NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ HỌC VÀ HƯỚNG DẪN <br />
PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC<br />
<br />
Các bạn sinh viên thân mến việc tự học giữ một vị trí quan trọng trong <br />
phương pháp học tập ở trường đại học, tự học giúp cho sinh viên nắm <br />
vững kiến thức nói chung và phát huy tính tích cực hoạt động trí tuệ của <br />
sinh viên nói riêng. Để các em làm quen với phương pháp tự học giúp các <br />
em đáp ứng được yêu cầu của xã hội và mục tiêu đào tạo của khoa chúng <br />
tôi mong các em tìm hiểu các vấn đề sau:<br />
<br />
1.Khái niệm tự học<br />
<br />
Trong các giáo trình, tài liệu, các tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác <br />
nhau về tự học, sau đây là một số định nghĩa cơ bản:<br />
<br />
Nhà tâm lý học N.ARubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự <br />
học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong <br />
thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến <br />
kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực <br />
tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng , <br />
kỹ xảo của chủ thể.<br />
<br />
Trong cuốn “Học tập hợp lí” R.Retke chủ biên, coi “Tự học là việc hoàn <br />
thành các nhiệm vụ khác không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy” <br />
Theo tác giả Lê Khánh Bằng: thì tự học (self learning) là tự mình suy nghĩ, <br />
sử dụng các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh <br />
vực khoa học nhất định<br />
<br />
Theo Giáo sư Đặng Vũ Hoạt và Phó giáo sư Hà Thị Đức trong cuốn “Lý <br />
luận dạy học đại học” thì “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ <br />
bản ở đại học. Đó là một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm <br />
vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính người học tự tiến hành ở trên <br />
lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo <br />
khoa đã được qui định.<br />
<br />
Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: “Tự học phải là công việc tự giác của <br />
mỗi người do nhận thức được đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích <br />
luỹ kiến thức cho bản thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, <br />
cho sự tiến bộ của xã hội”<br />
<br />
Theo Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học – là tự mình động <br />
não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, <br />
tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các <br />
phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế <br />
giới quan (như tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại <br />
khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, <br />
biến khó khăn thành thuận lợi..vv...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết <br />
nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”.<br />
<br />
Từ những quan điểm về tự học nêu trên, chúng tôi đi đến định nghĩa về tự <br />
học như sau: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc <br />
lập tự chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng <br />
hành động của chính mình nhằm đạt được mục đích nhất định.<br />
<br />
2. Các hình thức tự học<br />
<br />
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:<br />
<br />
* Hình thức 1: Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập <br />
không có sách và sự hướng dẫn của giáo viên<br />
Hình thức này gọi là tự nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả của <br />
quá trình nghiên cứu đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa <br />
học mới, đây thể hiện đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này <br />
phải được dựa trên nền tảng một niềm khao khát, say mê khám phá tri <br />
thức mới và đồng thời phải có một vốn tri thức vừa rộng, vừa sâu. Tới <br />
trình độ tự học này người học không thầy, không sách mà chỉ cọ sát với <br />
thực tiễn vẫn có thể tổ chức có hiệu quả hoạt động của mình.<br />
<br />
* Hình thức 2: Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh.<br />
<br />
Ở hình thức tự học này có thể diễn ra ở hai mức:<br />
<br />
Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy:<br />
<br />
Trường hợp này người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong <br />
sách qua đó sẽ phát triển về tư duy, tự học hoàn toàn với sách là cái đích <br />
mà mọi người phải đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.<br />
<br />
Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn:<br />
<br />
Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thông tin giữa <br />
thầy và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin thô sơ hay hiện đại <br />
dưới dạng phản ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra, đánh <br />
giá,...<br />
<br />
* Hình thức 3: Tự học có sách, có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày, <br />
sau đó sinh viên về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên<br />
<br />
Trong quá trình học tập trên lớp, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ, <br />
chất xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò <br />
với vai trò là chủ thể của quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, <br />
sáng tạo tham gia vào quá trình học tập. Mối quan hệ giữa thầy và trò <br />
chính là mối quan hệ giữa Nội lực và Ngoại lực, Ngoại lực dù quan trọng <br />
đến mấy cũng chỉ là chất xúc tác thúc đẩy Nội lực phát triển.<br />
<br />
Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy, <br />
nhưng dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy <br />
tính tích cực, tự giác, chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ <br />
và kỹ năng của bản thân để hoàn những yêu cầu do giáo viên đề ra. Tự <br />
học của người học theo hình thức này liên quan trực tiếp với yêu cầu của <br />
giáo viên, được giáo viên định hướng về nội dung, phương pháp tự học <br />
để người học thực hiện. Như vậy ở hình thức tự học thứ ba này quá trình <br />
tự học của sinh viên có liên quan chặt chẽ với quá trình dạy học, chịu sự <br />
tác động của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức và quản lý quá trình <br />
dạy học của giáo viên và quá trình tự học của sinh viên.<br />
<br />
Theo Luật Giáo dục, học từ xa, vừa học vừa làm, tự học có hướng dẫn <br />
thuộc phương thức giáo dục không chính quy (mục d điều 41 Luật Giáo <br />
dục). Trong các hình thức giáo dục này, người hoc chủ yếu phải tự học <br />
bằng sách giáo khoa, bằng các loại học liệu, bằng kế hoạch và các điều <br />
kiện, phương tiện của mình để đạt được một mục tiêu hay một chương <br />
trình đào tạo. Ví dụ: “Giáo dục từ xa là một tổng thể các hoạt động do <br />
một cơ sở giáo dục đảm nhiệm nhằm khuyến khích sự học cho những <br />
nguời không tới trường học hoặc không có điều kiện tới trường học”. <br />
(Đề án tổng thể về phát triển giáo dục từ xa ở Việt Nam đến năm 2010 <br />
Bộ Giáo dục và đào tạo 12 – 2002). Như vậy bản chất của việc học từ xa <br />
là tự học, người học phải biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo <br />
với sự trợ giúp của các cơ sở đào tạo.<br />
<br />
3.Vai trò của tự học trong quá trình dạy học<br />
Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học ở đại học nói riêng, giáo viên <br />
luôn giữ một vai trò quan trọng đặc biệt không thể thiếu được đó là sự tổ <br />
chức, điều khiển, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động học tập của sinh viên. <br />
Nhưng thực tế cho thấy rằng, dù giáo viên có kiến thức uyên thâm đến <br />
đâu, phương pháp giảng dạy hay đến mấy nhưng học sinh không chịu đầu <br />
tư thời gian, không có sự lao động của cá nhân, không có niềm khao khát <br />
với tri thức, không có sự say mê học tập, không có kế hoạch và phương <br />
pháp học tập hợp lý, không tự giác tích cực trong học tập... thì việc học <br />
tập không đạt kết quả cao được.<br />
<br />
Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của hoạt động tự học luôn giữ một vị trí <br />
rất quan trọng trong quá trình học tập của người học. Tự học là yếu tố <br />
quyết định chất lượng và hiệu quả của hoạt động học tập.<br />
<br />
Khi bàn về vai trò của tự học nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã phát biểu: <br />
“Tự học, tự đào tạo là con đường phát triển suốt cuộc đời của mỗi người, <br />
trong điều kiện kinh tế – xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau đó cũng là <br />
truyền thống quý báu của người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chất <br />
lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực sáng <br />
tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự <br />
giáo dục. Qui mô của giáo dục được mở rộng khi có phong trào toàn dân <br />
tự học” (Trích thư gửi Hội thảo khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự <br />
đào tạo ngày 6/1/1998).<br />
<br />
Học ở đại học, đòi hỏi sinh viên phải tiếp thu một lượng kiến thức lớn và <br />
khó, cho nên ngoài thời gian học trên lớp sinh viên phải tự học, tự nghiên <br />
cứu ngoài giờ lên lớp để mở rộng và đào sâu tri thức. Cũng chính thông <br />
qua hoạt động tự học này đã giúp rất nhiều cho sinh viên trong quá trình <br />
học tập biểu hiện.<br />
<br />
Thứ nhất, tự học giúp sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng kỹ xảo và <br />
nghề nghiệp trong tương lai. Chính trong quá trình tự học sinh viên đã <br />
từng bước biến vốn kinh nghiệm của loài người thành vốn tri thức riêng <br />
của bản thân. Hoạt động tự học đã tạo điều kiện cho sinh viên hiểu sâu <br />
tri thức, mở rộng kiến thức, củng cố ghi nhớ vững chắc tri thức, biết v ận <br />
dụng tri thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập mới.<br />
<br />
Thứ hai, tự học không những giúp sinh viên không ngừng nâng cao chất <br />
lượng và hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn giúp <br />
họ có được hứng thú thói quen và phương pháp tự thường xuyên để làm <br />
phong phú thêm, hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của mình. Giúp họ tránh <br />
được sự lạc hậu trước sự biến đổi không ngừng của khoa học và công <br />
nghệ trong thời đại ngày nay.<br />
<br />
Thứ ba, tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ giúp <br />
sinh viên mở rộng đào sâu kiến thức mà còn giúp sinh viên hình thành <br />
được những phẩm chất trí tuệ và rèn luyện nhân cách của mình. Tạo cho <br />
họ có nếp sống và làm việc khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính <br />
kiên trì, óc phê phán, hứng thú học tập và lòng say mê nghiên cứu khoa <br />
học.<br />
<br />
Thứ tư, trong quá trình học tập ở trường đại học, nếu bồi dưỡng được ý <br />
chí và năng lực tự học cần thiết thì sẽ khơi dậy được ở sinh viên tiềm <br />
năng to lớn vốn có của họ, tạo nên động lực nội sinh của quá trình học <br />
tập, vượt lên trên mọi khó khăn, trở ngại bên ngoài. Khả năng tự học <br />
chính là nhân tố nội lực, nhân tố quyết định chất lượng đào tạo.<br />
<br />
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò của giáo viên và <br />
tập thể sinh viên trong nhà trường. Các lực lượng này có tác dụng lớn <br />
trong việc động viên khuyến khích hướng dẫn sinh viên tự học một cách <br />
đúng hướng và hiệu quả.<br />
<br />
Trong xã hội phát triển vai trò của giáo dục ngày càng quan trọng, là động <br />
lực thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Giáo dục phải đào tạo được <br />
thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, có đủ tri thức, năng lực và có khả năng <br />
thích ứng với đời sống xã hội, làm phát triển xã hội. Muốn vậy thế hệ trẻ <br />
phải có năng lực đặc biệt đó là khả năng tự học, tự nâng cao, tự hoàn <br />
thiện và những khả năng này phải được hình thành từ cấp tiểu học. Có <br />
như vậy mới rèn luyện cho họ được kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, không <br />
ngừng nâng cao vốn hiểu biết về văn hoá, khoa học kỹ thuật và hiện đại <br />
hoá vốn tri thức của mình để trở thành người công dân, người lao động <br />
với đầy đủ hành trang bước vào cuộc sống.<br />
<br />
4. Ý nghĩa của tự học<br />
<br />
Ở bất kỳ bậc học hay cấp học nào hoạt động tự học cũng có ý nghĩa rất <br />
quan trọng đối với kết quả học tập, tuy nhiên đối với sinh viên ở các <br />
trường đại học nó lại càng thiết thực hơn bởi hoạt động tự học của sinh <br />
viên ở các trường đại học có nét đặc thù so với phổ thông, thể hiện hoạt <br />
động nhận thức của sinh viên ở mức cao hơn, mang tính chất độc lập, tự <br />
lực, tự giác, sáng tạo trong việc tiếp thu tri thức cũng như việc vận dụng <br />
tri thức vào các tình huống cụ thể. Phương pháp học tập của sinh viên <br />
cũng khác, nó mang tính chất tự học, tự nghiên cứu nhưng điều đó cũng <br />
không có nghĩa là thiếu vai trò của người giáo viên. Do đó có thể nói hoạt <br />
động tự học là một khâu của quá trình giáo dục, là một quá trình gia công, <br />
chế biến và tự điều khiển theo đúng mục tiêu giáo dục qui định.<br />
<br />
Nhờ có tự học và chỉ bằng con đường tự học, người học mới có thể nắm <br />
vững tri thức, thông hiểu tri thức, bổ xung và hoàn thiện tri thức cũng như <br />
hình thành những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Điều này đã được <br />
K.Đ.Usinxki nói: chỉ có công tác tự học của học sinh mới tạo điều kiện <br />
cho việc thông hiểu tri thức. Và như vậy hoạt động tự học sẽ quyết định <br />
chất lượng giáo dục đào tạo của nhà trường.<br />
<br />
Hoạt động tự học của học sinh, sinh viên không chỉ nâng cao năng lực <br />
nhận thức, rèn luyện thói quen, kỹ năng, kỹ xảo vận dụng tri thức của <br />
bản thân vào cuộc sống mà còn giáo dục tình cảm và những phẩm chất <br />
đạo đức của bản thân. Vì trên cơ sở những tri thức họ tiếp thu được nó có <br />
ý nghĩa sâu sắc đến việc giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống, niềm tin, <br />
rèn luyện phong cách làm việc cá nhân cũng như những phẩm chất ý chí <br />
cần thiết cho việc tổ chức lao động học tập của mỗi học sinh; Bên cạnh <br />
đó còn rèn luyện cho họ cách suy nghĩ, tính tự giác, độc lập… trong học <br />
tập cũng như rèn luyện thói quen trong hoạt động khác. Nói cách khác <br />
hoạt động tự học hướng vào việc rèn luyện phát triển toàn diện nhân cách <br />
học sinh. Mặt khác hoạt động tự học không những là yêu cầu cấp bách, <br />
thiết yếu của học sinh, sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường để họ <br />
tiếp nhận tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết của bản thân mà còn có ý <br />
nghĩa lâu dài trong suốt cuộc đời mỗi con người, đó là thói quen học tập <br />
suốt đời, bởi sau khi ra trường vẫn phải tiếp tục: Học, học nữa, học mãi <br />
và người học sinh, sinh viên Cần phải học khi còn là học sinh, nhưng cần <br />
phải học tập hơn nữa khi đã rời ghế nhà trường và sự học tập ở giai đoạn <br />
thứ hai này còn quan trọng hơn gấp bội lần sự học tập thứ nhất và hiệu <br />
quả của nó, ảnh hưởng của nó đến cá nhân con người và đến xã hội.<br />
<br />
Tự học không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân người học mà còn góp phần <br />
to lớn nâng cao chất lượng dạy học và đào tạo. Nói như vậy không có <br />
nghĩa là hạ thấp vai trò trách nhiệm của người giáo viên mà dưới sự tổ <br />
chức, hướng dẫn, chỉ đạo của người giáo viên, học sinh đã biết cách tự <br />
học, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh kho tàng tri thức của nhân loại.<br />
<br />
Như vậy muốn nâng cao chất lượng học tập của sinh viên trong trường <br />
học nói chung, khoa y sinh học TDTT nói riêng, chúng ta cần phải quan <br />
tâm đúng mức đến việc bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ nghiệp vụ <br />
của người giáo viên đồng thời phải đặc biệt chú ý đến vị trí trung tâm của <br />
người sinh viên trong hoạt động tập thể để làm sao khai thác triệt để <br />
những tiềm năng vốn có trong người họ, phát huy tính tự giác, tích cực <br />
sáng tạo, chủ động trong quá trình lĩnh hội tri thức nhằm đào tạo nhân tài <br />
cho đất nước, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp TDTT đất nước.<br />
<br />
5.Hướng dẫn phương pháp tự học các môn y sinh học <br />
<br />
5. 1.Phương pháp tự học<br />
<br />
Trước hết ta phải nhận thức được rằng khi ta cho rằng việc tự học cần <br />
phải được khuyến khích trong học viên thì chính ta đưa ra một ý kiến <br />
nhất định hoặc đang tiếp nhận một phương pháp tiếp cận đối với quá <br />
trình dạy học, và tất cả mội người sẽ nhất trí về tính ưu việt của phương <br />
pháp tiếp cận này. Thật ra hầu hết mọi giáo viên giỏi đều tìm cách <br />
khuyến khích học viên tự học tập và nghiên cứu. Đó là thói quen cần thiết <br />
phải lĩnh hội trong mọi điều kiện.<br />
<br />
Vì thế đây chính là một bài tập suy nghĩ gồm hai cấp độ. Đầu tiên người <br />
giáo viên phải lồng ghép phương pháp này vào công việc của chính mình, <br />
sau đó người giáo viên phải tìm ra một phương thức hoạt động hay <br />
phương pháp nào đó nhằm khuyến khích học viên của chính mình tự học. <br />
Phương pháp này phải được định nghĩa một cách đầy đủ nhưng tổng quát <br />
để có thể thực hiện được trong các nội dung bài giảng khác nhau theo một <br />
hình thức đơn giản dễ hiểu.<br />
<br />
Các giáo viên và những nhà giáo dục đã phát triển nên một phương pháp <br />
dạy học hiệu quả dựa trên ý tưởng cho rằng việc học giúp cho cá nhân <br />
lĩnh hội được khả năng khác nhau một cách thoả đáng và hiệu quả. <br />
Phương pháp này gọi là phương pháp tự học.<br />
<br />
Phương pháp tự học của sinh viên là cách thức, con đường mà người học <br />
tự chọn cho mình trong quá trình học tập để đạt được những nhiệm vụ <br />
học tập đề ra. Như vậy phương pháp tự học có vai trò rất quan trọng đối <br />
với kết quả học tập của sinh viên.<br />
<br />
5. 2.Hướng dẫn phương pháp tự học<br />
<br />
Trong thư gửi Trung tâm Nghiên cứu và phát triển tự học (Hội khuyến <br />
học Việt Nam) ngày 09/06/1999, Bộ trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo <br />
Nguyễn Minh Hiển viết: “Tự học là một khâu rất quan trọng trong quá <br />
trình giáo dục, góp phần hình thành và nâng cao năng lực, phẩm chất của <br />
học sinh, sinh viên, đặc biệt trong điều kiện hiện nay. Đây là vấn đề <br />
không chỉ liên quan đến người học mà cả người dạy. Việc khơi dạy, <br />
hướng dẫn, đẩy mạnh, phát huy nội lực tự học trong việc dạy và học là <br />
quán triệt chủ trương xã hội hoá giáo dục mà Đảng và Nhà nước ta rất <br />
quan tâm”.<br />
<br />
Rõ ràng là việc khơi dậy khả năng tự học trong thế hệ trẻ, đặc biệt là <br />
sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay đang là vấn đề <br />
được sự quan tâm của toàn xã hội, bởi đây chính là người chủ tương lai <br />
của đất nước, những người sẽ kế tiếp cha anh đưa đất nước đi lên. Muốn <br />
vậy, phải hướng dẫn, giúp đỡ họ có được phương pháp tự học, cách thức <br />
tự học đúng đắn.<br />
<br />
Vậy có thể hiểu một cách khái quát rằng hướng dẫn phương pháp tự học <br />
là quá trình giúp đỡ, hình thành cho người học có được những phương <br />
pháp, cách thức tự học, tự nghiên cứu hợp lý, hiệu quả, qua đó giúp họ <br />
không ngừng nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu khoa học cả khi <br />
còn đang ngồi trên ghế nhà trường và khi đã bước vào lao động nghề <br />
nghiệp trong tương lai.<br />
<br />
Trong quá trình dạy học, người giáo viên cần tăng cường sử dụng các <br />
phương pháp dạy học tích cực nhằm khơi dậy hứng thú, tính sáng tạo, óc <br />
tò mò khoa học cho người học; mặt khác bên cạnh việc trang bị cho người <br />
học hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thì cần đặc biệt chú ý hình thành <br />
cho họ ý thức tự học, động cợ tự học đúng đắn. Tiếp theo người giáo viên <br />
nên hướng dẫn người học có những phương pháp tự học, cách thức tiến <br />
hành tự học cụ thể hiệu quả như:<br />
<br />
Biết cách xây dựng kế hoạch và thời gian biểu tự học hợp lý.<br />
Biết cách thức làm việc độc lập, bao gồm: Biết đọc sách một cách có hệ <br />
thống, biết phân chia dung lượng kiến thức hợp lý để tiến hành học tập <br />
cho có hiệu quả, biết liên hệ, vận dụng lý thuyết để giải quyết các bài <br />
tập trong quá trình học ở trên lớp và trong thực tiễn.<br />
<br />
Biết cách phân tích, tổng hợp, so sánh.<br />
<br />
Biết ôn tập, hạch toán kiến thức một cách tự giác, thường xuyên nhằm <br />
đánh giá được sự tiến bộ của trí tuệ.<br />
<br />
Biết tranh luận và biết trình bày quan điểm của mình.<br />
<br />
Biết tập trung tư tưởng, tiết kiệm thời gian học tập.<br />
<br />
Biết tự kiểm tra, tự đánh giá trình độ của bản thân…<br />
<br />
Để giúp người học có được những cách thức tiến hành tự học như vậy, <br />
người giáo viên có thể trực tiếp hướng dẫn họ ở trên lớp, thông qua các <br />
bài giảng mà hình thành cho nguời học những phương pháp tự học đúng <br />
đắn, hiệu quả.<br />
<br />
Giữa phương pháp tự học và phương pháp dạy học tích cực có mối quan <br />
hệ chặt chẽ với nhau. Phương pháp dạy học tích cực được quan niệm là <br />
một thuật ngữ rút gọn, dùng để chỉ những phương pháp giáo dục dạy học <br />
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học.<br />
<br />
Phương pháp dạy học tích cực có những đặc trưng sau:<br />
<br />
Thứ nhất dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học <br />
sinh. Trong phương pháp dạy học tích cực người học là chủ thể của họat <br />
động “học” được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên thiết <br />
kế tổ chức và chỉ đạo, qua đó tự khám phá chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng <br />
mới cũng như phương pháp làm ra tri thức kỹ năng đó.<br />
<br />
Thứ hai dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học. Trong xã hội <br />
hiện đại đang biến đổi nhanh với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kỹ <br />
thuật, công nghệ phát triển như vũ bão – thì không thể nhồi nhét vào đầu <br />
óc học sinh lượng kiến thức ngày càng tăng nhanh. Phải quan tâm dạy học <br />
cho học sinh phương pháp học tập ngay từ bậc tiểu học. Trong đó chú <br />
trọng rèn luyện phương pháp tự học. Tuy có được phương pháp, kỹ năng, <br />
thói quen ý chí quyết tâm tự học thì kết quả học tập của học sinh tăng lên <br />
rất nhiều. Chính vì vậy tự học là đặc trưng quan trọng của dạy học tích <br />
cực. Có thể tự học ở lớp, ở nhà, từ nhiều kênh thông tin.<br />
<br />
Thứ ba chú ý cả dạy học cá thể và dạy học hợp tác.<br />
<br />
Thứ tư dạy học chú trọng cả đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò.<br />
<br />
Các phương pháp dạy học tích cực cần được vận dụng vào phần các môn <br />
y sinh học là: Phương pháp vấn đáp hay phương pháp đàm thoại; phương <br />
pháp đặt và giải quyết vấn đề hay nêu vấn đề; phương pháp hoạt động <br />
nhóm; phương pháp thực hành; phương pháp động não...<br />
<br />
5.3. Hướng dẫn phương pháp tự học các môn y sinh học <br />
<br />
Từ khái niệm về hướng dẫn phương pháp tự học, chúng ta có thể hiểu <br />
hướng dẫn phương pháp tự học các môn y sinh học là quá trình giúp đỡ, <br />
hình thành cho người học tổ chức hoạt động nhận thức của mình được <br />
tiến hành ở trên lớp hay ngoài lớp, khi có thầy và cả khi không có thầy… <br />
nhằm chiếm lĩnh nội dung tri thức các môn y sinh học, đáp ứng được nhu <br />
cầu xã hội và yêu cầu của thực tiễn TDTT.<br />
Chúng ta biết rằng muốn học tập tốt một bộ môn nào đó thì người sinh <br />
viên phải hiểu được đặc điểm của môn học, tổ chức được những hoạt <br />
động tương ứng với môn học đó để lĩnh hội tri thức, chính bản thân <br />
người học chứ không phải ai khác phải thiết lập được mối quan hệ biện <br />
chứng giữa chủ thể (người học) và khách thể (môn học).<br />
<br />
Việc tự học các môn y sinh cũng vậy, muốn học tập đạt kết quả cao <br />
trước hết sinh viên phải hiểu được tính chất, đặc điểm của môn học đó <br />
là một bộ môn vừa mang tính chất lý luận, tính trừu tượng, khái quát lại <br />
vừa có tính thực tiễn rất cao. Vì vậy, việc học tập các môn y sinh không <br />
chỉ đơn thuần là việc nắm vững những nguyên lý, quy luật, những bài <br />
giảng mang tính chất lý luận mà phải gắn liền với việc am hiểu và nắm <br />
vững những kiến thức thực tế vận dụng lý luận dể giải quyết những vấn <br />
đề thực tiễn hoạt động TDTT.<br />
<br />
Như vậy, để tự học tốt, vấn đề quan trọng trước tiên là sinh viên phải <br />
hiểu rõ được ý nghĩa, vị trí của môn học trong nhà trường đối với nghề <br />
nghiệp tương lai của mình. Điều đó sẽ giúp họ xây dựng được ý thức tự <br />
học, tinh thần tự học, ý chí khắc phục khó khăn trong quá trình tự học.<br />
<br />
Bên cạnh đó, để tự học các môn y sinh đạt hiệu quả thì việc xây dựng <br />
phương pháp học tập khoa học và việc lựa chọn hình thức học tập phù <br />
hợp có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Phương pháp tự học các môn y <br />
sinh học không chỉ đơn thuần là học lại máy móc vở ghi, bài giảng của <br />
thầy mà người học còn phải làm quen với việc đọc sách, đọc các tài liệu <br />
tham khảo, phải biết tìm hiểu thực tiễn giáo dục trong và ngoài nhà <br />
trường, biết kết hợp sáng tạo giữa lý luận và thực tiễn … để tạo cho <br />
mình vốn tri thức, vốn kinh nghiệm phong phú.<br />
Để tự học tốt các môn y sinh học, người sinh viên cần phải biết tận dụng <br />
mọi hình thức để tự học. Có thể nói học các môn y sinh là học ở mọi nơi, <br />
mọi lúc, mọi tình huống, trong đó bản thân người học phải có sự nỗ lực, <br />
tích cực sáng tạo, luôn có sự so sánh đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn <br />
để nắm vững, hiểu sâu tri thức môn học đó.<br />
<br />
Đương nhiên để sinh viên làm được điều đó thì vai trò của giáo viên trong <br />
việc hướng dẫn phương pháp tự học các môn y sinh học là rất quan trọng.<br />
Link: http://khoaysinhhoctdtt.com/node/36<br />