An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 1 – 11<br />
<br />
NHÂN GIỐNG VÀ TRỒNG HAI LOÀI CÂY BÌNH VÔI (Stephania sp.)<br />
ĐẶC THÙ CỦA AN GIANG<br />
Nguyễn Thị Mỹ Duyên1<br />
Trường Đại học An Giang<br />
<br />
1<br />
<br />
Thông tin chung:<br />
Ngày nhận bài: 09/09/2017<br />
Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br />
06/12/2017<br />
Ngày chấp nhận đăng: 12/2017<br />
Title:<br />
The propagation and planting<br />
two Stephania sp. in An Giang<br />
mountain area<br />
Keywords:<br />
Stephania cephalantha, S.<br />
kwangsiensis, propagation,<br />
sowing, cuttings<br />
Từ khóa:<br />
Bình vôi Stephania<br />
cephalantha,<br />
S. kwangsiensis,<br />
nhân giống, gieo hạt,<br />
giâm cành<br />
<br />
ABSTRACT<br />
The two Stephania sp. (including Stephania kwangsiensis and Stephania<br />
cephalantha) that were planted in the Seven Mountains (An Giang) are<br />
becoming increasingly scarce. The research on propagation techniques and<br />
planting of two species of Stephania characteristic at An Giang mountain area<br />
contributes to conservation and restoration the source of this medicinal<br />
materia. The experiment was conducted to survey some factors affecting seed<br />
germination of Stephania. The result showed that the seed germination<br />
percentage of Stephania kwangsiensis was the best when using fresh shelled<br />
seeds after 8 weeks of sowing is 43,33%. And it grows well on sandy soil adding<br />
organic fertilizer. In addition, when the cuttings and planting of two species<br />
were collected, it showed that the Stephania kwangsiensis had strong vitality,<br />
high survival percentage and good development. Stephania that was<br />
propagated from seeds gave early and larger bulbs compared to the cuttings’<br />
one.<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Hai loài cây bình vôi được trồng tại vùng Bảy núi An Giang là Stephania<br />
kwangsiensis và Stephania cephalantha đang ngày càng khan hiếm. Việc nghiên<br />
cứu kỹ thuật nhân giống và trồng hai loài cây bình vôi đặc thù của vùng núi An<br />
Giang này góp phần bảo tồn và khôi phục lại nguồn dược liệu quý này. Qua thí<br />
nghiệm khảo sát một số yếu tố ảnh hưởng đến sự nảy mầm của hạt bình vôi cho<br />
thấy tỷ lệ hạt nảy mầm của hạt bình vôi Stephania kwangsiensis tốt nhất là khi<br />
sử dụng hạt tươi nguyên vỏ sau 8 tuần gieo đạt 43,33%. Đồng thời, cây bình vôi<br />
phát triển tốt trên nền đất cát bổ sung phân hữu cơ. Bên cạnh đó, khi tiến hành<br />
giâm cành và trồng 2 loài cây bình vôi thu thập được nhận thấy loài Stephania<br />
kwangsiensis có sức sống mạnh, đạt tỷ lệ sống cao và phát triển rất tốt. Cây<br />
bình vôi nhân giống từ hạt cho củ sớm và to hơn so với cây bình vôi giâm cành.<br />
<br />
không thể thiếu trong các bài thuốc bồi bổ cơ thể,<br />
phục hồi sức khỏe. Theo Đỗ Tất Lợi (2009), thành<br />
phần chính trong củ bình vôi là chất rotundin có<br />
tác dụng làm giảm đau, an thần, gây ngủ rất hiệu<br />
quả, ngoài ra còn điều hòa hô hấp, điều hòa đối<br />
với tim.<br />
<br />
1. GIỚI THIỆU<br />
Từ lâu vùng Bảy núi An Giang được biết đến là<br />
nơi có nhiều loài cây dược liệu quý dùng làm<br />
thuốc chữa bệnh, trong đó có các loài cây bình vôi<br />
(Stephania sp.). Theo Đông y, bình vôi không chỉ<br />
có tác dụng chữa bệnh mà còn là một vị thuốc<br />
1<br />
<br />
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 1 – 11<br />
<br />
Hiện nay, nguồn cây này đang khan hiếm dần và<br />
đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Trước đây,<br />
khi Võ Văn Chi (1991) khảo sát cây thuốc ở An<br />
Giang thấy rằng, bình vôi là loại cây trồng khá<br />
phổ biến tại vùng núi Cấm và núi Tô thuộc hai<br />
huyện Tri Tôn và Tịnh Biên nhưng hiện nay là đối<br />
tượng cây trồng quý hiếm rất khó tìm thấy trong<br />
tự nhiên. Do đó, Nghị định số 32/2006/NĐ-CP<br />
của Chính phủ, trong danh mục “Thực vật rừng<br />
nguy cấp, quý hiếm” thì các loài cây bình vôi<br />
(Stephania sp.) được xếp trong nhóm IIA (Thực<br />
vật rừng hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích<br />
thương mại). Trong khi đó, bình vôi là cây có hoa<br />
đơn tính khác gốc (cây đực và cái riêng). Vì vậy,<br />
khi chỉ có một mình hoặc một nhóm chỉ toàn cây<br />
đực, hoặc toàn cây cái thì không thể thụ tạo hạt<br />
được, dẫn đến khả năng duy trì nòi giống có phần<br />
hạn chế.<br />
<br />
thành và hoàn thiện quy trình nhân giống cho 2<br />
loài cây bình vôi đặc thù tại vùng núi An Giang để<br />
hướng dẫn cho người dân vùng núi biết cách khai<br />
thác hợp lý và trồng trọt để bảo tồn nguồn gen và<br />
tăng thu nhập.<br />
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
2.1 Vật liệu<br />
Hai loài cây bình vôi 1 và 2 là Stephania<br />
kwangsiensis và Stephania cephalantha được thu<br />
thập tại vùng Bảy núi An Giang.<br />
2.2 Phương pháp nghiên cứu<br />
2.2.1 Thí nghiệm 1: Khảo sát sự nảy mầm của<br />
hạt bình vôi Stephania kwangsiensis sau<br />
thu hoạch<br />
-<br />
<br />
Do đó, nghiên cứu được thực hiện nhằm hình<br />
<br />
Vật liệu: hạt bình vôi Stephania<br />
kwangsiensis - được thu hoạch từ trước 3<br />
tháng (đối với hạt khô) và vừa thu hoạch (đối<br />
với hạt tươi).<br />
<br />
Hình 1. Hạt bình vôi<br />
a: Hạt tươi, b: Hạt tươi bỏ vỏ, c: Hạt khô<br />
<br />
-<br />
<br />
-<br />
<br />
Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được bố trí ngoài<br />
vườn ươm theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên<br />
với 5 nghiệm thức (A1 - A5) là 5 hình thức hạt<br />
được xử lý khác nhau sau thu hoạch (Bảng 1),<br />
mỗi nghiệm thức 3 lần lặp lại, mỗi lần lặp lại<br />
là một khay 30 hạt.<br />
Chỉ tiêu theo dõi: tỷ lệ hạt nảy mầm (%) =<br />
(tổng số hạt nảy mầm/tổng số hạt gieo) x 100<br />
<br />
-<br />
<br />
-<br />
<br />
2.2.2 Thí nghiệm 2: Sự sinh trưởng và phát triển<br />
của cây bình vôi nhân giống từ hạt trong<br />
các nghiệm thức phân hữu cơ khác nhau<br />
-<br />
<br />
-<br />
<br />
Vật liệu: cây bình vôi Stephania kwangsiensis<br />
được gieo từ hạt khoảng 2 tháng tuổi (cây của<br />
thí nghiệm 1), cây cao 5 - 6 cm, có từ 4 đến 5<br />
lá.<br />
2<br />
<br />
Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được bố trí trong<br />
chậu ở ngoài vườn theo khối hoàn toàn ngẫu<br />
nhiên với 4 nghiệm thức (B1 - B4), mỗi nghiệm<br />
thức 6 lần lặp lại, mỗi lần lặp lại là 2 cây/2<br />
chậu.<br />
Các nghiệm thức trồng: B1: Không sử dụng<br />
phân bón, B2: Phân hữu cơ sinh học Bình<br />
Điền, B3: Phân hữu cơ vi sinh ANVI, B4: Phân<br />
hữu cơ là xác bã thực vật ngoài tự nhiên đã<br />
phân hủy. Lưu ý: nền trong chậu là đất cát (2,5<br />
kg/chậu); liều lượng phân bón 250 gram/gốc.<br />
Chỉ tiêu theo dõi: chiều dài cây (cm): đo từ<br />
mặt đất đến đỉnh chồi; kích thước củ (cm): đo<br />
chiều dài và rộng củ bằng thước kẹp; trọng<br />
lượng củ (gram): cân củ sau khi cắt bỏ dây.<br />
<br />
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 1 – 11<br />
<br />
a<br />
<br />
b<br />
<br />
Hình 2. Thí nghiệm trồng bình vôi S. kwangsiensis<br />
a: Bố trí thí nghiệm, b: Đánh giá chiều dài cây<br />
<br />
2.2.3 Thí nghiệm 3: Khảo sát khả năng sống của<br />
cành giâm hai loài cây bình vôi thí nghiệm<br />
-<br />
<br />
-<br />
<br />
-<br />
<br />
-<br />
<br />
-<br />
<br />
Vật liệu: đoạn thân từ cây bình vôi 1<br />
(Stephania kwangsiensis) và bình vôi 2<br />
(Stephania cephalantha) được cắt (có độ<br />
nghiêng) giâm vào giá thể. Mỗi đoạn thân<br />
khoảng 20 – 25 cm có chứa 3 - 4 mắt mầm.<br />
Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được bố trí trong<br />
chậu ở ngoài vườn ươm theo thể thức hoàn<br />
toàn ngẫu nhiên với 2 nhân tố (nhân tố 1 là 2<br />
loại đoạn thân của 2 loài cây bình Vôi, nhân tố<br />
2 là giá thể). Nghiệm thức được kí hiệu từ C1 –<br />
C8, mỗi nghiệm thức 5 lần lặp lại, mỗi lần lặp<br />
lại với 5 đoạn thân/chậu.<br />
Nghiệm thức thí nghiệm: C1: Đất cát + đoạn<br />
cành giâm từ giữa thân bình vôi 1, C2: Đất cát<br />
+ đoạn cành giâm gần ngọn bình vôi 1, C3:<br />
{Đất cát + tro trấu (tỉ lệ 1:1)} + đoạn cành<br />
giâm từ giữa thân bình vôi 1, C4: {Đất cát +<br />
tro trấu (tỉ lệ 1:1)} + đoạn cành giâm gần ngọn<br />
bình vôi 1, C5: Đất cát + đoạn cành giâm từ<br />
giữa thân bình vôi 2, C6: Đất cát + đoạn cành<br />
giâm gần ngọn bình vôi 2, C7: {Đất cát + tro<br />
trấu (tỉ lệ 1:1)} + đoạn cành giâm từ giữa thân<br />
bình vôi 2, C8: {Đất cát + tro trấu (tỉ lệ 1:1)} +<br />
đoạn cành giâm gần ngọn bình vôi 2.<br />
Chỉ tiêu theo dõi: tỷ lệ cành giâm sống (%) =<br />
(tổng số cành giâm sống/tổng số cành đem<br />
giâm) x 100; số chồi/cành giâm: đếm số chồi<br />
mới hình thành từ mắt ngủ.<br />
<br />
-<br />
<br />
-<br />
<br />
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
3.1 Thí nghiệm 1: Khảo sát sự nảy mầm của<br />
hạt bình vôi Stephania kwangsiensis sau<br />
thu hoạch<br />
Tại thời điểm 4 tuần sau khi gieo (SKG), hạt bình<br />
vôi ở tất cả các nghiệm thức đều nảy mầm với tỷ<br />
lệ trung bình là 14,89% (Bảng 1). Nghiệm thức A1<br />
và A2 có tỷ lệ hạt nảy mầm cao nhất (28,89%).<br />
Còn nghiệm thức A3, A4 và A5 đều cho tỷ lệ nảy<br />
mầm rất thấp < 7%. Điều này cho thấy, hạt tươi<br />
nảy mầm tốt hơn so với hạt khô. Kết quả tương tự<br />
ở tại thời điểm 8 tuần SKG mặc dù tỷ lệ hạt nảy<br />
mầm có sự gia tăng, trung bình đạt 20,00%. Trong<br />
đó tỷ lệ nảy mầm cao nhất là 43,33% ở nghiệm<br />
thức A1.<br />
<br />
2.2.4 Thí nghiệm 4: Khảo sát khả năng sinh<br />
trưởng và phát triển của 2 loài cây bình vôi<br />
được nhân giống từ đoạn thân<br />
-<br />
<br />
Bố trí thí nghiệm: thí nghiệm được bố trí trong<br />
chậu ở ngoài vườn theo khối hoàn toàn ngẫu<br />
nhiên với 2 nhân tố (nhân tố 1 là loại cây bình<br />
vôi, nhân tố 2 là loại phân bón). Tổng 6<br />
nghiệm thức, mỗi nghiệm thức 6 lần lặp lại,<br />
mỗi lần lặp lại là 2 cây/1 chậu.<br />
Các nghiệm thức trồng: D1: Đất cát (không sử<br />
dụng phân bón) + bình vôi 1, D2: Đất cát +<br />
phân hữu cơ sinh học Bình Điền + bình vôi 1,<br />
D3: Đất cát + phân hữu cơ vi sinh ANVI +<br />
bình vôi 1, D4: Đất cát (không sử dụng phân<br />
bón) + bình vôi 2, D5: Đất cát + phân hữu cơ<br />
sinh học Bình Điền + bình vôi 2, D6: Đất cát +<br />
phân hữu cơ vi sinh ANVI + bình vôi 2 (Liều<br />
lượng đất cát 2,5 kg/chậu, phân bón 250<br />
gram/gốc).<br />
Chỉ tiêu theo dõi: chiều dài cây (cm): đo từ<br />
mặt đất đến đỉnh chồi; kích thước củ (cm): đo<br />
chiều dài và rộng củ bằng thước kẹp; trọng<br />
lượng củ (gram): cân củ sau khi cắt bỏ dây.<br />
<br />
Vật liệu: cây từ đoạn thân cành giâm của 2 loài<br />
cây bình vôi từ thí nghiệm 3.<br />
3<br />
<br />
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 1 – 11<br />
Bảng 1. Tỷ lệ nảy mầm của hạt bình vôi<br />
<br />
Nghiệm<br />
thức<br />
<br />
Dạng hạt<br />
<br />
4 tuần SKG<br />
<br />
8 tuần SKG<br />
<br />
A1<br />
<br />
Hạt tươi để nguyên vỏ<br />
<br />
28,89 a<br />
<br />
43,33 a<br />
<br />
A2<br />
<br />
Hạt tươi chà bỏ vỏ<br />
<br />
28,89 a<br />
<br />
32,22 ab<br />
<br />
A3<br />
<br />
Hạt khô không cắt vỏ<br />
<br />
6,67 ab<br />
<br />
10,00 bc<br />
<br />
A4<br />
<br />
Hạt khô cắt 1 phần lớp vỏ đầu<br />
<br />
5,56<br />
<br />
b<br />
<br />
7,78<br />
<br />
bc<br />
<br />
A5<br />
<br />
Hạt khô không cắt vỏ, xử lý KT-SUPPER 100WP<br />
<br />
4,44<br />
<br />
b<br />
<br />
6,67<br />
<br />
c<br />
<br />
Trung bình<br />
Mức ý nghĩa<br />
CV (%)<br />
<br />
14,89<br />
<br />
20,00<br />
<br />
*<br />
<br />
*<br />
<br />
51,33<br />
<br />
43,74<br />
<br />
Ghi chú: Trong cùng một cột, những số có chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt ý nghĩa thống kê theo phép thử<br />
Duncan, *: khác biệt ý nghĩa thống kê ở mức 5%.<br />
<br />
Từ kết quả phân tích trên cho thấy, hạt bình vôi<br />
tươi cho tỷ lệ hạt nảy mầm cao hơn (32,22% –<br />
43,33%) so với hạt bình vôi khô có tỷ lệ nảy mầm<br />
tương đối thấp (6,67% – 10,00%) SKG 8 tuần.<br />
Mặt khác, sự khác biệt giữa các cách xử lý hạt<br />
khác nhau sau thu hoạch không ảnh hưởng đến sự<br />
nảy mầm của hạt.<br />
<br />
3.2.1 Chiều dài cây (cm)<br />
So với thời điểm bắt đầu thí nghiệm (cây có chiều<br />
dài khoảng 5 cm) sau 2 tháng trồng trên giá thể,<br />
cây đã bắt đầu thích nghi và phát triển, chiều dài<br />
cây có sự gia tăng ở mức thấp với chiều dài trung<br />
bình là 6,74 cm (Bảng 2).<br />
Bước sang các tháng tiếp theo (từ 4 đến 6 tháng<br />
sau khi trồng), chiều dài cây có sự gia tăng liên<br />
tục giữa các nghiệm thức (Bảng 2). Trong đó,<br />
nghiệm thức B3 đạt chiều dài cây dài nhất (181,00<br />
cm) không khác biệt so với nghiệm thức B2<br />
(172,80 cm) và rất khác biệt so với hai nghiệm<br />
thức còn lại ở mức ý nghĩa 1%.<br />
<br />
Trong nghiên cứu của Nguyễn Tiến Vững (2000),<br />
khi gieo hạt tươi của loài Stephania glabra<br />
(Roxb.) Miers trên giá thể là cát thì tỷ lệ nảy mầm<br />
đến 64,4%. Trong khi kết quả nghiên cứu, tỷ lệ<br />
nảy mầm chỉ có 43,33% trên giá thể đất cát + tro<br />
trấu (1:1). Hay nói cách khác, các loài thuộc chi<br />
bình vôi thích nghi tốt hơn trên đất cát.<br />
3.2 Thí nghiệm 2: Sự sinh trưởng và phát<br />
triển của cây bình vôi Stephania<br />
kwangsiensis nhân giống từ hạt trong các<br />
nghiệm thức phân hữu cơ khác nhau<br />
Bảng 2. Diễn biến chiều dài cây bình vôi<br />
<br />
Nghiệm thức<br />
<br />
Chiều dài cây (cm)<br />
2 tháng<br />
<br />
4 tháng<br />
<br />
B1<br />
<br />
6,00<br />
<br />
45,53 b<br />
<br />
96,00<br />
<br />
bc<br />
<br />
273,00<br />
<br />
B2<br />
<br />
6,97<br />
<br />
153,17 a<br />
<br />
172,80 ab<br />
<br />
327,67<br />
<br />
B3<br />
<br />
8,52<br />
<br />
145,68 a<br />
<br />
181,00 a<br />
<br />
347,00<br />
<br />
B4<br />
<br />
5,48<br />
<br />
23,67 b<br />
<br />
Trung bình<br />
<br />
6,74<br />
<br />
92,01<br />
<br />
131,72<br />
<br />
303,67<br />
<br />
Mức ý nghĩa<br />
<br />
ns<br />
<br />
**<br />
<br />
**<br />
<br />
ns<br />
<br />
CV (%)<br />
<br />
30,58<br />
<br />
68,52<br />
<br />
50,09<br />
<br />
36.86<br />
<br />
4<br />
<br />
6 tháng<br />
<br />
77,08<br />
<br />
12 tháng<br />
<br />
c<br />
<br />
267,00<br />
<br />
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 1 – 11<br />
Ghi chú: Trong cùng một cột, những số có chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt ý nghĩa thống kê theo phép thử<br />
LSD, **: khác biệt ý nghĩa mức 1%, ns: khác biệt không ý nghĩa.<br />
<br />
Đến tháng 12 sau khi trồng, nghiệm thức B3 vẫn<br />
đạt chiều dài cây dài đến 347,00 cm, nhưng không<br />
khác biệt nhiều giữa các nghiệm thức. Ta nhận<br />
thấy, trên nền phân xác bã thực vật đã phân hủy<br />
(nghiệm thức B4) cây phát triển không tốt, có<br />
chiều dài cây thấp. Điều này có thể do xác bã thực<br />
vật chưa được phân hủy hoàn toàn, ẩm độ cao,<br />
khó thoát nước nên ảnh hưởng không tốt đến sự<br />
sinh trưởng và phát triển của cây bình vôi.<br />
<br />
Dược tính của bình vôi chủ yếu được khai thác từ<br />
củ, do đó tìm hiểu thời gian nào củ bắt đầu hình<br />
thành, kích thước và trọng lượng củ như thế nào<br />
là hết sức quan trọng. Theo ghi nhận, sau khi<br />
trồng khoảng 4 tháng, bình vôi bắt đầu hình thành<br />
củ và phát triển tốt trong các tháng tiếp theo. Kết<br />
quả kích thước củ và trọng lượng củ bình vôi<br />
được trình bày ở Bảng 3.<br />
<br />
3.2.2 Kích thước củ (cm) và trọng lượng củ<br />
(gram)<br />
Bảng 3. Kích thước và trọng lượng củ bình vôi sau 12 tháng trồng<br />
<br />
Nghiệm thức<br />
<br />
Dài củ (cm)<br />
<br />
Rộng củ (cm)<br />
<br />
Trọng lượng củ<br />
(gram)<br />
<br />
B1<br />
<br />
9,88<br />
<br />
5,75 bc<br />
<br />
186,08<br />
<br />
B2<br />
<br />
11,38<br />
<br />
7,17 a<br />
<br />
205,56<br />
<br />
B3<br />
<br />
15,13<br />
<br />
6,67 ab<br />
<br />
187,21<br />
<br />
B4<br />
<br />
8,83<br />
<br />
5,21 c<br />
<br />
122,22<br />
<br />
Trung bình<br />
<br />
11,31<br />
<br />
6,20<br />
<br />
175,27<br />
<br />
Mức ý nghĩa<br />
<br />
ns<br />
<br />
*<br />
<br />
ns<br />
<br />
CV (%)<br />
<br />
46,12<br />
<br />
17,82<br />
<br />
44,96<br />
<br />
Ghi chú: Trong cùng một cột, những số có chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt ý nghĩa thống kê theo phép thử<br />
LSD, *: khác biệt ý nghĩa mức 5%, ns: khác biệt không ý nghĩa.<br />
<br />
Sau 12 tháng trồng, bình vôi có chiều dài củ dao<br />
động từ 8,83 - 15,13 cm. Chiều rộng củ dao động<br />
từ 5,21 - 7,17 cm, giữa các nghiệm thức có sự<br />
khác biệt ý nghĩa ở mức 5%. Trong đó, nghiệm<br />
thức B2 và B3 cho kích thước củ khá hơn. Cụ thể,<br />
nghiệm thức B2 đạt kích thước củ là 11,38 x 7,17<br />
cm và B3 là 15,13 x 6,67 cm. Bên cạnh đó, trọng<br />
lượng củ ít có sự khác biệt, dao động từ 122,22 g<br />
(B4) đến 205,56 g (B2) sau 12 tháng trồng. Kết<br />
quả này khá cao so với nghiên cứu của Lã Đình<br />
Mỡi và ctv. (2003) sau khi trồng 24 tháng, trọng<br />
lượng củ của 3 loài cây bình vôi được thu thập tại<br />
các tỉnh miền núi và trung du phía Bắc chỉ đạt 39<br />
- 90 g, củ to nhất cũng chỉ đạt 200 g. Điều này cho<br />
<br />
thấy, cây bình vôi S. kwangsiensis thích hợp với<br />
nền đất cát của An Giang.<br />
3.2.3 Thời gian ra hoa và tỷ lệ cây có hoa đực và<br />
cái<br />
Tính trên tổng số cây thí nghiệm thì sau 12 tháng<br />
trồng ta có được tổng số 11 cây cho hoa/48 tổng<br />
cây trồng, chiếm tỷ lệ 22,91% (Bảng 4). Trong đó,<br />
cây có hoa cái chiếm tỷ lệ 8,33% và cây có hoa<br />
đực chiếm tỷ lệ 14,58%. Điều đó cho thấy, số<br />
lượng cây có hoa đực hay hoa cái là hoàn toàn<br />
ngẫu nhiên, nên việc trồng cây bình vôi cần lưu ý<br />
làm sao có được nhiều cây cái thì sẽ giúp khả<br />
năng tạo hạt để duy trì nguồn giống bình vôi.<br />
<br />
5<br />
<br />