intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những ứng dụng của enzyme từ động vật thủy sản trong công nghệ thực phẩm

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

121
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết điểm lại những kết quả nghiên cứu về ứng dụng của enzyme thu nhận từ nhiều loại thủy sản khác nhau vào chế biến thực phẩm, các điều kiện thích hợp để phản ứng xảy ra, ưu nhược điểm của sản phẩm thu được so với sản phẩm chế biến theo phương pháp truyền thống. Một số loại enzyme từ thủy sản tỏ ra rất có triển vọng, mở ra nhiều cơ hội ứng dụng, một số khác vẫn còn cần thêm nhiều nghiên cứu để có được giải pháp phù hợp cho chế biến.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những ứng dụng của enzyme từ động vật thủy sản trong công nghệ thực phẩm

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 3/2014<br /> <br /> VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI<br /> <br /> NHỮNG ỨNG DỤNG CỦA ENZYME TỪ ĐỘNG VẬT THỦY SẢN<br /> TRONG CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM<br /> APPLICATIONS OF ENZYME FROM FISH AND AQUATIC INVERTEBRATES<br /> IN FOOD TECHNOLOGY<br /> Nguyễn Lệ Hà1<br /> Ngày nhận bài: 01/12/2013; Ngày phản biện thông qua: 20/3/2014; Ngày duyệt đăng: 13/8/2014<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Bài viết điểm lại những kết quả nghiên cứu về ứng dụng của enzyme thu nhận từ nhiều loại thủy sản khác nhau vào<br /> chế biến thực phẩm, các điều kiện thích hợp để phản ứng xảy ra, ưu nhược điểm của sản phẩm thu được so với sản phẩm<br /> chế biến theo phương pháp truyền thống. Một số loại enzyme từ thủy sản tỏ ra rất có triển vọng, mở ra nhiều cơ hội ứng<br /> dụng, một số khác vẫn còn cần thêm nhiều nghiên cứu để có được giải pháp phù hợp cho chế biến.<br /> Từ khóa: enzyme, protease, ứng dụng của enzyme, thủy sản<br /> <br /> ABSTRACT<br /> The article reviews research results relating to applications of enzymes from fish and invertebrates in food technology,<br /> the optimal conditions for processing, advantages and disadvantages of enzymatic method and final product as compared<br /> to traditional one. Some enzymes originated from fish and invertebrates showed potential possibilities and offered a wide<br /> range of applications, while others required further investigation before coming to successful solutions in food technology.<br /> Keywords: enzyme, protease, application of enzymes, fish and aquatic invertebrates<br /> I. MỞ ĐẦU<br /> Enzyme đã được sử dụng như phương tiện trợ<br /> giúp hiệu quả ở rất nhiều lĩnh vực sản xuất và ngày<br /> càng đóng vai trò quan trọng hơn trong công nghệ<br /> thực phẩm. Trước đây, người ta chỉ chú trọng đến<br /> việc điều khiển hoạt động của các enzyme có sẵn<br /> trong thực phẩm, vì vậy, ứng dụng vào sản xuất thực<br /> phẩm của enzyme vẫn chỉ mới giới hạn ở phạm vi<br /> một số sản phẩm lên men nhờ enzyme nội tại và<br /> hệ vi sinh vật tự nhiên như nước mắm, cá muối<br /> hay dịch thủy phân làm thức ăn gia súc hoặc ứng<br /> dụng vào xử lý nước thải của các nhà máy chế biến<br /> thủy sản để làm giảm độ nhớt (Haard, Stefansson<br /> & Steigrimsdottir, 1990). Một số nghiên cứu mới ở<br /> Canada, Đan mạch, Ailen, Nhật, Hàn quốc, Nauy<br /> và Mỹ đã chú trọng phát triển những ứng dụng<br /> mới vào lĩnh vực thực phẩm. Người ta đã tinh sạch<br /> được nhiều enzyme như deoxyribonuclease, lipase,<br /> carboxypeptidase A và B, trypsin, chymotrypsin<br /> và elastase từ cá tuyết Atlantic để ứng dụng vào<br /> <br /> 1<br /> <br /> mục đích thực phẩm. Các enzyme cũng đóng vai trò<br /> quan trọng trong việc cải thiện năng suất và thông<br /> số kỹ thuật ở nhiều công đoạn sản xuất.<br /> II. NỘI DUNG<br /> 1. Ứng dụng của enzyme vào phân giải có chọn<br /> lọc mô thịt cá và thủy sản<br /> Do bản chất sinh hóa khác nhau giữa lớp da và<br /> cơ thịt động vật thủy sản, người ta có thể sử dụng<br /> enzyme để thực hiện quá trình phân giải một cách<br /> có định hướng, sao cho tế bào da cá bị hòa tan<br /> nhưng lại không gây ảnh hưởng đến cơ thịt (Strom<br /> & Raa, 1982, 1993). Điều này cho phép sử dụng<br /> enzyme như một công cụ đặc biệt vào công nghệ<br /> chế biến thực phẩm nhằm loại bỏ hoặc biến đổi có<br /> chọn lọc một số bộ phận nhất định ở nguyên liệu<br /> động vật thủy sản cần chế biến.<br /> 1.1. Loại da cá bằng phương pháp dùng enzyme<br /> Có thể sử dụng các enzyme protease nội<br /> bào tách chiết từ cá với mục đích loại lớp da của<br /> <br /> TS. Nguyễn Lệ Hà: Trường Đại học Kỹ thuật Công nghệ TP. Hồ Chí Minh<br /> <br /> 216 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> nguyên liệu này. Đây là phương pháp ưu việt hơn<br /> hẳn các phương pháp cơ, hóa học thường gây<br /> thương tổn và làm giảm hiệu suất thu sản phẩm<br /> (Haard & Simpson, 1994).<br /> Ở Iceland, hàng năm có khoảng 2000 tấn cá<br /> đuối bị thải trở lại biển vì công đoạn loại da thật sự<br /> quá khó khăn, thường phải thực hiện thủ công. Mặc<br /> dù có nhiều loại máy bóc/tách da cá nhưng hiệu quả<br /> không cao, nhiều trường hợp phải lặp lại nhiều lần,<br /> và sau cùng vẫn cần kiểm tra và loại da lần cuối<br /> bằng thủ công. Quá trình đó làm hao hụt khá nhiều<br /> cơ thịt cá và vì vậy có hiệu quả kinh tế thấp. Một số<br /> phòng thí nghiệm ở Iceland đã thử loại da cá đuối<br /> Raja radiate bằng enzyme. Đầu tiên, người ta biến<br /> tính collagen da cá bằng cách xử lý nước ấm trong<br /> thời gian ngắn, tiếp đó ngâm trong hỗn hợp chứa<br /> enzyme proteolytic và glycolytic 4 giờ ở 250C hoặc<br /> 10 - 12 giờ ở 50C (Stefanson, 1988), cuối cùng rửa<br /> sạch lớp da hòa tan này bằng nước.<br /> Cá trích cũng đã được thử nghiệm bóc tách da<br /> ở Nauy (Jokimsson, 1984). Người ta xử lý cá bằng<br /> dung dịch acid acetic 5% ở 100C nhằm biến tính<br /> collagen da cá, sau đó chuyển sang ngâm trong các<br /> bể chứa có pha protease acid tách chiết từ nội tạng<br /> cá tuyết (Gilberg, 1993). Sau quá trình xử lý như<br /> vậy, lớp vảy và da phía ngoài được loại ra để lại bề<br /> mặt màu bạc rất mỏng. Đối với cá thu, cá ngừ bò<br /> và cá ngừ đại dương cũng có thể loại da bằng cách<br /> tương tự (Borresen, 1992).<br /> Fehmerling (1973) đã sử dụng dung dịch hỗn<br /> hợp gồm nhiều enzyme khác nhau như proteolytic,<br /> glycoside, hydrolase và lypolytic với nồng độ khác<br /> nhau 0,003 - 3% để loại bỏ da, vỏ, những phần<br /> không mong muốn của nhiều loại thủy sản khác<br /> nhau như hàu, hến, tôm, mực, nghêu, cá da trơn,<br /> cá ngừ đại dương, cá hồi, cá tuyết và một số loài cá<br /> mình dẹt khác.<br /> Kim, Byun, Choi, Roh, Lee và Lee (1993)<br /> cũng đã thử dùng collagenase tách chiết từ nội<br /> tạng cá để loại phần da từ các miếng fillet cá<br /> Novoden modestrus. Thí nghiệm cho thấy, quá trình<br /> thủy phân có thể thực hiện tốt ở 180C trong 4 giờ<br /> bằng dung dịch enzyme thô 0,3% (w/w) sau khi đã<br /> xử lý sơ bộ bằng dung dịch acid acetic 0,5 M trong<br /> 10 phút.<br /> 1.2. Dùng enzyme để bóc da mực<br /> Tính chất cơ học, lý học và hóa sinh của cơ<br /> thịt mực cũng như lớp da của nó rất khác so với<br /> cá (Nilsen, Viana, & Raa, 1989; Raa, 1990). Mặc<br /> dù thành phần chủ yếu của lớp da mực dày chứa<br /> sắc tố phía ngoài là collagen nhưng nó lại không<br /> đóng vai trò quyết định để tạo nên độ bền cơ học<br /> <br /> Số 3/2014<br /> của lớp da đó, có những thành phần khác chiếm tỉ<br /> lệ khối lượng ít hơn nhưng quan trọng hơn, ví dụ<br /> như proteoglycans chẳng hạn (Raa và ctg, 1985).<br /> Ở nhiều nơi, người tiêu dùng cho rằng da mực quá<br /> dày và dai nên không muốn dùng nó để chế biến<br /> thực phẩm. Điều này là do mực có lớp màng dưới<br /> da cấu tạo từ mô liên kết dày đặc, lớp màng này<br /> vẫn còn nguyên trên thân mực sau khi bóc da và co<br /> lại lúc nấu tạo cho các miếng mực độ dai cứng khó<br /> nhai nuốt. Trong sản xuất thường lột lớp da như cao<br /> su của mực bằng phương pháp thủ công, nhưng<br /> đây là công việc không dễ dàng. Khi sản xuất mực<br /> ống lột da, thường người ta cũng chỉ loại lớp da<br /> ngoài cùng có chứa sắc tố bằng cách dùng máy,<br /> những máy này không loại được lớp da ở dưới<br /> không chứa sắc tố bao trùm cả bên trong lẫn bên<br /> ngoài thân mực. Để giải quyết vấn đề này, một số<br /> nhà nghiên cứu cho rằng, có thể dùng enzyme để<br /> phân giải có chọn lọc da mực mà không ảnh hưởng<br /> đến cơ thịt của nó (Strom & Raa, 1993). Hơn thế<br /> nữa, sản phẩm mực ống chế biến có sử dụng<br /> enzyme còn có khác biệt đáng kể so với sản phẩm<br /> thu nhận bằng máy hay thủ công ở chỗ nó không<br /> có lớp vỏ dai dày bao bọc. Mực ống lột da bằng<br /> phương pháp này có hình dạng như bình thường<br /> sau khi gia nhiệt và đặc biệt là không hề có lớp màng<br /> dai bên ngoài, đây thực sự là một ưu điểm đáng kể.<br /> Tuy nhiên, các glucosidase và collagenase thương<br /> mại lại hiếm và tương đối đắt, do đó thích hợp ứng<br /> dụng trong dinh dưỡng, còn các protease thương<br /> mại như trypsin, ficin hay papain lại không thể phân<br /> giải được collagen nguyên thủy của lớp màng bọc<br /> thân mực, thêm vào đó, chúng lại có khả năng tấn<br /> công hữu hiệu vào cơ thịt mực, ảnh hưởng đáng kể<br /> đến chất lượng bảo quản, mùi và vị của nó. Tuy vậy,<br /> có thể bổ sung có kiểm soát thêm protease vào quá<br /> trình chế biến mực theo cách thông thường, cơ thịt<br /> mực sẽ mềm mại hơn, đặc biệt là phần ria mực, và<br /> làm cho nó dường như ngon hơn (Nilsen và các tác<br /> giả, 1989; Strom & Raa, 1993).<br /> Strom & Raa (1993) nhận thấy trong nội tạng<br /> mực có mặt một số enzyme có khả năng phân giải<br /> da mực và đã sử dụng chúng để loại da một số loại<br /> như mực ống Illex, Todarodes, Nototodarus và mực<br /> nang. Phương pháp này đơn giản và không đòi hỏi<br /> chi phí cao. Quá trình thực hiện như sau: rửa mực<br /> đã moi ruột bằng nước lạnh, sau đó làm mềm da<br /> mực bằng enzyme trong bể ở nhiệt độ thấp (Raa<br /> và các tác giả, 1985). Các tác giả này cũng đã thử<br /> xử lý mực bằng cách ngâm trước trong dung dịch<br /> muối 5%, sau đó gia nhiệt nhẹ (450C, 10 phút) để<br /> hoạt hóa enzyme nội tại của mực và nhờ vậy làm<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 217<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> mềm lớp da dai dày của nó. Leuba và ctg (1987)<br /> cũng đề xuất một phương pháp loại da mực bằng<br /> cách dùng chiết xuất gan mực trong dung dịch muối<br /> ăn 0,2 - 2%.<br /> 1.3. Dùng enzyme để đánh vảy cá và sản xuất cốt<br /> ngọc trai<br /> Ở một số thị trường, người ta ưa chuộng fillet<br /> cá còn da nhưng đã loại sạch vảy. Các nhà nghiên<br /> cứu đã đề xuất qui trình làm sạch vảy cá bằng cách<br /> ứng dụng enzyme nhằm đạt hiệu suất cao và chất<br /> lượng tốt so với sản phẩm loại vảy bằng phương<br /> pháp cơ học. Quá trình xử lý bằng enzyme còn loại<br /> được cả các vi sinh vật trên bề mặt nguyên liệu,<br /> nhờ đó kéo dài thời gian bảo quản (Raa, 1997).<br /> Khi đánh vảy theo cách cơ học, một số loài cá<br /> như cá tuyết Melanogrammus aeglefinus thường<br /> bị dập nát vì thịt chúng rất mềm (Stefansson &<br /> Steingrimsdottir, 1990). Các thí nghiệm thực hiện<br /> tại phòng thí nghiệm thủy sản Iceland đã chỉ ra<br /> rằng, nếu sử dụng enzyme thì có thể tránh được<br /> các tổn thương cho da và thịt cá, toàn bộ quá trình<br /> chỉ bao gồm xử lý nguyên liệu cá bằng dung dịch<br /> enzyme ở 00C, sau đó rửa sạch bằng cách phun tia<br /> nước (Stefansson, 1988).<br /> Hiện nay, có rất nhiều nhà nghiên cứu thực hiện<br /> các thí nghiệm khám phá thành phần hóa học của<br /> vảy cá nhằm tìm ra ứng dụng mới cho các protein<br /> dạng sợi thu được sau khi tách chiết phần cốt ngọc,<br /> sắc tố, các protein hòa tan và collagen (Raa, 1997).<br /> Có một sáng chế đã được cấp bản quyền ở Canada<br /> là sáng chế tách vảy và loại da cá bằng enzyme<br /> keratolytic kết hợp với một hay nhiều loại hợp chất<br /> hoạt động bề mặt (anion, lưỡng tính hoặc không<br /> mang điện tích) trong môi trường ít nước (Rudolf,<br /> 1990). Ở Nhật bản, người ta đã sử dụng phần cốt<br /> ngọc thu nhận từ vảy cá trích, cá mòi, hay cá hồi vào<br /> sản xuất ngọc trai nhân tạo và nhiều sản phẩm khác<br /> từ khá lâu. Thành phần tạo nên hợp chất có ánh<br /> xà cừ màu trắng bạc ở vảy cá là quanin (Tanikawa,<br /> 1985), hợp chất này có mặt ở lớp da ngoài hoặc<br /> lớp vảy của các loài cá sống nơi tầng nước mặt<br /> (Ockerman, 1992). Trong vảy cá, quanin kết hợp với<br /> collagen và calcium phosphate tạo nên màu trắng<br /> bạc óng ánh xà cừ. Người ta gọi dịch huyền phù có<br /> những tinh thể quanin lơ lửng là “cốt ngọc”. Có thể<br /> thu được cốt ngọc từ vảy cá bằng cách dùng các<br /> enzyme proteolytic như trypsin chẳng hạn (Windsor<br /> & Barlow, 1981).<br /> 1.4. Dùng enzyme để bóc tách các màng và cơ<br /> quan nội tạng thủy sản<br /> Trong sản xuất gan cá tuyết đóng hộp, việc bóc<br /> tách lớp màng gan cá là một nhiệm vụ quan trọng<br /> <br /> 218 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Số 3/2014<br /> nhằm ngăn ngừa dòi phát triển ở lớp màng collagen<br /> bao bọc gan cá làm hư hỏng sản phẩm. Ở Iceland,<br /> người ta đã thử nghiệm bóc lớp màng này bằng<br /> phương pháp sử dụng enzyme và thu được kết quả<br /> khả quan: phương pháp này giúp tăng hiệu suất<br /> thu gan cá 20 - 30% so với phương pháp thủ công<br /> (Stefansson, 1990).<br /> Sản phẩm bong bóng cá tuyết muối rất được<br /> ưa chuộng ở một số nơi, tuy nhiên việc chế biến<br /> ra loại sản phẩm có màu trắng đẹp mà người tiêu<br /> dùng ưa chuộng lại thật sự khó thực hiện do lớp<br /> màng đen bao quanh bong bóng cá. Ở Iceland,<br /> thử nghiệm ứng dụng với enzyme đã cho kết quả<br /> rất đáng khích lệ: hiệu suất loại màng đen bằng<br /> enzyme cao hơn so với phương pháp thủ công ít<br /> nhất tám lần (Stefansson & Steingrimsdottir, 1990).<br /> Collagen thu được từ bong bóng cá tuyết còn được<br /> sử dụng như chất làm trong khi sản xuất bia rượu ở<br /> Nhật bản (Oshima, 1996).<br /> 2. Sử dụng enzyme protease trong tách chiết<br /> carotenoprotein từ phế liệu của quá trình chế<br /> biến các loài giáp xác<br /> Việc phát triển ngành chế biến thủy sản trong đó<br /> có chế biến tôm luôn song hành cùng với lượng lớn<br /> các phế liệu mà nếu được sử dụng một cách có hiệu<br /> quả và kinh tế sẽ giúp nâng cao lợi nhuận và giảm<br /> thiểu ô nhiễm môi trường. Các carotenoprotein,<br /> loại phụ phẩm thu nhận từ quá trình chế biến tôm<br /> thường được sử dụng như chất bổ sung cho sản<br /> xuất thức ăn chăn nuôi hoặc chất tạo màu trong<br /> công nghệ thực phẩm. Nếu tách carotenoid bằng<br /> dung môi hữu cơ hoặc dầu sẽ có tác dụng làm<br /> giảm lượng chitin và tro, nhờ đó hiệu suất thu chất<br /> màu cao. Tuy nhiên sản phẩm thu được bằng cách<br /> như vậy không đi kèm với protein nên giảm tính ổn<br /> định do dễ bị oxy hóa (Haard, 1992). Trong phế liệu<br /> chế biến thủy sản, protein chiếm khoảng 1/3 hàm<br /> lượng chất khô, vì vậy, người ta đã thử nghiệm dùng<br /> enzyme để tận thu chúng song song với quá trình<br /> thu nhận carotenoid ở dạng carotenoprotein nguyên<br /> thủy. Quá trình tách chiết carotenoprotein từ các<br /> phế liệu thủy sản như tôm, cua, tôm hùm đạt hiệu<br /> quả cao nếu trong dung dịch đệm để tách chiết có<br /> mặt trypsin (Cano-Lopez, Simpson & Haard, 1987).<br /> Cano-Lopez và các tác giả khác còn cho biết, nếu<br /> sử dụng trypsin từ cá tuyết Atlantic trong quá trình<br /> tách chiết carotenoprotein từ phế liệu tôm thì có thể<br /> thu nhận được 64% astaxanthin và 81% protein,<br /> trong khi nếu dùng bovine trypsin thì chỉ có thể thu<br /> được 49% astaxathin và 65% protein trong cùng<br /> điều kiện như nhau. Khi thực hiện trên vỏ tôm hùm<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> thì Simpson, Dauphin và Smith (1992) lại thấy rằng,<br /> trypsin từ tụy tạng bò cho hiệu suất thu chất màu<br /> cao hơn so với khi sử dụng chế phẩm thô từ phế<br /> thải chế biến cá tuyết Atlantic.<br /> 3. Sử dụng protease trong việc thu nhận chitin<br /> và protein từ phế thải chế biến tôm<br /> Phế liệu tôm là nguồn cung cấp chitin dồi dào.<br /> Phế liệu tôm ướt có chứa 4 - 5% chitin. Để thu nhận<br /> chitin từ phế liệu cần phải loại bỏ các protein còn<br /> dính sót lại, sau đó khử khoáng. Người ta thường<br /> dùng kiềm để loại protein, nhưng cách này có thể<br /> gây nên hiện tượng deacetyl một phần và thậm chí<br /> thủy phân mạch polymer, do đó sản phẩm thu được<br /> sẽ có tính chất không bền. Các enzyme protease<br /> có thể cho hiệu quả rất tốt khi dùng để thực hiện<br /> quá trình loại protein từ phế liệu tôm. Simpson và cs<br /> (1994) đã dùng chymotrypsin để loại protein và đạt<br /> hiệu quả tốt khi tỉ lệ enzyme: cơ chất là 7:1000 (w/w)<br /> ở pH 8, thời gian xử lý là 72 giờ ở 400C.<br /> 4. Ứng dụng protease chiết rút từ cá và thủy sản<br /> thay thế rennet trong sản xuất phomai<br /> Rennet chiết xuất từ dạ dày bò là một chế phẩm<br /> đóng vai trò quan trọng trong công nghệ chế biến<br /> phomai. Lượng trâu bò giết mổ giảm trong khi nhu<br /> cầu tiêu dùng phomai trên thế giới lại tăng nhanh<br /> chóng đã đặt ra cho các nhà nghiên cứu một yêu<br /> cầu cấp bách tìm chất thay thế rennet vốn không<br /> rẻ lại hiếm hoi. Người ta đã tìm ra nhiều loại<br /> enzyme có tác dụng làm đông sữa từ nguồn thực<br /> vật, động vật và cả vi sinh vật. Tuy nhiên, cho đến<br /> hiện tại, pepsin bò và lợn vẫn là loại được sử dụng<br /> rộng rãi nhất vì có hoạt tính proteolytic cao. Mặc<br /> dù loại enzyme thay thế rennet thu nhận từ vi sinh<br /> vật đã được cho phép sử dụng trong sản xuất thực<br /> phẩm, nhưng người ta vẫn khá dè dặt khi sử dụng<br /> do tính đặc hiệu tương đối rộng của nó, dẫn đến<br /> hiệu suất thu sữa đông thấp, đồng thời sự phân giải<br /> protein quá mức có thể tạo ra các mùi lạ khi ủ chín<br /> phomai sau này (Brewer, Helbig, & Haard, 1984).<br /> Một nhược điểm nữa của các rennet có nguồn gốc<br /> vi sinh vật là bền nhiệt. Tuy nhiên, chymosin tương<br /> đối ít bền nhiệt hơn và vào cuối quá trình làm đông<br /> sữa thì nó cũng mất gần hết hoạt tính (Han, 1993).<br /> Chính vì lý do này mà chymosin thường được<br /> ưa chuộng hơn so với các protease khác (Haard,<br /> Feltham, Helbig & Squires, 1982). Một số protease<br /> từ dạ dày động vật thủy sản có tính chất khá tương<br /> đồng với chymosin trong quá trình làm đông sữa<br /> (Brewer và các tác giả khác, 1984; Han & Shahidi,<br /> 1995). Chymosin là endoproteinase có tính đặc hiệu<br /> cao, nó chỉ cắt K-casein thành glycomacropeptide<br /> <br /> Số 3/2014<br /> và para-K-casein bằng cách làm đứt liên kết 105 106 giữa phenylalanine và methionine. Pepsin và<br /> các enzyme proteolytic khác thường ít đặc hiệu hơn<br /> do đó làm tăng số sản phẩm phân giải, gây vị đắng<br /> cho sản phẩm (Fox, 1981).<br /> Trong dịch chiết chất nhờn ở dạ dày hải cẩu con có<br /> bốn zymogen của protease acid A, B, C, D. Protease<br /> A là loại tương tự chymosin (Shamsuzzaman &<br /> Haard, 1984). Người ta thấy rằng, chế phẩm thô<br /> protease dạ dày hải cẩu Phoca groelandica có khả<br /> năng làm đông sữa ở khoảng pH rộng hơn so với<br /> pepsin lợn (Shamsuzzaman & Haard, 1983), thêm<br /> vào đó, phomai sản xuất bằng protease dạ dày hải<br /> cẩu có chất lượng cảm quan cao hơn nhiều so với sản<br /> phẩm cùng loại làm bằng rennet bò. Shamsuzzaman<br /> & Haard (1985) cho rằng, pepsin A chính là thành<br /> phần chủ yếu của pepsin tách chiết từ hải cẩu làm<br /> sữa đông tụ. Khi thử nghiệm với chế phẩm thô<br /> protease acid tách chiết từ cá tuyết, Han (1993) thấy<br /> rằng loại enzyme này không có tác dụng làm đông<br /> tốt bằng protease từ dạ dày hải cẩu hay chymosin<br /> từ bò, nó cũng không cho hiệu quả tốt khi pH lớn<br /> hơn 6,4. Hiện nay, người ta đang thử nghiệm dùng<br /> protease từ cá ngừ đại dương để làm đông sữa và<br /> thu được kết quả khá tốt: loại protease này cho hiệu<br /> quả cao trong khoảng pH 5,5 - 6,4, tương tự như<br /> rennet (Tavares và cs, 1997).<br /> 5. Khử mùi ôi của sữa bằng enzyme động vật<br /> thủy sản<br /> Trong sản xuất sữa, quá trình oxy hóa là quá<br /> trình cần tránh vì tạo cho sữa mùi vị khó chịu. Fox<br /> (1982) thấy rằng, nếu xử lý sữa bằng trypsin sẽ<br /> có tác dụng ổn định sữa và ngăn ngừa hiện tượng<br /> oxy hóa. Các enzyme tiêu hóa thu nhận từ các<br /> loài cá chịu lạnh tỏ ra hữu ích hơn cả khi sử dụng<br /> trong các trường hợp cần vô hoạt enzyme bổ sung<br /> mà không được dùng nhiệt độ cao quá (Simpson,<br /> 1984). Theo Simpson và Haard (1987a), cả<br /> trypsin bò và trypsin cá tuyết Greenland đều có tác<br /> dụng chống oxy hóa cho chất béo sữa giống nhau<br /> ở nồng độ lớn hơn 0,0013%; tuy nhiên trypsin cá<br /> tuyết dễ vô hoạt hơn trong quá trình thanh trùng,<br /> do đó sẽ không thể gây ra phản ứng thủy phân làm<br /> hư hỏng sữa khi bảo quản.<br /> 6. Enzyme protease trong lên men và muối cá<br /> Hàng năm có một khối lượng lớn cá đánh bắt<br /> bị loại ra và không đủ tiêu chuẩn để dùng làm thực<br /> phẩm vì chúng ít được người tiêu dùng ưa thích. Đây<br /> cũng là động lực để các nhà nghiên cứu cố gắng tìm<br /> ra phương pháp chế biến nhằm bảo quản hoặc tạo ra<br /> sản phẩm mới ngon hơn và dễ chấp nhận hơn.<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 219<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> Một trong những phương pháp bảo quản đồng<br /> thời giúp cải thiện chất lượng cá là thực hiện lên<br /> men nhờ enzyme nội tạng hoặc bổ sung enzyme<br /> proteolytic từ nguồn ngoài để chuyển cá sang<br /> dạng dịch nước hay “làm chín” một số sản phẩm<br /> như “maatjes” (cá muối chín) hay cá muối ủ silage<br /> (Simpson, 1984). Đây là một quá trình vật lý và hóa<br /> học phức tạp, trong đó protein, lipid, carbohydrat<br /> chịu những biến đổi sâu sắc dưới tác dụng của<br /> nhiều loại enzyme và tạo ra mùi vị đặc biệt, rất riêng<br /> của sản phẩm cá muối. Ở một số nước Bắc Âu,<br /> người ta coi đây là một loại gia vị. Còn ở các nước<br /> Đông Nam Á, nhiều sản phẩm cá muối và dịch cá<br /> muối lại được sử dụng như thực phẩm. Các enzyme<br /> cá tuyết có thể ứng dụng vào quá trình lên men cá<br /> khá hiệu quả (Haard, 1998). Điểm ưu việt của các<br /> sản phẩm lên men truyền thống từ cá là được nhiều<br /> người ưa chuộng, giá thành thấp, dễ sản xuất, an<br /> toàn và có tác dụng cải thiện tiêu hoá, tăng cường<br /> hấp thu chất dinh dưỡng.<br /> Các sản phẩm lên men từ cá được chia làm<br /> hai nhóm chính: nhóm 1: qui trình chế biến chỉ sử<br /> dụng cá và muối, nhóm 2: sử dụng cá, muối và<br /> carbohydrate. Ở nhóm đầu, quá trình lên men xảy<br /> ra nhờ các enzyme phân giải có mặt trong nguyên<br /> liệu, đồng thời muối ăn ở nồng độ cao (> 20%) có<br /> tác dụng bảo quản, ngăn ngừa hư hỏng do vi sinh<br /> vật (Venugopal & Shahidi, 1995).<br /> 7. Sử dụng enzyme protease trong sản xuất dịch<br /> đạm cá (nước mắm)<br /> Dịch đạm cá (nước mắm) là sản phẩm lên men<br /> ở dạng lỏng được sản xuất nhờ quá trình thủy phân<br /> protein cá ở điều kiện nồng độ muối cao. Người<br /> ta thường sản xuất dịch đạm cá bằng cách trộn<br /> muối (20 - 30%) với cá nhỏ như cá cơm, cá nục,<br /> cá mòi, cá sòng… và ủ trong thùng kín. Ở Châu Á<br /> và một số nước ven biển có thời tiết nóng như Việt<br /> Nam, Thái Lan, Cambodia, Malaysia, Philipine và<br /> Indonesia, đây còn là phương pháp bảo quản hữu<br /> hiệu lâu đời (Beddows, 1985). Trong quá trình lên<br /> men, các enzyme chịu muối trong cá và cả vi sinh vật<br /> bên ngoài tác động vào thủy phân thịt cá ở điều kiện<br /> độ mặn cao để tạo nên dịch nước mắm trong suốt<br /> màu hổ phách có hàm lượng acid amin tự do cao<br /> và mùi vị thơm ngon đặc trưng. Nếu chắt phần dịch<br /> lỏng trong thùng muối cá giữa chừng, hoặc thời gian<br /> muối ngắn, ta sẽ thu được bột cá nhão (Beddows,<br /> Saisithi, 1994). Orejana và Liston (1981) đã nghiên<br /> cứu vai trò của các enzyme proteolytic trong sản<br /> phẩm nước mắm và kết luận, enzyme đóng vai<br /> trò chủ yếu trong quá trình phân giải thịt cá là<br /> <br /> 220 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Số 3/2014<br /> enzyme tựa trypsin, các protease khác như<br /> cathepsin B cũng đóng vai trò đáng kể và làm tăng<br /> hàm lượng protein hòa tan trong sản phẩm nước<br /> mắm. Mùi thơm của nước mắm là do các hợp chất<br /> mang mùi tạo thành, chúng bao gồm ba nhóm<br /> chính là: (a) mùi tanh khai chủ yếu do ammoniac và<br /> trimetylamine, (b) mùi hôi có lẽ do các acid béo thấp<br /> phân tử mà chủ yếu là acid ethanoic và n-butanoic,<br /> (c) mùi thịt: mùi này rất phức tạp và là tổ hợp của<br /> rất nhiều hợp chất bay hơi phụ thuộc vào nguyên<br /> liệu cá dùng để muối mắm (Beddows và cs, 1976).<br /> Brooks và Reineccius (1976) đã trích ly nước mắm<br /> bằng dichloromethane và phân tích các hợp chất<br /> trung tính và base bay hơi và đi đến kết luận:<br /> trimethylamine, dimethylamine, methylamine,<br /> 2-methylpyrazine,<br /> 2,5-dimetylpyazine,<br /> acid<br /> hydroxypentanoic, lactone và phenol là các hợp<br /> chất tham gia tạo nên mùi của nước mắm. Beddows<br /> cũng thông báo nhận diện được putrescine,<br /> cadaverine và histamine trong loại nước mắm được<br /> gọi là “budu” (Malaysia) và “nam-pla” (Thái lan).<br /> Saisithi (1994) tin rằng màu của nước mắm là do<br /> phản ứng biến nâu giữa các axit amin trong nước<br /> mắm với ribose, một sản phẩm của quá trình phân<br /> giải mô cơ cá sau khi chết từ ATP. Nhiều nhà nghiên<br /> cứu đã thử bổ sung enzyme, mà chủ yếu là các<br /> proteinase thực vật như bromelain, ficin và papain<br /> để thúc đẩy quá trình sản xuất nước mắm từ cá hay<br /> hàu (Beddow, 1976; Chuapoehuk &Raksakulthai,<br /> 1992; Trần Thị Luyến, 1994).<br /> Thông thường, quá trình chín của cá trích muối<br /> mắm kéo dài 6 - 12 tháng. Bằng cách bổ sung các<br /> enzyme proteolytic như trypsin và chymotrypsin,<br /> người ta đã giảm được thời gian này xuống còn 2<br /> tháng mà không ảnh hưởng đến chất lượng cảm<br /> quan của nước mắm loại 1 (Chaveesuk và cs,<br /> 1993). Gildberg và cs (1984) cũng thử nghiệm sản<br /> xuất nước mắm 2 tháng từ cá cơm Stolephorus và<br /> cho rằng mùi vị của sản phẩm hoàn toàn có thể chấp<br /> nhận được. Để rút ngắn thời gian, họ sử dụng kỹ<br /> thuật áp dụng nồng độ muối thấp 5% ở pH 4 vào<br /> lúc bắt đầu muối mắm. Tuy nhiên, ở hầu hết nước<br /> mắm ngắn ngày, sản phẩm thu được kém ngon và<br /> có vị đắng (Sikorski và cs, 1995). Ưu điểm lớn nhất<br /> của phương pháp lên men truyền thống là hoạt tính<br /> enzyme giảm dần và sản phẩm sau cùng ổn định, chỉ<br /> còn sót lại rất ít enzyme hoạt động (Gildberg, 1993).<br /> Ở Newfoundland Canada, Shahidi, Han &<br /> Synowiecki (1995) đã thử sản xuất nước mắm từ cá<br /> ốt đực vảy nhỏ. Nhiều nhà nghiên cứu khác cũng<br /> đã thu được sản phẩm tốt từ nguyên liệu cá ốt đực<br /> vảy nhỏ Mallotus villosus khi sử dụng tụy tạng mực<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2