TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 51, 2009<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
NHỮNG CÁCH TÂN QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT<br />
VỀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT HỒ ANH THÁI<br />
Bùi Thanh Truyền<br />
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế<br />
Lê Biên Thuỳ<br />
Trường Đại học Dân lập Phú Xuân<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
<br />
Hồ Anh Thái là một trong số những gương mặt tiểu thuyết tiêu biểu của văn học Việt<br />
Nam thời đổi mới. Một trong những nỗ lực dễ nhận thấy và rất đáng ghi nhận của tác giả này là<br />
sự cách tân trên bình diện nghệ thuật về con người - hạt nhân của sự thay đổi, phát triển một<br />
giai đoạn văn học. Đây chính là một đóng góp quan trọng của nhà văn cho công cuộc hiện đại<br />
hóa văn xuôi Việt Nam đương đại nói chung, tiểu thuyết nói riêng.<br />
1. Gần đây, người ta thường nói đến sự thống ngự của truyện ngắn trên văn đàn<br />
Việt Nam đương đại. Điều đó không có nghĩa là tiểu thuyết không còn địa vị nhất định<br />
của nó. Sự phát triển theo khuynh hướng chậm mà chắc của tiểu thuyết suốt hai thập kỉ<br />
qua gắn liền với tên tuổi của những cây bút như Nguyễn Khắc Trường, Chu Lai, Bảo<br />
Ninh, Nguyễn Khắc Phục, và gần đây nhất là Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Tạ<br />
Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái,... Đây là những phong<br />
cách đã được định hình, có những chỗ đứng vững chắc trong lòng công chúng. Những<br />
sáng tác nặng kí của họ đã góp phần mang lại diện mạo mới cho văn xuôi đương đại,<br />
nhất là trên phương diện quan niệm nghệ thuật về con người - hạt nhân của sự chuyển<br />
biến một giai đoạn văn học. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy trong sáng tác của một<br />
gương mặt tiêu biểu: nhà văn Hồ Anh Thái - người đang chiếm được nhiều cảm tình của<br />
độc giả hiện nay. Ngoài sự sung sức trong sáng tạo, tác phNm của anh còn tạo ấn tượng<br />
đối với bạn đọc bởi sự tìm tòi để không ngừng đổi mới về phong cách. Với liên tiếp<br />
những sáng tác gây tiếng vang trong dư luận như Trong sương hồng hiện ra, Cõi người<br />
rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm, Đức Phật nàng Savitri và tôi..., nhà văn này đã<br />
dần dần khẳng định vị thế của mình, phả vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới<br />
với một cách viết “quen mà lạ”: rất giàu tính hiện thực đan cài nhiều yếu tố hư ảo, đôi<br />
khi ma quái.<br />
Là một cây bút trẻ, rất nhạy cảm với môi trường công nghiệp hiện đại, lại có vốn<br />
văn hoá Phật giáo sâu sắc, Hồ Anh Thái đã lựa chọn cho mình một phương thức thể<br />
hiện rất riêng. Chính sự kết hợp hài hoà giữa cái phương Tây mới lạ và nét phương<br />
<br />
171<br />
Đông thuần hậu đã ươm mầm cho cách cảm, cách nghĩ, cách chiêm nghiệm về “cõi<br />
người” trong những trang viết của anh. Dẫu vẫn còn đôi điều cần bàn cãi, nhưng công<br />
bằng mà nói, những tiểu thuyết của nhà văn này đã thể hiện sự nghiêm túc, khắt khe<br />
trong việc tìm tòi, đổi mới văn học trên nhiều phương diện, nhưng đáng chú ý nhất là<br />
quan niệm nghệ thuật về con người. Đây là nhân tố, điểm tựa quan trọng góp phần làm<br />
thay đổi diện mạo văn xuôi đương đại.<br />
2. “Con người là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá chủ yếu vừa là cái đích<br />
cuối cùng của văn học, đồng thời cùng là điểm quy chiếu, là thước đo giá trị của mọi<br />
vấn đề xã hội, sự kiện và biến cố lịch sử” (1). Nguồn gốc sâu xa của tiến trình đổi mới<br />
văn học nói chung, của một tác giả nói riêng, đều bắt nguồn từ trong cảm hứng sáng tạo,<br />
trong quan niệm nghệ thuật về con người, trong tư duy nghệ thuật.<br />
Con người, theo quan niệm triết học phương Đông, là một tiểu vũ trụ huyền bí<br />
và sâu thẳm mà văn học tự cổ chí kim vẫn không khám phá hết. Quan niệm nghệ thuật<br />
về con người có thể xem là một thước đo trình độ chiếm lĩnh hiện thực đời sống của tác<br />
phNm, tác giả: “Quan niệm nghệ thuật về con người tạo thành cơ sở, thành tố vận động<br />
của nghệ thuật” (2).<br />
Đối với văn học Việt Nam, sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người diễn<br />
ra lần đầu vào nửa đầu thế kỷ XX khi điều kiện xã hội thay đổi làm xuất hiện những con<br />
người mới. Văn học phản ánh cách cảm, cách nghĩ của những con người đó nên cũng<br />
phải tự đổi mới mình cho phù hợp.<br />
Từ 1945 – 1975, do chú trọng các nhiệm vụ chính trị, lấy việc phản ánh và động<br />
viên kịp thời cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc làm mục đích tối thượng, truyện ngắn<br />
và nhất là tiểu thuyết thường hướng tới những bức tranh hiện thực hoành tráng, trong đó,<br />
đề tài chiến đấu và lao động sản xuất của quân và dân ta nổi lên như hai gam màu chủ<br />
đạo. Và con người - linh hồn của bức tranh hiện thực đầy tinh thần lãng mạn cách mạng,<br />
ngùn ngụt không khí sử thi đó cũng hiện lên trong chân dung của con người quần chúng,<br />
con người tập thể, đôi khi thiếu cá tính, nhạt mờ về tâm lí. Do nghiêng về chú trọng vận<br />
mệnh dân tộc, văn học giai đoạn này dường như cũng chỉ mới phản ánh cái hiện thực bề<br />
nổi, dù có đạn bom nhưng vẫn trong lành, tinh khiết đến độ “vô trùng”, mà chưa có điều<br />
kiện để phản ánh một cách toàn diện cái hiện thực phức tạp và khốc liệt của chiến tranh,<br />
chưa đi sâu vào những mâu thuẫn nội bộ nhân dân, vào những vấn đề xã hội trong cuộc<br />
sống bình thường hằng ngày của con người, vào số phận cá nhân, hạnh phúc cá nhân.<br />
Những vấn đề cội rễ nhân bản của văn học chỉ được đặt ra như một bình diện phụ, sau<br />
bình diện con người - xã hội, cả trong sáng tác cũng như trong nghiên cứu. Tính hiện<br />
thực của văn học vì thế cũng được đo bằng sự phản ánh những mặt cơ bản của hiện thực<br />
là sản xuất và chiến đấu. Hiện thực này nhiều khi là cái cần có hơn là cái hiện có. Điều<br />
này đôi lúc, đôi nơi đã không thể tránh được sự lệch lạc trong nhìn nhận, đánh giá tính<br />
hiện thực của văn học, sự sơ lược, giả tạo, công thức trong phản ánh, khám phá cuộc<br />
sống của nhà văn.<br />
172<br />
Sau năm 1975, mà nhất là sau 1986, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, văn học<br />
bị chi phối bởi quy luật của thời bình. Lúc này, văn xuôi kháng chiến về cơ bản đã hoàn<br />
tất sứ mệnh của mình, nhường chỗ cho một nền văn học mới thích ứng với những chất<br />
liệu mới của cuộc sống. Cái hiện thực mà văn học đang cố gắng nắm bắt cũng đã thay<br />
đổi một cách căn bản: Từ chất liệu anh hùng ca chuyển sang chất liệu đời thường. Bên<br />
cạnh hiện thực đời sống hiện ra sống động với trăm ngàn dáng vẻ, thì con người - trung<br />
tâm của sự thay đổi chất liệu văn học - như nhận xét của Ban chấp hành Hội Nhà văn -<br />
một thế giới với số phận riêng và trong mối quan hệ cũng hết sức phong phú và phức<br />
tạp của nó đối với toàn xã hội, trở thành mối quan tâm hàng đầu của sáng tác. Con<br />
người được nhìn nhận nhiều chiều hơn, thật hơn. Bên cạnh cái đẹp, cái anh hùng, cái<br />
cao cả, con người trong văn học giờ đây còn có cả cái xấu xí, cái thô kệch, thấp hèn...<br />
Tiểu thuyết của Hồ Anh Thái đã phản ánh một cách trung thực những bộn bề,<br />
phức tạp của cuộc sống thời khủng hoảng, thời xây dựng. Nhân vật trong tiểu thuyết của<br />
anh chính vì lẽ đó cũng trở nên gần gũi với tầm đón nhận, thị hiếu của người đọc. Đó là<br />
những con người mà ta có thể bắt gặp xung quanh hay bắt gặp ngay trong chính mình.<br />
Mỗi người là một “nhân vị” riêng với những mảnh đời khác nhau, những bi kịch khác<br />
nhau. Đó là những con người trần thế với tất cả chất người tự nhiên của nó.<br />
Hướng tới xác lập phong cách riêng, qua đó, mang lại sinh khí mới cho đời sống<br />
văn học bằng việc xây dựng chân dung con người mới hiện đại chính là tham vọng, nỗ<br />
lực của Hồ Anh Thái. Cũng như bao nhà văn đương đại khác, Hồ Anh Thái vẫn tìm đến<br />
những đề tài chiến tranh nhưng anh đã có cái nhìn sâu hơn về người chiến sĩ. Không lý<br />
tưởng hoá họ mà anh đi sâu vào nội tâm, kiếm tìm, lật xới, đưa ra ánh sáng những phần<br />
khuất lấp bên trong con người bấy lâu nay còn Nn giấu. Anh mạnh dạn nhìn vào hiện<br />
thực chiến tranh và không khỏi đau xót trước hình ảnh những cô thanh niên xung phong,<br />
một thời phục vụ cho cuộc chiến, hy sinh tuổi xuân, sắc đẹp vì lý tưởng, để rồi chiến<br />
tranh qua đi chính họ lại cô đơn, lạc lõng và trở thành những “người đàn bà trên đảo”.<br />
Quay trở về với cuộc sống, họ ngỡ ngàng trước hiện thực, xót xa vì nhận ra cái tuổi đẹp<br />
nhất của mình đã vùi sâu dưới lòng đất, nơi chỉ còn những mảnh bom đạn và ký ức.<br />
Trong sương hồng hiện ra cũng đề cập đến con người anh hùng, nhưng không<br />
phải là những anh hùng chỉ biết ngNng cao đầu tiến lên, nhằm thẳng hướng quân thù mà<br />
họ còn là những anh lính thích nhảy và ưa hát, lại khá tinh nghịch. “Chất” lính với<br />
những hình ảnh rất đời thường, hồn nhiên và đáng yêu như thế có lẽ rất hiếm thấy trong<br />
tiểu thuyết trước đây, khi mà đa phần người viết đều thiên về nhìn nhận họ như những<br />
người anh hùng, chỉ biết chiến đấu, chỉ biết hy sinh. Đóng góp của người viết là đã dũng<br />
cảm tước bỏ vầng hào quang văn chương do cái nhìn sử thi quy định để chiến tranh hiện<br />
ra chân thật, sống động và toàn diện trong ánh sáng đích thực của nó.<br />
Mỗi thời đại có một quan niệm nghệ thuật về con người và mỗi nhà văn lại có<br />
cách khai thác, thể hiện riêng nhưng phần lớn đều có khát vọng đi sâu mổ xẻ nội tâm của<br />
họ để kiếm tìm một con người khác - một con người “không trùng khít với chính mình”.<br />
173<br />
Trong những tác phNm gần đây của Tạ Duy Anh, chúng ta thấy tác giả thường<br />
xuyên độc thoại với cái tôi chính mình, khám phá chính mình để trả lời cho câu hỏi<br />
“Mình là ai?”. Võ Thị Hảo cũng thế. Chị để cho nhân vật Từ Đạo Hạnh (Giàn Thiêu)<br />
đứng trước sự lựa chọn: Có nên đầu thai vào kiếp khác hay không? Nguyễn Minh Châu<br />
thì đặt nhân vật vào quá trình tự đấu tranh, cọ xát bên trong để họ có điều kiện tự ý thức,<br />
đánh giá lại chính mình qua một loạt tác phNm: Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến<br />
tàu tốc hành, Cỏ lau, Chiếc thuyền ngoài xa, Phiên chợ Giát… Còn Hồ Anh Thái thì<br />
cho nhân vật Đông ở Cõi người rung chuông tận thế, trong vai trò của nhân vật - người<br />
kể chuyện xưng “Tôi”, sống hoà mình vào cái ác, “đồng hội đồng thuyền” với cái ác<br />
(biểu hiện qua tuyến nhân vật đồng dạng Cốc, Phũ, Bóp). “Tôi” đã có một quá trình tự<br />
vấn, đứng chênh vênh giữa hai bờ thiện và ác để sám hối, để thức tỉnh, để tự tìm cho<br />
mình một con đường. Hành trình dấn thân - tự vấn của nhân vật đã giúp cho người đọc<br />
nhận biết được phần Nn khuất bên trong của Đông – cũng là của chính mình.<br />
Con người trong tiểu thuyết của Hồ Anh Thái phức tạp, đa dạng và đều là những<br />
lát cắt chân thực cuộc sống đương đại với đầy đủ những cung bậc “đa sự - đa đoan” của<br />
nó. Đó không phải là những con người “đơn trị”, “dễ hiểu” mà là con người đa chiều, đa<br />
diện. Khuynh và Diệu trong Người và xe chạy dưới ánh trăng luôn sống với hai cuộc<br />
đời thật - giả. Khát vọng quyền lực đến mức bệnh hoạn đã đưa Khuynh đến bi kịch. Khi<br />
biết tin vợ con anh chết trong một trận bom, mọi người đều chia buồn, an ủi, nhưng họ<br />
đã lầm. Và sự thật tàn nhẫn đến khó tin này đã được tác giả mượn lời một nhân vật khác<br />
để phơi ra trần trụi: “Anh Chín tưởng Khuynh đau đớn về vợ con? Không đâu, khi đơn<br />
vị chuyển đi, Khuynh cảm thấy như trút được gánh nặng, và đã để vợ con ở lại. Cũng là<br />
trong suốt mấy năm ở tuyến lửa, Khuynh ít nghĩ tới họ” (3). Cái chết ấy dường như với<br />
Khuynh là một sự giải thoát. Không ai hiểu được Khuynh ngoại trừ bà mẹ, bà biết:<br />
“Con bà nếu làm chồng làm cha sẽ là một người chồng người cha dửng dưng, lạnh lẽo.<br />
Nếu là một người yêu sẽ là một người yêu ích kỷ, không bao giờ yêu hết mình, ngoại<br />
trừ nỗi đam mê xác thịt cuồng bạo” (3). Con ngựa chạy mãi cũng cuồng chân; khi tất cả<br />
đã trở thành vô nghĩa, điều đầu tiên Khuynh muốn là gỡ bỏ cái mặt nạ về một gia đình<br />
hạnh phúc, ấm êm của mình để đến với Hoài - người Khuynh yêu. Ranh giới giữa một<br />
người thành đạt và bất hạnh thật mỏng manh. Hơn ai hết, anh là người nhận ra điều đó.<br />
Việc lựa chọn ra đi của Khuynh thể hiện sự nhận thức sâu sắc của nhân vật về cuộc đời<br />
mình. Anh không còn gì ngoài hai bàn tay trắng và tình yêu cuối mùa với người đàn bà<br />
có bộ mặt nhàu nát theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Bi kịch của anh không đơn giản<br />
chỉ là vấn đề của một cá nhân mà còn mang dấu ấn thời đại khá rõ; ở đó, con người<br />
không ngừng bị chi phối, giăng mắc trong vô vàn mối quan hệ, bị tác động bởi không ít<br />
những “hóa chất” có sức... tha hóa nhân tính cực mạnh: danh vọng, địa vị, sự đố kị, lòng<br />
tham,...<br />
Nghĩa là, nói như một số nhà nghiên cứu văn học hiện nay, sáng tác của Hồ Anh<br />
Thái đã đạt đến thế quân bình văn học, bởi chúng vừa "hướng ngoại" lại vừa "hướng<br />
<br />
174<br />
nội". Một mặt, người viết tái hiện bức tranh hiện thực sống động với những mặt đối lập<br />
riêng – chung, cá nhân - cộng đồng, trăn trở đi tìm câu trả lời cho câu hỏi mang tính<br />
nhân văn về những vấn đề của đời sống xã hội, đời sống người đời; mặt khác, và là mặt<br />
chủ yếu, nhà văn chú trọng khai thác một "hiện thực" khác, phong phú và dồi dào chất<br />
liệu không kém, đó là thế giới bên trong thầm kín, thế giới vi mô con người, bằng một<br />
ngôn ngữ văn xuôi sống động và đa nghĩa. Từ góc độ này, có thể thấy, Hồ Anh Thái đã<br />
không ngại ngần khi dấn thân vào một cuộc hành trình, theo như cách nói của Nguyễn<br />
Minh Châu, thể hiện rất rõ "niềm hạnh phúc lớn nhất và cũng là cái điều khổ ải nhất của<br />
anh cầm bút xưa nay".<br />
Với cái nhìn trực diện vào cái ác, cái xấu, vào những mặt trái của xã hội, qua<br />
cách khám phá thế giới tế vi của nhân vật, Hồ Anh Thái đã thật sự đặt ra những vấn đề<br />
“nổi cộm” của thời đại và chúng trở thành những thông điệp có ý nghĩa sâu sắc.<br />
Con người được nhìn nhận như một cá thể bình thường nên nó trần trụi hơn<br />
trong tác phNm của Thái. Thế giới nhân vật của anh là những con người phàm tục trăm<br />
phần trăm. Chỉ biết hưởng thụ, sống gấp, họ thu mình lại trong thế giới cá nhân hết sức<br />
vị kỉ. Đó là mảnh đất màu mỡ cho sự sinh sôi nảy nở của cái xấu, cái ác. Họa sĩ Chuối<br />
Hột trong Mười lẻ một đêm có cái sở thích kỳ lạ đến quái đản: “48 cái xuân xanh là 48<br />
mùa cởi mở, thời trang yêu thích nhất là bộ cánh lúc lọt lòng mẹ” (4). Anh ta sống cô lập,<br />
tách biệt với mọi người xung quanh. Trong Cõi người rung chuông tận thế, bộ ba công<br />
tử Bóp, Phũ, Cốc luôn chìm đắm trong ốc đảo của những kẻ dư thừa tiền bạc, thiếu thốn<br />
thú vui lạ kì. Cốc luôn đê mê trong cuộc sống tình dục buông thả đến không tưởng. Bóp<br />
tìm đến khoái cảm bệnh hoạn bằng cách bóp cổ những con vật cho đến chết. Nhân cách<br />
của Phũ cũng lệch lạc không kém, thú tiêu khiển quái gở của hắn là sưu tập... những<br />
chiếc quần lót của các cô gái sau khi đã qua đêm với mình. Cách sống của những người<br />
này làm cho chúng ta không khỏi lo sợ cho một thế hệ thanh niên hiện đại ngày nay với<br />
lối sống buông thả, bất cần, gấp gáp. Nhân vật nữ của truyện cũng không phải là một<br />
ngoại lệ. Yên Thanh, một hoa khôi có khuôn mặt đồng trinh, trong sáng đến lạ lùng,<br />
bỗng chốc trở nên “dâm đãng”, “không thể sống nổi một tháng mà không có đàn ông”.<br />
Rõ ràng, bất kể nam nữ, họ dường như đều tự thiết lập cho mình một thế giới riêng biệt<br />
nằm ngoài vòng cương tỏa của xã hội.<br />
Tường trong Người đàn bà trên đảo cũng vậy. Là kẻ tật nguyền, bị loại ra khỏi<br />
vòng quay tàn nhẫn của chiến tranh, Tường đã rất ý thức về trị giá... giống đực của mình<br />
và tận dụng mọi cơ hội (cả khách quan lẫn chủ quan), bày ra mọi thủ đoạn để biến mình<br />
thành người... phối giống cho tất cả những người đàn bà Đội Năm. Nhân vật Bà mẹ với<br />
năm lần đò và vô vàn những cuộc phiêu lưu tình ái trong Mười lẻ một đêm cũng kinh<br />
hoàng không kém. Ham muốn tình dục vượt ngưỡng khiến người mẹ trẻ này sẵn sàng<br />
gạt sang bên cái gọi là phNm hạnh thiêng liêng đối với một phụ nữ bình thường – đó là<br />
chăm lo, gìn giữ hình ảnh của mình trong mắt của con cái: bà không cần giấu giếm khi<br />
để cho đứa con gái của mình “phải chứng kiến tất cả các thể loại đàn ông của mẹ”. Câu<br />
175<br />
nói được bà sử dụng như một kỹ xảo đối với đối tác của mình là: “Về làm gì, ở lại ngủ<br />
cho vui”. Kết quả sau mỗi lần ly dị là một lần bà được một cái nhà: “Chồng đầu tiên<br />
được một cái nhà để xe. Chồng thứ hai được chia đôi căn phòng hai mươi mét vuông.<br />
Chồng thứ ba căn hộ tập thể tầng hai. Chồng thứ tư được chín mét vuông phố cổ. Chồng<br />
thứ năm khá nhất, giáo sư viện trưởng, căn hộ chung cư chất lượng cao” (4).<br />
Trong Đức Phật, nàng Savitri và tôi, nàng công chúa Ấn Độ cổ đại Savitri cũng<br />
có những cuộc mây mưa liên tiếp, với đủ các thế: “Bandhura. Prenkha. Dadhyataka.<br />
Mausala. Chàng sướng lên mỗi lần chuyển đổi. Những là thắt nút. Những là chơi đu.<br />
Những là khuấy sữa. Những là giã gạo. Naga. Hadavaka. Hastika. Harina. Bhamara. Ta<br />
thì thầm vào tai chàng mỗi lần một nguyện vọng. Những là rắn. Những là ngựa. Những<br />
là voi là hươu những là ong đất. Chúng ta quấn vào nhau triền miên không có điểm<br />
dừng”(5).<br />
Nếu chỉ dừng lại khắc họa nhân vật ở cái mặt trái này thì có lẽ Hồ Anh Thái<br />
cũng không thoát khỏi tình trạng đáng buồn thường xuất hiện ở không ít các tiểu thuyết<br />
gần đây khi cố tình tô đậm mặt tính dục như một “chiêu” kích thích thị hiếu tầm thường<br />
của số ít độc giả vừa tầm. Chất nhân văn đằm sâu tạo thành sức hút, thành “thương<br />
hiệu” Hồ Anh Thái là ở chỗ, đằng sau những bi kịch nhân sinh, nhà văn không mất đi<br />
niềm hy vọng vào con người. Anh dám nhìn thẳng vào những nhức nhối bủa vây cõi<br />
người để gióng lên hồi chuông khNn thiết về sự khô kiệt nhân tính đang có mặt khắp nơi.<br />
Sau quá trình trôi nổi ngỡ như vô định, người viết đã đưa nhân vật của mình quay lại cái<br />
phương Đông thuần hậu, chất phác. Đông đã có hành động tuyệt giao với cái ác, cái xấu<br />
(vứt viên thuốc độc vào cống nước) “để thanh lọc cái tâm hồn tội lỗi của mình”(6). Con<br />
người biết suy ngẫm, biết trăn trở, biết từ bỏ cái xấu để về bên cái đẹp, biết đau đớn cho<br />
những điều trông thấy trong “Cõi người” phức tạp hôm nay, con người ấy thật đáng<br />
thương, đáng quý. Tác phNm là cả một tấm lòng bao dung, là hồi chuông “cảnh tỉnh”<br />
con người của tác giả.<br />
Trong tiểu thuyết mới nhất của Hồ Anh Thái - Đức Phật nàng Savitri và tôi - ta<br />
lại bắt gặp một con người hoàn toàn khác lạ. Có thể nói, con người ấy là của riêng, của<br />
để dành của anh. Trong tác phNm này, người viết đã xây dựng thành công kiểu con<br />
người tâm linh, con người giác ngộ. Ở đó, họ vô ưu, tĩnh thiền để nhìn vào cõi lòng<br />
mình, thực hiện một cuộc hành trình ngược hướng đầy vất vả để tìm lại cái “bản lai diện<br />
mục” của chính mình. Đây có lẽ là con người đẹp nhất, toàn bích nhất, con người mà<br />
Hồ Anh Thái dành tất cả tấm lòng tôn kính để xây dựng lên. Con người ấy có một gia<br />
thế quyền quý (Hoàng tử), đẹp về ngoại hình lại có một trí tuệ siêu phàm: “Hoàng tử lớn<br />
lên thành một trang thiếu niên khôi ngô, tuấn tú. Ham hiểu biết. Chàng lĩnh hội nhanh<br />
chóng kiến thức mà các vị đạo sư truyền giảng. Đủ cả bốn bản kinh Vệ Đà. Đủ cả kiến<br />
thức triết học, thần học. Đủ cả kiến thức thế học, bao gồm chính trị và pháp luật. Đủ cả<br />
kiến thức y khoa và các môn khoa học khác” (5). Quan trọng hơn, con người đó luôn đầy<br />
ắp tình yêu thương. Chàng không chỉ xót xa khi chứng kiến sự đau khổ của đồng loại,<br />
176<br />
của vòng sinh - lão - bệnh - tử mà còn dành tình thương bao la cho muôn loài có sự<br />
sống: “Thay cho việc bắn cung vào một mục tiêu di động là con chim đang bay, chàng<br />
chỉ chấp nhận bắn tên vào một mũi tên khác bắn lên trời. Thay cho việc phóng lao vào<br />
một con dê, chàng chỉ chịu phóng lao vào hình nộm đi động”. Tình yêu thương vô tận<br />
ấy đã biến thành động lực cho những hành động cao cả của hoàng tử. Chàng muốn cứu<br />
con người ra khỏi bể khổ. Siddhattha từ chối cuộc sống vương giả, hạnh phúc riêng tư,<br />
cung vàng, điện ngọc, cởi bỏ xiêm y lộng lẫy để mặc lên mình tấm áo xô gai, bắt đầu<br />
một cuộc đời mới, một hành trình đi tìm sự sống thật sự.<br />
Để trở thành Đấng Giác Ngộ - điều ấy thật không dễ dễ dàng. Hoàng tử<br />
Siddhattha đã trải qua biết bao khó khăn, thử thách, cạm bẫy, có khi đứng chênh vênh<br />
giữa sự sống và cái chết. Nhưng cuối cùng, chính ý chí, lòng quyết tâm, và trên hết là<br />
một trái tim tha thiết sống vì con người, cho con người, đã giúp chàng lĩnh hội được<br />
chân lý cuộc sống, con đường diệt khổ để đưa nhân sinh tới cõi Niết Bàn.<br />
Sau khi trở thành Phật, Buddha đã cảm hoá, giác ngộ những sinh linh đang rơi<br />
vào vòng tội lỗi, khổ đau, tuyệt vọng. Biết bao người nhờ thế đã tìm được cho mình lẽ<br />
sống, sự thanh thản, chay tịnh. Yasa từ một tay ăn chơi số một của kinh thành Varanasi<br />
đã quy y để sống cuộc đời của một khất sĩ. Hoàng tử Ahimsaka trí tuệ, thông thái, chỉ vì<br />
sự đố kị của sư phụ, sự ruồng bỏ của người thân nên nên rơi vào ngõ cụt, bất đắc dĩ phải<br />
trở thành tên sát thủ kinh hoàng Anguli Mala, trên người lúc nào cũng có một tràng hạt<br />
làm từ những ngón tay út của nạn nhân, giờ đã được Phật pháp cứu vớt khỏi bến mê,<br />
đưa anh về bên Phật, cải tà quy chính, trở lại đúng như cái tên của mình từ thuở lọt<br />
lòng: Ahimsaka - không sát sinh.<br />
Có thể nói, Đức Phật nàng Savitri và tôi là một món lạ, bổ sung thêm một<br />
hương vị mới, độc đáo vào thực đơn của Hồ Anh Thái, làm cho truyện của anh nói<br />
chung, tiểu thuyết nói riêng tránh được sự đơn điệu, nhàm chán. Món ăn ấy vừa có vị<br />
đậm đà của của những lớp trầm tích văn hoá, vừa có vị thanh nhẹ của những suy tư, nỗi<br />
niềm, vừa có vị cay của những chiêm nghiệm cuộc đời, vừa có vị đắng của những khổ<br />
đau, mất mát, lại vừa ngọt ngào bởi những chân giá trị vĩnh hằng của con người.<br />
3. Quan niệm nghệ thuật về con người trên đây đã dẫn đến những thay đổi tích<br />
cực trong cách nhận thức về hiện thực của Hồ Anh Thái. Với anh, hiện thực gồm "những<br />
gì ta thấy, ta nghe, ta trải nghiệm là chưa đủ. Hiện thực còn là cái ta cảm nữa (...) Cả một<br />
đời sống tâm linh cũng là hiện thực"(7). Gắn liền với quan niệm mới mẻ này là việc người<br />
viết không ngừng nhấn mạnh hơn nữa vai trò tích cực của chủ thể sáng tạo. Có lẽ vì thế,<br />
những sáng tác của anh, dù là truyện ngắn hay tiểu thuyết, thường gắn với cảm hứng<br />
"nhận thức lại" - một nhân tố quan trọng làm chuyển biến theo hướng tích cực diện mạo<br />
văn xuôi hôm nay. Cảm hứng này thường không tránh khỏi nói đến những mất mát, tiêu<br />
cực, nhưng đó không phải là phủ nhận quá khứ, lên án chế độ mà là để cảnh tỉnh, để góp<br />
phần đắc lực trong cuộc chiến chống lại những con người, những sự việc tiêu cực, phi<br />
nhân bản, trái với lí tưởng cao đẹp của dân tộc. Việc nhìn lại quá khứ gắn với nhu cầu<br />
177<br />
thức tỉnh cá nhân trở thành cảm hứng chung của văn học thời kì đổi mới - một trong<br />
những nhân tố quan trọng làm gia tăng chất văn xuôi của truyện như Bakhtin từng nhận<br />
xét. Đây cũng là cơ hội để nhà văn thực hiện những khát vọng ấp ủ từ lâu nhưng do hoàn<br />
cảnh chiến tranh, sự thiếu dân chủ trong cơ chế quản lí văn hoá văn nghệ cũng như những<br />
bộn bề thời hậu chiến họ chưa có điều kiện đề cập thấu đáo. Điều đáng quý ở đây là, dù<br />
viết về cái gì, người hay ma, tốt hay xấu, hôm qua hay hôm nay... thì cái đích của sáng tác<br />
Hồ Anh Thái vẫn là cuộc sống hiện tại. Vút lên trên cái nền ngổn ngang, bề bộn của tác<br />
phNm vẫn là khát vọng mong muốn cuộc sống này nhân hậu, tốt đẹp hơn.<br />
Chiều sâu trong cái nhìn nghệ thuật của Hồ Anh Thái trước hết thể hiện ở chỗ<br />
anh biết vượt qua những lối mòn tư duy coi văn học như là tấm gương phản ánh hiện<br />
thực một cách đơn giản - điều mà nhà văn gọi là hiện thực thô sơ - để nhìn cuộc đời như<br />
nó vốn có. Để có sức hấp dẫn người đọc, theo tác giả, cái hiện thực ngoài đời kia phải<br />
thông qua sự cảm thấy của nhà văn, được nhào nặn lại bằng những suy tưởng và tưởng<br />
tượng của chủ thể sáng tạo. Giống như Hoà Vang, Hồ Anh Thái cũng không thừa nhận<br />
sự độc tôn của phương pháp thuần tuý hiện thực: "Tôi quan niệm tiểu thuyết như một<br />
giấc mơ dài, gấp sách lại người ta vừa mừng rơn như vừa thoát khỏi một cơn ác mộng,<br />
lại vừa tiếc nuối vì phải chia tay với những điều mà đời thực không có. Nếu tôi chỉ dùng<br />
phương pháp hiện thực thuần tuý thì sẽ không có được giấc mơ ấy đâu"; vì như thế là<br />
"tự làm nghèo trang viết của mình" (7). Nhìn lại "cái quan niệm một thời về chủ nghĩa<br />
hiện thực thô sơ", Hồ Anh Thái cho rằng: "Thật quá mà đâu phải đã đến gần hiện thực";<br />
đồng thời cũng không che giấu mong muốn được đọc và viết "những tác phNm của sức<br />
tưởng tượng phi thường, tạo dựng được những tình huống khác lạ, những cảm xúc mê<br />
đắm, những nhân vật không chịu mặc đồng phục" (8). Chính cái quan niệm táo bạo, cái<br />
mơ ước chẳng giống ai này đã đưa dắt nhà văn đến với cái kì ảo, tận dụng nó như một<br />
thủ pháp đắc địa để tạo ra sự quyến rũ thực sự cho những trang viết của mình.<br />
Trong cảm quan của nhà văn thiên về lối viết theo sự gợi ý của trực giác, linh<br />
cảm, cảm nhận đời sống theo "mệnh lệnh trái tim" này, người ta chẳng khó khăn gì cũng<br />
có thể đọc thấy quan niệm cho rằng càng trung thành với nguyên mẫu ngoài đời bao<br />
nhiêu, đôi cánh tưởng tượng càng bị vặt trụi lông bấy nhiêu. Dường như ở đây có sự gặp<br />
gỡ trong tư duy nghệ thuật của anh với quan niệm của triết gia Ấn Độ - Vivekananda:<br />
"Thế giới này nhỏ bé lắm, người ta phải thêm vào đó một chút tưởng tượng"; hoặc của<br />
Aimatốp, nhà văn Nga từng nổi tiếng với những sáng tác huyền thoại như Con tàu trắng,<br />
Và một ngày dài hơn thế kỉ: "Chúng ta chỉ nhận thấy hiện thực tuyệt vời của chúng ta,<br />
sự nghiệp của chúng ta, lịch sử của chúng ta, cuộc sống của chúng ta. Nhưng theo tôi,<br />
cách nhìn nhận hời hợt trong văn học lỗi thời rồi, cần phải có một cách nhìn bổ sung,<br />
cách nhìn "từ phía bên", cách nhìn sâu thẳm, cách nhìn của quá khứ. Tất cả những cái<br />
đó gộp lại làm cho sức mạnh của hình tượng nghệ thuật thêm cô đọng. Truyền thuyết,<br />
huyền thoại, bài ca, toàn bộ kết cấu của chúng đã giúp tôi trong việc tìm kiếm tính nhiều<br />
bình diện và tính nhiều chiều như vậy"(9).<br />
<br />
178<br />
4. Người Trung Quốc xưa đã có quan niệm rất hay về con người. Con người là<br />
trung tâm của vũ trụ. Trời - cha ở trên. Đất - mẹ ở dưới. Sinh ra con người ở giữa, hội tụ<br />
đủ mọi tinh hoa của trời đất. Nhưng để trở thành tinh anh, thì con người phải vượt qua<br />
được thử thách của xã hội, có sức đề kháng với quá trình tha hóa âm thầm nhưng khốc<br />
liệt của cuộc sống thường hằng. Con người chỉ có thể “bản thiện” khi mới sinh ra; theo<br />
thời gian, do sự tiếp xúc với xã hội, tính thiện ấy sẽ bị chi phối (theo chiều hướng tích<br />
cực lẫn tiêu cực). Cùng với những nhà văn cùng thời khác, Hồ Anh Thái đã nhận dạng<br />
ra biết bao kiểu con người: con người anh hùng, sử thi, cao cả, con người thấp hèn, bản<br />
năng, tự nhiên, ích kỷ, cá nhân, con người tâm linh, siêu phàm, trí tuệ… Không giống<br />
như một số cây bút lớp trước, nhân vật thường đẹp đến tuyệt bích, không một tì vết bởi<br />
đa phần đó là kiểu con người lý tưởng được đNy tới hạn để đại diện cho cộng đồng, dân<br />
tộc, thời đại (Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh Châu, Tnú trong<br />
Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, Núp trong Đất nước đứng lên - Nguyên Ngọc…),<br />
anh thấu hiểu những tâm tư, tình cảm, hành xử... rất người từ những đứa con tinh thần<br />
của mình, nhất là những ai mang trên mình vầng hào quang lịch sử - thời đại. Anh biết<br />
họ vẫn có một cuộc sống bình dị, giản đơn, riêng tư cần được lên tiếng; những ước mơ<br />
nhỏ bé, những cơn sóng lòng đang âm ỉ trào dâng bên cạnh một cuộc đời của chiến công,<br />
của lý tưởng. Nếu như Nguyễn Huy Thiệp luôn để cho nhân vật của mình bô bô nói lên<br />
khát khao xác thịt để rồi không ít lúc bị dục vọng đưa dắt vào địa hạt của sự phi luân<br />
(một ông bố chồng lại có thể bắc ghế nhìn trộm con dâu tắm, một thằng em chồng lại cứ<br />
muốn ngủ với chị dâu và cảm thấy sảng khoái khi chiếc cúc áo ngực của chị bị<br />
tuột…(Không có vua); nữ nhân vật chính trong Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu cứ quay<br />
cuồng trong những đợt cưỡng hiếp tưởng tượng từ thế giới cõi âm; Phạm Thị Hoài, Bảo<br />
Ninh, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương… cũng tạo ra những cái “rùng mình” của văn<br />
hoá dân tộc thì Hồ Anh Thái vẫn thủy chung trong hành trình tìm kiếm những hạt mầm<br />
thiên lương đang le lói trên những gương mặt méo mó, dị dạng, trong những tâm hồn<br />
đang tha hóa, kéo họ về với cõi người dẫu không ít cay nghiệt, bất như ý nhưng vẫn rất<br />
bao dung, đáng sống, đáng để được nâng niu, đưa họ tới bến đỗ của tình yêu thương,<br />
của niềm tin vào khả năng phục thiện, hướng thiện ở mỗi con người. Thực tiễn sáng tác<br />
của Hồ Anh Thái là một minh chứng cho thấy tư duy nghệ thuật đang trở về với con<br />
người cá nhân với những cái "lăn tăn", "khổ đau ngậm ngùi nho nhỏ" của nó. Đây là<br />
nguyên nhân cơ bản làm thay đổi nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật, cấu trúc của<br />
sáng tác, đổi thay nguyên tắc thể hiện viễn cảnh trong truyện ngắn và tiểu thuyết thời<br />
đổi mới.<br />
Văn đàn đương đại không chỉ thâu nhận Hồ Anh Thái với vị trí của một nghệ sĩ,<br />
mà còn ghi tên anh vào công cuộc đổi mới, cách tân văn xuôi đương đại nói chung, tiểu<br />
thuyết nói riêng. Cũng như sáng tác của một số cây bút văn xuôi thời Đổi mới (Nguyễn<br />
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương,...), tiểu thuyết của<br />
Hồ Anh Thái, ở một vài chỗ, cũng mang dấu ấn của chủ nghĩa hậu hiện đại phương Tây.<br />
Vì vậy, nhân vật trong tác phNm của anh phần đông là những con người đa cực, đa trị,<br />
179<br />
bất bình thường. Mỗi người với nhiều ngã rẽ, không đơn tuyến, nhất phiến và ai cũng<br />
mải mê đi tìm cho mình một điểm tựa, một mục tiêu để phấn đấu. Chính bởi lí do đó<br />
nên cái tôi được coi trọng trong tác phNm của anh. Điều này đã tạo nên sức nặng, giá trị<br />
vĩnh hằng cho tiểu thuyết của Hồ Anh Thái; qua đó thổi vào văn đàn đương đại một<br />
luồng sinh khí mới: táo bạo và mới lạ. Cây bút với trữ lượng sáng tác dồi dào, đa dạng<br />
về phong cách này đã làm cho văn xuôi đương đại nói chung, tiểu thuyết nói riêng đang<br />
khởi sắc càng khởi sắc thêm, đã sôi động lại càng thêm náo động, những giá trị lại tiếp<br />
nối giá trị. Những biểu hiện trong quan niệm nghệ thuật về con người trên đây là một<br />
(trong nhiều) chìa khoá để độc giả mở cánh cửa bước vào thế giới tiểu thuyết Hồ Anh<br />
Thái với một đánh giá không võ đoán rằng nó cũng chính là đóng góp quan trọng của<br />
nhà văn vào quá trình hiện đại hóa văn xuôi đương đại, góp phần đưa tiểu thuyết Việt<br />
Nam tự tin bước ra thế giới.<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
1. Nhiều tác giả, Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy,<br />
Nxb.Giáo dục, Hà Nội, 2005; tr 195.<br />
<br />
2. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, NXB. Giáo dục, Hà Nội (1998) 46.<br />
<br />
3. Hồ Anh Thái, Người và xe chạy dưới ánh trăng, NXB. Hội Nhà văn, Hà Nội (2005)<br />
177, 179.<br />
<br />
4. Hồ Anh Thái, Mười lẻ một đêm, NXB. Đà Nẵng (2006) 19, 61.<br />
<br />
5. Hồ Anh Thái, Đức Phật, nàng Savitri và tôi, NXB. Đà Nẵng (2007) 129, 35.<br />
<br />
6. Hồ Anh Thái, Cõi người rung chuông tận thế, NXB. Đà Nẵng (2004) 160.<br />
<br />
7. Hồ Anh Thái, Cõi người rung chuông tận thế - Tác ph"m và dư luận, Nxb. Đà Nẵng,<br />
(2003) 269, 261 - 269.<br />
<br />
8. Hồ Anh Thái, Họ trở thành nhân vật của tôi, NXB.Hội Nhà văn, Hà Nội (2003) 12.<br />
<br />
9. Lê Sơn, Lời giới thiệu Và một ngày dài hơn thế kỉ, NXB. Lao động, Hà Nội, 1986.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
180<br />
INNOVATION IN THE CONCEPTS OF ART IN HO ANH THAI’S NOVELS<br />
Bui Thanh Truyen<br />
College of Pedagogy, Hue University<br />
Le Bien Thuy<br />
Phu Xuan University<br />
SUMMARY<br />
Ho Anh Thai is one of the typical novel writers of Vietnamese literature in Doi Moi<br />
period. One of the significant and very recognizable efforts of this author is the innovation he<br />
has showed on the way to the art of human, which is the kernel for changes and for the<br />
development of a new stage in literature. This is the writer’s important contribution to the<br />
modernization of Vietnamese current prose in general and the novels in particular.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
181<br />