NHỮNG KHÓ KHĂN KHI HỌC PHẦN THƠ VĂN NGUYỄN TRÃI<br />
ĐỐI VỚI HỌC SINH PHỔ THÔNG SƠN LA<br />
ThS. Trần Thị Thanh Hồng<br />
Khoa Tiểu học - Mầm non<br />
Absstract. In conclusion, the article indicates some difficulties while studying Nguyen Trai’s works at<br />
secondary school in Son La province. It raises some reasons of these difficulties when studying the part and<br />
managements to solve the problems.<br />
<br />
Tóm tắt. Bài báo chỉ ra được những khó khăn khi học phần thơ văn Nguyễn Trãi đối với học sinh phổ thông<br />
Sơn La, nêu ra được một số nguyên nhân của những khó khăn và giải pháp khắc phục.<br />
<br />
Thơ văn Nguyễn Trãi là một bộ phận quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Đó là<br />
những tác phẩm ưu tú của tác giả, của dân tộc đã vượt qua những biến cố của lịch sử, qua thử<br />
thách khắc nghiệt của thời gian đến với chúng ta và hôm nay vẫn còn giữ nguyên giá trị. Với<br />
ngòi bút tài ba, với nội dung yêu nước và nhân đạo sâu sắc, thơ văn Nguyễn Trãi giúp cho học<br />
sinh hình dung được đất nước, xã hội, con người những thời đại đã qua. Thơ văn Nguyễn Trãi<br />
thực sự là nguồn cảm hứng vô tận mà người giáo viên văn có thể khai thác để bồi dưỡng tâm<br />
hồn thế hệ trẻ trong thời đại ngày nay. Tuy vậy, học phần văn học này đối với học sinh mièn<br />
núi nói chung và Sơn La nói riêng còn gặp rất nhiều khó khăn.<br />
1. Những khó khăn cơ bản<br />
Điều kiện thông tin văn hoá, cơ sở vật chất phục vụ học tập còn thiếu thốn. Những trường<br />
vùng sâu, vùng xa, dạy học văn chủ yếu dựa vào sự truyền đạt của giáo viên và sự tiếp thu của<br />
học sinh.<br />
Vốn kiến thức văn học của học sinh miền núi Sơn La còn hạn chế so với học sinh miền<br />
xuôi. Do đời sống tinh thần nghèo nàn, ít có điều kiện đọc sách báo, học sinh không nắm bắt<br />
được các thông tin, hiểu biết về văn hoá - xã hội còn ít ỏi,... trong khi đó tác phẩm văn học có<br />
biết bao nét đẹp truyền thống có thể làm rung động lòng người nhưng học sinh lại lãnh đạm<br />
thờ ơ, không cảm nhận được. Vì vậy, khi dạy văn, nhất là các tác phẩm văn học cổ trong đó<br />
có thơ văn Nguyễn Trãi, giáo viên phải diễn đạt nôm na nhiều hơn, sau đó mới hướng dẫn học<br />
sinh tìm hiểu dụng ý nghệ thuật của tác giả.<br />
Qua khảo sát, chúng tôi thấy rõ đặc điểm tiếp nhận văn chương của HS miền núi có<br />
những đặc thù riêng. Các em là HS dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa thường đi học muộn<br />
hơn, vốn tiếng Việt cũng hạn chế hơn so với HS ở thị trấn, thị xã. Cho nên, dẫn tới hiện tượng<br />
cùng một lớp học nhưng lực học lại chênh lệch rất lớn, có em học tốt hơn, lại có em học quá<br />
kém. Cùng một bài giảng, cách tổ chức cho HS chiếm lĩnh tác phẩm phù hợp với em này<br />
nhưng lại không phù hợp với em khác. Khác với HS miền xuôi, các em chưa có thói quen tiếp<br />
nhận tri thức văn học ngoài giờ lên lớp, ngoài nhà trường như việc đọc các sách báo bổ sung,<br />
tìm hiểu các nguồn thông tin khác phục vụ cho môn học. Nhu cầu đọc tác phẩm của các em<br />
chưa tự giác chủ động, các em chỉ đọc khi giáo viên yêu cầu. Mặt khác, nét tâm lý rất phổ<br />
biến ở học sinh dân tộc thiểu số là các em rất ngại phát biểu, khi phải giao tiếp các em thường<br />
tỏ ra “bí”, lúng túng trong cách dùng từ và diễn đạt. Bản chất rụt rè khiến các em mất tự tin,<br />
<br />
không tin mình có thể học giỏi môn văn, từ đó xa rời nó, ít chịu suy nghĩ, tìm tòi. Do đó, việc<br />
tiếp cận, cảm thụ tác phẩm của các em càng trở nên khó khăn hơn.<br />
Học sinh miền núi Sơn La (qua các trường khảo sát) thường có thói quen thụ động<br />
trong quá trình học tập. Các em chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá tác phẩm mà<br />
luôn trông chờ vào giáo viên đọc để ghi chép. Điều đó tạo nên sự tẻ nhạt trong giờ học, không<br />
gây được hứng thú học văn cho học sinh, trái lại gây nên tâm lý không thích học văn. Qua<br />
khảo sát về tâm lý tiếp nhận tác phẩm thơ văn Nguyễn Trãi (học sinh thích hay không thích)<br />
phần đông các em trả lời không thích. Ở bảng 1, số liệu điều tra ban đầu cho thấy có tới 50%<br />
số học sinh THCS và 45% số học sinh THPT trả lời không thích học phần văn học trung đại<br />
vì nó khó tiếp nhận. Một số ít học sinh nói rằng không thích học vì giáo viên dạy chưa thật<br />
hấp dẫn. Phiếu thứ hai chúng tôi điều tra những khó khăn của học sinh khi học phần thơ văn<br />
Nguyễn Trãi các em trả lời với nhiều khó khăn khác nhau nhưng có những khó khăn chung là<br />
từ phía văn bản với khoảng cách quá xa về những phong cách nghệ thuật, về nội dung tư<br />
tưởng, về không gian, thời gian lịch sử, về từ ngữ, điển tích …Khó khăn không nhỏ mà các<br />
em cũng đã mạnh dạn nói ra là “do vốn tiếng Việt của chúng em còn rất nhiều hạn chế, những<br />
hiểu biết, những kiến thức văn học của chúng em còn quá ít ỏi, việc học văn rất khó, chúng<br />
em rất ngại học văn, vì thế lớp em ít có bạn học giỏi văn”. Một số em khác lại nói “do việc<br />
học của chúng em chưa được gia đình quan tâm đúng mức, bố mẹ chỉ nhắc chúng em đi làm<br />
còn việc học như thế nào thì do chúng em tự quyết. Học văn nhưng chúng em lại rất ngại đọc<br />
tác phẩm và vì vậy chúng em học văn rất kém ». Có em đã viết trong phiếu điều tra của mình :<br />
“Học những tác phẩm văn học cổ em thấy tiếp thu rất khó, khó hiểu, khó nắm bắt. Nếu cô<br />
giáo không giảng giải phân tích kỹ, chỉ ra nội dung ý nghĩa của tác phẩm thì em cũng không<br />
hiểu được. Vì vậy khi về nhà em phải học thuộc nhưng vì không hiểu nên học thuộc cũng rất<br />
khó khăn, nhanh quên khó nhớ”.<br />
Phiếu số 3 yêu cầu các em nói về sự cảm hiểu về thơ văn Nguyễn Trãi cho thấy các em<br />
cũng gặp phải rất nhiều hạn chế. Có em đã viết : “Học thơ văn Nguyễn Trãi em thấy thấm thía<br />
nhất là khi ông cáo quan về ở ẩn vì ông có quan niệm là khi lập công danh rồi thì phải vui vẻ về ở<br />
ẩn”, “Học thơ văn Nguyễn Trãi em thấy thấm thía nhất là ở bài Bình Ngô đại cáo tác giả đã phản<br />
ánh được cuộc chiến bại của ta và địch và phản ánh được cuộc sống an nhàn của Nguyễn Trãi”,<br />
“Học thơ văn Nguyễn Trãi em thấy thấm thía và đọng lại trong lòng em một điều gì đó: rất đau.<br />
Bởi vì thơ văn Nguyễn Trãi chuyên nghiên cứu về đất nước”…Đọc những câu trả lời đó ta thấy<br />
các em hình như không hiểu điều mình nói hoặc diễn đạt không thoát ý, các em học nhưng lại<br />
không nắm bắt điều mình học. Đó cũng là hiện tượng rất phổ biến đối với học sinh miền núi.<br />
Phiếu số 7, yêu cầu học sinh nhận định về thơ văn Nguyễn Trãi, có em đã viết : “Bình<br />
Ngô đại cáo là một bài thơ mà em rất thích, vì trong bài thơ được miêu tả rất ngộ nghĩnh như<br />
đại tướng giặc là đồ nhút nhát. Nguyễn Trãi là một tác giả rất nổi tiếng và tốt bụng”.<br />
Các phiếu khác, đa phần các em cũng mới chỉ trả lời chung chung, sơ sài hoặc tán lòng<br />
vòng. Có em liên hệ rất ngây ngô: “Thơ văn Nguyễn Trãi có tác dụng rất lớn với bản thân em,<br />
bởi Nguyễn Trãi là con người có phẩm chất thanh tao, một cốt cách lớn, một tâm hồn trong<br />
sáng, giản dị. Điều đó gợi cho em suy nghĩ có thể mình trở thành con người như vậy”. Có thể<br />
nói các em chưa thật sự hiểu được giá trị đích thực, giá trị giáo dục tư tưởng, giá trị nhân văn<br />
to lớn của thơ văn Nguyễn Trãi. Các em chỉ hiểu lờ mờ nội dung của các tác phẩm này mà<br />
không có sự cảm nhận “bên trong” do đó tác dụng giáo dục học sinh qua học thơ văn Nguyễn<br />
Trãi chưa thật sự có hiệu quả cao như ý muốn. Trên thực tế, muốn cho học sinh hiểu và cảm<br />
<br />
thụ văn thơ một cách có hiệu quả thì trước hết nên tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận tác<br />
phẩm. Nhưng đứng trước bài văn mà HS không hiểu nghĩa từ, câu thì làm sao tiếp nhận được.<br />
Khoảng cách giữa học sinh với tác phẩm văn học cổ là rất lớn. Khó khăn đó càng lớn đối với<br />
HS dân tộc thiểu số, mà trước hết là khó khăn về khoảng cách giữa các thế hệ. Với thơ văn<br />
Nguyễn Trãi dù có là những áng thơ văn xuất sắc, nhưng một số tác phẩm đối với HS phổ thông<br />
nhất là học sinh THCS vẫn là những tiếng nói và cách nói rất xa lạ. Đó là những tiếng nói, cách nói<br />
của những người từng sống cách ta nhiều thế kỷ, do đó họ có cách cảm, cách nghĩ, quan điểm thẩm<br />
mỹ, cách trình bày, diễn đạt khác với chúng ta ngày nay.<br />
Khi tiếp cận với tác phẩm thơ văn cổ nói chung, thơ văn Nguyễn Trãi nói riêng, học<br />
sinh gặp vật cản rất lớn là “hàng rào” ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ văn Nguyễn Trãi cũng mang<br />
những đặc điểm của ngôn ngữ văn học cổ nói chung với nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng,<br />
cách dùng điển cố, từ Hán Việt, thuật ngữ xưa, từ cổ như Bình Ngô đại cáo, Cây chuối,<br />
Báo kính cảnh giới số 43,...Đi vào từng tác phẩm cụ thể thì ngôn ngữ của thơ, văn chính luận<br />
lại có những đặc điểm riêng mà học sinh ngày nay, nếu không được hướng dẫn, giải thích kỹ<br />
càng thì khó mà hiểu, cảm nổi.<br />
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên. Nguyên nhân thứ nhất là do học sinh<br />
chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá tác phẩm. Các em luôn thụ động trong quá<br />
trình học văn, chỉ quen giáo viên đọc cho chép, đọc thuộc và tái hiện lại khi giáo viên kiểm<br />
tra. Việc tái hiện ấy lại không được đầy đủ, thiếu chính xác về những lời giảng của giáo viên.<br />
Thứ hai, học sinh dân tộc thiểu số ở Sơn La vốn tiếng Việt còn nghèo, các em không<br />
thể hiểu được đầy đủ ngôn ngữ văn học (vốn hàm xúc đa nghĩa) cho nên, các em thường cảm<br />
thụ tác phẩm sơ sài, đơn giản, hoặc lúng túng mỗi khi diễn đạt.<br />
Thứ ba, khác với học sinh miền xuôi, khi học thơ văn Nguyễn Trãi qua một hay hai tiết<br />
các em đã có thể dễ dàng nắm bắt được tác phẩm, nhưng đối với học sinh miền núi Sơn La<br />
nhất là học sinh dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa thì đòi hỏi giáo viên phải cắt nghĩa tỉ mỉ<br />
hơn, không đơn giản chỉ là yêu cầu các em đọc, hiểu phần chú thích trong sách giáo khoa mà<br />
phải có khâu trung gian định hướng từ giáo viên. Do đó, ảnh hưởng tới thời gian giờ dạy, tác<br />
phẩm không được khám phá một cách đầy đủ và có chiều sâu.<br />
Thứ tư, kiến thức về văn chương Nguyễn Trãi, năng lực cảm thụ của học sinh còn<br />
nhiều hạn chế, khả năng tư duy văn học chưa được phát huy, chưa được vận dụng để khám<br />
phá tác phẩm. Thông thường khi yêu cầu trả lời những vấn đề có tính chất suy luận, các em<br />
chỉ dựa vào cách hiểu, cách cảm của người khác mà không có sự suy nghĩ. Các em chưa có<br />
nhu cầu tự thân bộc lộ sự hiểu biết, cảm nhận của riêng mình do đặc điểm tâm lý nhút nhát,<br />
ngại phát biểu và không dám tin vào sự hiểu biết của bản thân, quen ghi chép một cách thụ<br />
động, không phát huy được tính chủ động tích cực trong quá trình chiếm lĩnh tác phẩm.<br />
Thứ năm, khác với học sinh miền xuôi, học sinh miền núi dành thời gian cho việc học<br />
tập ít hơn các em không có sách đọc thêm, phần đông các em là học sinh dân tộc thiểu số, có em<br />
18, 19 tuổi mới học lớp 9. Như một phụ huynh đã nói : “cái tuổi đã có thể tự lo được rồi, bố mẹ<br />
chỉ còn lo gả vợ, gả chồng cho con cái đã đến tuổi trưởng thành”. Với quan niệm: “Học cũng<br />
chẳng thi đỗ đại học, lại về nhà làm ruộng, chỉ cần học biết con chữ thôi”. Thực tế, các em<br />
ngoài buổi lên lớp học, còn ở nhà các em phải giúp bố mẹ rất nhiều việc, tối đến học qua loa,<br />
đại khái vì mệt mỏi. Các em chỉ cần biết chữ, biết con tính còn học văn thì đâu có quan trọng…<br />
<br />
Sẵn tâm lý không thích học văn (nhất lại là các tác phẩm văn chương cổ vốn khó nắm bắt) nên<br />
các em cũng không có ý thức rèn luyện và học văn. Điều đó làm cản trở khả năng phát triển<br />
năng lực văn ở các em.<br />
Sau nữa Sơn La lại là một tỉnh miền núi còn gặp nhiều khó khăn, những huyện, xã<br />
vùng sâu, vùng xa, vùng hẻo lánh còn rất lạc hậu, sách báo, điện, ti vi chưa có hoặc có nhưng<br />
còn rất ít, những thông tin mới khó cập nhật. Thực tế qua trao đổi với một số anh chị em đi<br />
kiểm tra chuyên môn ở những vùng xa này chúng tôi được biết về mặt phương pháp dạy học<br />
văn, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn, trong đó dạy học văn cho học sinh dân tộc thiểu số lại<br />
càng khó khăn gấp bội. Các em chưa sử dụng thành thạo tiếng phổ thông, không hiểu hết<br />
nghĩa tiếng Việt. Do đó, các em không hiểu được ngôn ngữ văn chương nhất lại là văn<br />
chương cổ, nhiều khi giáo viên phải sử dụng bằng tiếng Thái hoặc tiếng H’Mông. Nếu giáo<br />
viên không biết tiếng dân tộc thiểu số nhiều khi cũng cảm thấy “bí” hoặc lúng túng khi dạy –<br />
truyền đạt kiến thức tới học sinh.<br />
2. Những giải pháp<br />
Giáo viên cần phải làm chủ được một nội dung văn thơ khá đồ sộ, phong phú và phức<br />
tạp để có thể chọn lựa thích hợp với đối tượng.<br />
Đối tượng chung của dạy học thơ văn Nguyễn Trãi trong nhà trường phổ thông trước<br />
đây là lớp 9 và lớp 10, nay là lớp 7, lứa tuổi từ 12 cho đến 16, 17. Đó là giai đoạn khá đặc<br />
biệt của mỗi con người. Ở lứa tuổi này nhận thức của HS còn nghiêng về cảm tính (nhất là ở<br />
những lớp đầu cấp THCS), nhưng nó đang từng bước thay thế bởi nhận thức bằng lý tính (ở<br />
cuối cấp THCS và đầu cấp THPT). Do đặc điểm này mà sự tiếp nhận tác phẩm của HS cũng có<br />
những điểm khác nhau giữa các lớp. Lứa tuổi này ở HS có rất nhiều thế mạnh (đời sống tình cảm<br />
phong phú, nhạy cảm) mà người giáo viên có thể phát huy khả năng sáng tạo trong tiếp nhận văn<br />
chương của các em.<br />
Những đặc điểm tâm lý tiếp nhận văn học nói trên đã được các nhà biên soạn chương<br />
trình, sách giáo khoa hiện nay lấy làm căn cứ trong quá trình lựa chọn, sắp xếp tác phẩm ở<br />
các lớp khá đúng mức. Người dạy văn phải thấu hiểu điều đó để có phương pháp dạy cho phù<br />
hợp.<br />
Tuy nhiên, những tính toán trong biên soạn chương trình, sách giáo khoa dựa trên tâm<br />
lý tiếp nhận của HS phổ thông cũng chỉ mới đề cập tới những vấn đề chung nhất. Nếu người<br />
giáo viên chỉ quan tâm đến đặc điểm tâm lý của HS theo lứa tuổi mà không lưu ý đúng mức<br />
đến thị hiếu, sở thích cá nhân, đến cá tính của chủ thể (người học) thì cũng chưa thể có được<br />
hiệu quả theo ý muốn. Do đặc điểm đối tượng khác nhau mà yêu cầu dạy cũng khác nhau.<br />
Đối với HS THCS yêu cầu các em không chỉ ở việc đọc, kể tóm tắt mà còn phải bước đầu<br />
nhận thức những giá trị, đặc trưng thể loại của thơ văn Nguyễn Trãi. Còn với HS THPT lại<br />
phải yêu cầu cao hơn, các emphải có khả năng nhận thức sâu sắc hơn những giá trị nội dung,<br />
nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Trãi, đặc trưng thể loại và vị trí của nó trong tiến trình văn học<br />
Việt Nam. Những yêu cầu đó phải được xuất phát trước hết từ đặc điểm tâm lý lứa tuổi. Do đó<br />
cũng đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn của mình, phải có<br />
một tầm kiến thức hơn những gì sách giáo khoa có để có thể đáp ứng được yêu cầu giảng dạy.<br />
Bởi vì dạy học suy cho cùng là người giáo viên hướng dẫn HS khám phá các đặc hiệu của văn<br />
chương là hình tượng văn học. Hình tượng văn học tác động một cách sâu sắc đến tâm lý tình cảm<br />
<br />
từng người đọc, để từ đó, người đọc tự liên hệ với số phận, cuộc đời của mình, tìm ra những lẽ<br />
sống, những niềm tin cho riêng mình.<br />
Giáo viên cần có một trình độ chuyên môn vững vàng và một khả năng sư phạm linh<br />
hoạt. Giáo viên phải hiểu đúng, cảm sâu đối với những tác phẩm mà mình sẽ dạy. Đó phải là sự<br />
cảm thụ xuất phát từ sự rung động của cá nhân chứ không phải là sự cảm nhận cóp nhặt từ sách<br />
hướng dẫn. Trên cơ sở hiểu đúng, cảm sâu để định hướng cho học sinh chiếm lĩnh những giá trị<br />
đích thực của tác phẩm khơi gợi ở các em sự nhận biết đúng đắn cái hay, cái đẹp của tác phẩm nhờ<br />
đó mà có được sự đồng cảm với nhà văn thông qua tác phẩm. Muốn vậy, giáo viên phải nắm được<br />
những đặc điểm nội dung, hình thức của văn học cổ nói chung và của thơ văn Nguyễn Trãi nói riêng<br />
để làm cơ sở cho việc phân tích tác phẩm đúng hướng. Do đó đòi hỏi người giáo viên phải có một<br />
tầm kiến thức cao hơn những gì SGK, SGV có để có thể hiểu sâu sắc tác phẩm mình sẽ hướng dẫn<br />
học sinh chiếm lĩnh.<br />
Giáo viên phải phát hiện ra được khoảng cách tiếp nhận của HS với tác phẩm để có<br />
phương hướng dạy phù hợp với đối tượng. Do vậy, giáo viên nên quan tâm, tìm hiểu tâm lý<br />
tiếp nhận tác phẩm của học sinh. Từ đó tìm ra con đường rút ngắn khoảng cách tiếp nhận của<br />
HS với tác phẩm. Ở đây, khác với HS miền xuôi, việc hướng dẫn các em học trên lớp cũng<br />
như ở nhà phải tỉ mỉ, cụ thể, có sự căn dặn, động viên thì mới có hiệu quả.<br />
Giáo viên nên tìm biện pháp để rèn cho HS có nhu cầu và khả năng bộc lộ những suy<br />
nghĩ tình cảm của mình về tác phẩm trong giờ học trên lớp. Để HS có được nhu cầu này đối<br />
với HS phổ thông Sơn La không phải là việc dễ bởi lẽ các em rất “ngại” phát biểu, rất “ngại”<br />
giao tiếp vì tính rụt rè, xấu hổ, vì sợ nhỡ nói sai hay diễn đạt không được. Do đó, người dạy<br />
phải biết tạo không khí cởi mở, gần gũi các em, khích lệ, động viên các em suy nghĩ, khám<br />
phá tác phẩm, mạnh dạn nói ra những điều mình nghĩ, mình hiểu, làm cho các em mất đi<br />
cảm giác bất lực trước tác phẩm, hoặc bất lực trước những câu hỏi khai thác tác phẩm của<br />
giáo viên.<br />
Giáo viên phải giúp HS nắm được ý nghĩa sâu xa, phong phú của mỗi tác phẩm qua<br />
mỗi tiết học trong từng bài cụ thể. Chẳng hạn, học bài “Bình Ngô đại cáo” HS phải nắm được<br />
một số điểm cơ bản nhất về Nguyễn Trãi và về “áng thiên cổ hùng văn” này trong nền văn<br />
học cổ Việt Nam. Qua phân tích nội dung và nghệ thuật, HS thấy được đây là bài văn hay, có<br />
giọng văn hùng hồn, biểu hiện được sâu sắc niềm tự hào dân tộc. Muốn làm được điều đó,<br />
người giáo viên miền núi cần phải biết chọn lọc kiến thức để dạy, vì trong quá trình dạy cho<br />
HS dân tộc thiểu số chắc chắn phải dừng lại cắt nghĩa từ nhiều hơn do đó mà ảnh hưởng tới<br />
thời gian tiết dạy. Trong quá trình dạy lại cần chú ý nâng cao trình độ sử dụng tiếng phổ<br />
thông cho HS, vì có hiểu được tiếng Việt thì các em mới có khả năng nắm bắt được ý nghĩa<br />
sâu xa của tác phẩm.<br />
Dạy thơ văn Nguyễn Trãi cho HS phổ thông dân tộc thiểu số đang là vấn đề được nhiều<br />
giáo viên trực tiếp giảng dạy quan tâm. Đã có nhiều kiến nghị tăng thêm thời gian cho một số tác<br />
phẩm dài, khó (có nhiều điển tích, từ Hán Việt, từ cổ, hình ảnh ước lệ tượng trưng) từ 45 phút lên<br />
60 phút mới có thể đảm bảo triển khai nội dung giờ dạy tương đương với việc khai thác kiến thức<br />
giờ dạy ở miền xuôi. Thiết nghĩ đó cũng là một thực tế, một nguyện vọng thoả đáng cần được<br />
giải quyết.<br />
Ngoài ra cần đầu tư trang thiết bị đồ dùng dạy học như: tivi, báo, đài...Đặc biệt cần xây<br />
dựng tủ sách cho các trường phổ thông Sơn La nhất là các trường vùng sâu, vùng xa để giáo<br />
<br />