp đặt, phê phán hay hạ thấp Pháp-Việt, trong đó có dịch nhan đề tác phẩm, có<br /> uy tín của một d
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2