intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ôn tập văn học 10 part 1

Chia sẻ: Pham Duong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:31

670
lượt xem
132
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các thành phần cấu tạo của nền văn học Việt Nam 1. Nền Văn học dân gian ra đời từ thời viễn cổ và tiếp tục phát triển về sau này. Tính nhân dân, tính dân tộc của nó từ nội dung tới hình thức có tác dụng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển của nền văn học viết. 2. Văn học viết ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 10 (?) gồm có 3 bộ phận: Văn học viết bằng chữ Hán, Văn học viết bằng chữ Nôm và Văn học viết bằng chữ quốc ngữ....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ôn tập văn học 10 part 1

  1. Các thành ph ần cấu tạo củ a n ền văn học Việt Nam 1. Nền Văn học dân gian ra đ ời từ thời viễn cổ và tiếp tụ c phát triển về sau này. Tính nhân dân, tính dân tộc củ a nó từ nộ i dung tới hình thức có tác dụng sâu sắc đ ến sự hình thành và phát triển củ a n ền văn học viết. 2. Văn họ c viết ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 10 (?) gồm có 3 bộ phận: Văn họ c viết bằng ch ữ Hán, Văn họ c viết bằng chữ Nôm và Văn họ c viết bằng ch ữ quốc ng ữ. Ba bộ ph ận văn họ c ấy nối tiếp, kế th ừa và phát triển cho thấy tinh thần sáng tạo, ý trí tự lập tự cường và sức m ạnh Việt Nam vô cùng to lớn. 3. Văn học dân gian là cội nguồn của nền văn họ c dân tộc. Hai thành ph ần Văn học viết và Văn học dân gian luôn luôn tác động qua lại, hộ i tụ và kết tinh ở những thiên tài văn chương như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, v.v... Các thời kỳ phát triển Có thể chia làm 3 thời kỳ lớn: 1. Thời kỳ từ th ế k ỷ thứ X đến thế kỷ XIX: Thơ văn Hán - Nôm. 2. Thời kỳ từ th ế k ỷ thứ XX đến năm 1945: Thơ văn Hán Nôm - thơ văn qu ốc ngữ. 3. Thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đ ến nay: thơ văn quốc ngữ m ang nộ i dung cách m ạng, kháng chiến, yêu nước và tiến bộ. Mấy nét đ ặc sắc truyền thống củ a văn họ c Việt Nam 1. Truyền thống yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc 2. Tình nhân ái. 3. Thơ ca có một truyền thống lâu đ ời phát triển mạnh. Có nhiều kiệt tác.Văn xuôi phát triển chậm: từ 1930 trở đi mới phát triển nhanh vọt, tiến lên hiện đại hoá. Khái niệm văn họ c dân gian. - Văn họ c dân gian là một thành tố của văn hoá dân gian, tức là phôncơlo (trí tu ệ nhân dân). - Văn họ c dân gian còn gọ i là văn học truyền miệng ho ặc văn học bình dân.
  2. - Văn họ c dân gian là những sáng tác tập thể truyền miệng của nhân dân, ra đời từ thời viễn cổ, phát triển qua các thời kì lịch sử, đ ến cả hiện nay và mai sau. Văn học dân gian có nh ững đặc trưng riêng so với văn họ c viết; nó cùng với văn họ c viết hợp thành nền văn họ c dân tộ c. Các thể lo ại văn họ c dân gian 1. Thơ ca dân gian: tục ngữ, câu đố, ca dao, hò, vè, truyện thơ. 2. Truyện dân g ian: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn. 3. Sân khấu dân gian: chèo, tuồng đồ. Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian 1. Tính tập th ể (trong sáng tạo, trong lưu truyền, trong sử dụng và cảm thụ...) 2. Tính truyền miệng. 3. Gắn với sinh hoạt xã hộ i (đời sống vật chất và tinh thần củ a nhân dân lao động...) Giá trị và vai trò của văn học dân gian trong nền văn học dân tộc 1. Văn học dân gian là kho báu về trí tu ệ, tâm hồn và thẩm m ĩ cao đẹp của nhân dân. 2. Văn học dân gian là ngọn nguồn, là cơ sở kết tinh củ a văn họ c dân tộc. Định ngh ĩa Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần ho ặc văn xuôi) có quy mô hoành tráng, miêu tả và ca ngợi những thành tựu có tính toàn dân và có ý nghĩ trọng đại (sống còn, vinh nhục) đối với cộng đồng, ca ngợi những anh hùng bộ tộc mang sức mạnh thần k ỳ, tiêu biểu cho ph ẩm chất và khát vọng của bộ tộc. Sử thi cổ đại là sản phẩm tinh thần - lễ n ghi, nghệ thu ật của xã hội thị tộ c-bộ lạc, một thể loại một đi không trở lại, phản ánh những kì tích của cộng đồng trong công cuộc xây d ựng sự phát triển, chinh phục tự nhiên và chiến đấu chiến thắng mọ i kẻ thù củ a bộ tộc. Những bộ sử thi của Việt Nam và th ế giới
  3. 1. Việt Nam. "Đẻ đ ất đ ẻ nước" củ a người Mường, bằng thơ. Bản sưu tầm ở Hoà Bình dài 3887 câu thơ; bản sưu tầm ở Thanh Hóa dài 8503 câu (?) - "Bài ca Đan Sẵn" củ a người Ê đê. - "Xinh Nhã" của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên, chủ yếu của người Ê đê. - “Y Ban” củ a nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên. - "Đăm Di" của người Ê đê và Giarai. - "Xinh Chơ Niếp" củ a người Ê đê. - v.v... 2. Thế g iới: - "Ramayana" của Ấn Độ gồm có 24.000 câu thơ đôi. - "Mahabharata" củ a Ấn Độ dài 110.000 câu thơ đôi. - "Ôđixê" củ a Hi Lạp dài 12.110 câu thơ, tác giả Hômerơ. - "Iliat" của Hi Lạp, dài 15.683 câu thơ, tác giả Hômerơ. - v.v... Những ý kiến về sử thi 1. ..."Thời đại th ịnh vượng nhất của giai đoạn cao trong th ời đại dã man được diễn tả trong những bài thơ của Hômerơ, nh ất là tập Iliat. ... Bản anh hùng ca của Hômerơ và toàn bộ th ần thoại - đó là những di sản chủ yếu mà người Hi Lạp đã đem được từ thời đại dã man sang thời đại văn minh...” (Ăng ghen) 2. ..."Chỉ thông qua sức mạnh phi thường của cộng đồng, người ta m ới có thể giải thích được vẻ đẹp tuyệt vời và sâu sắc củ a thần thoạivà anh hùng ca, một vẻ đẹp xây dựng trên sự hoà hợp triệt đ ể giữa nội dung và
  4. hình thức..." (Gorki) 3. "Sử thi anh hùng bao hàm một b ức tranh hoàn chỉnh của cu ộc sống nhân dân dưới hình thứ c kể truyện anh hùng về quá kh ứ. Th ế giới sử thi lý tưởng và nhân vật dũng sĩ trong sự thống nhất hài hoà của chúng - đó là những nhân tố chủ yếu của mộ t nộ i dung sử thi anh hùng". (Mêlêtinxki) Một vài nét về tác phẩm 1. Quy mô Sử thi "Đẻ đất đẻ nước" có quy mô hoành tráng. Bản sưu tầm ở Thanh Hoá dài tới 8503 câu thơ. Người Mường ở Ngh ĩ Lộ, Hoà Bình và miền tây Thanh Hoá còn truyền tụng "Đẻ đất đẻ nước". Các thầy mo (th ầy cúng) vẫn đọc "Đẻ đất đẻ nước" trong các tang lễ. 2. Tóm tắ t Thuở ấy, khi đất trời còn hỗn mang, bỗng "mưa d ầm mưa d ãi" nước ngập mênh mông, 50 ngày sau mới rút h ết. Tự nhiên mọ c lên một cây xanh có 90 cành, có mộ t cành cao trọc trời, biến thành ông Thu Tha, Bà Thu Thiên. Hai Thần truyền lệnh làm ra Đất, Trời và Vạn vật. Sau đó, nắng dữ dội suốt 12 năm liền, m ặt đất xơ xác. Thần Pồng Pêu ao ước một trận mưa lớn. Tức thì mưa to gió lớn suốt chín, mười ngày đêm; hạt mưa to bằng qu ả bưởi, nước lại ngập bao la. Bẩy tháng sau nước rút cạn, có mộ t cây si khổng lồ mọc lên tua tủa 1919 cành. Trời sai con Sâu Gang khoét ruỗng ruột cây si. Cây đổ, mỗ i cành hoá ra một bản mường: ..."Mộ t cành đổ về đất Sạp Nên mường Sạp.
  5. Một cành đổ về đất Giạp Nên mường Giạp. Một cành ngã về đ ất Bi, đất Lỗ. Nên Mường Bi, Mường Lỗ..." Có một cành si lại hoá ra Mụ Dạ Dần; mụ đẻ ra hai cái trứng kì dị, nở ra cun Bướm Bạc và cun Bướm Bờ. Vừa mới nở, cun Bướm Bạc đã ăn hết 9 chõ cơm; cun Bướm Bờ ăn hết 5 chõ xôi: "Cun Bướm Bạc và cun Bướm Bờ Lớn cao hơn đụn chính, đụn mười. Tiếng cười như tiếng trống cái Tiếng nói như tiếng sấm vang Xương vai dài tám mươi lóng Xương sống dài b ẩy mươi gang..." Vua trời cho mười nàng tiên xuống trần gian du ngoạn. Hai cun cưõi ngựa bạc, vác ná đi sãn lợn rừng, gặp các nàng tiên "lưng ong, tóc mượt". Hai nàng tiên quên đường về trời. Họ nên vợ n ên chồng . Sau 12 năm 9 tháng, hai nàng tiên sinh được mộ t bầy con mà "Trống chim Tùng, mái chim tót là con út con yêu". Đôi chim trống mái sau "9 ngày, 9 đêm, 9 tháng" để ra 1919 chiếc trứng nở ra Thần Chớp, Th ần Mây, nở ra chuột, lợn, voi, thú dữ... Đôi chim đẻ ra lứa thứ h ai "được một trứng đen đen bốn khúc - Trứng b ầu dục 4 khuôn - Mặt vuông mặt tròn chín cạnh -Rành rành mư ời hai quai"... Mụ Dạ Dần sai chim chiền chiện ấp, trứng n ở ra mộ t bầy con, mỗi đứa nói mộ t thứ tiếng: tiếng Lào, tiếng Thái, tiếng K inh, tiếng Mọn, tiếng Mường, tiếng Mán, tiếng Mèo… Trứng cũng nở ra anh em nhà lang: ông Dịt Dáng, ông Lang Tà Cái, ông Lang Cun Cần, bố
  6. Bướm Khang, ông Sang Si, nàng Vạ Hai Chiếng.... Loài người có từ đấy. Bộ tộc Mư ờng có từ đ ấy. Thần Cuộng Minh Vàng Rậm, nàng ả Sấm Trời "đúc 9 mặt trời, đúc được 12 m ặt trăng" làm chói chang trời đất. Họ nhà Ngao "thần nỏ" dùng cung tên bắn rụng h ết, chỉ để lại một m ặt trăng, một m ặt trời. Rồ i ông Thu Tha, bà Thu Thiên làm ra năm, tháng, ngày, đêm, bốn mùa cho người theo đó làm ăn sinh sống. Người Mường chưa có thủ lĩnh.Mường nước mời ông Dịt Dáng, rồi mời Lang Tá Cái ra "cầm binh cầm mường”. Cả hai đều b ất tài bị "ma đón đường, thuồng luồng xanh","rồng vàng ngăn ngõ". Mường nước ph ải đi mời Lang Cun Cần ra tiễu trừ ma qu ỷ, thú dữ. "Ma chạy từng bầy trố n vào trong núi Ma rồng sơ Lang Cun Cần trời Thuồng luồng sợ Lang Cun Cần chặt Ma Trời, ma Đất cùng chạy nhanh nhanh"... Lang Cun Cần trở thành thủ lĩnh từ đó. Rùa Thần giúp lang dựng nhà cửa to đ ẹp. Tà Cắm Cọt (th ần lửa) cho Cun Cần lửa. Nàng tiên Mái Lúa (thần Trồng Trọ t) giúp lang nhiều hạt giống để sản xu ất. Lang Khấm Dậm bày cho cách ủ men chế rượu cần. Mụ La, mụ Húng, (thần chăn nuôi) dạy cho mường nước nuôi gia súc, gia cầm. Mường nước có trâu bò cày ruộ ng làm nương. Hai chương 17, 18 gồm 1263 câu thơ kể chuyện Lang Cun Cần lấy vợ. Lang lấy em gái nàng Vạ Hai Chiếng, bị làng bản coi khinh, bị vua Trời sai cun Sấm nàng Sét (thiên lôi) xuống trừng phạt, may mà thoát ch ết. Lang Cun Cần sai bỏ nàng Vạ
  7. Hai Chiếng vào rừng sâu. Lang sai người đem lễ vật đi khắp nơi tìm "gái đ ẹp con dòng". Cun Cần lấy được nhiều vợ: có vợ là con gái vua Trời, có vợ là thần tiên, có vợ là con gái mường nước. Lang Cun Cần có một bầy con: "Nàng Vậm Đầu Đất Đẻ được cun Tồ i, cái Sang Nàng Vậm Đầu Nước Đẻ ra cun Tàng, cái Lớn, Nàng Ả Sao, Ả Sáng, Ả Rạng nhà ông vua Trời Đẻ được Lang Cun Khượng Ả Gái nuôi trong mường Đẻ ra chàng Toóng Ín..." Con cái trưởng thành. Lang Cun Cần chia đất cho các con. Anh em bất hoà. Toóng Ín vu cho Lang Cun Khương làm giặc để âm mưu cướp đất của anh. Lang Cun Khương chạy lên vua Trời, nh ờ ông ngo ại che chở. Trời giáng hoạ, gây ra lũ lụt, ép anh em nhà Lang phải giết Toóng Ín. Từ đó, Lang Cun Khương trở nên một thủ lĩnh giàu có, đ ầy quyền uy. Tậm Tạch là tôi tớ của lang đã tìm được cây Chu Đồng (cây thần) lấy được "bông thau, qu ả thiếc" mà trở nên giàu có. Anh em Lang Cun Khương lập mưu chuố c rượu cho Tậm Tạch say, lừa lấy được "bông thau, quả thiếc". Lang đưa cả mư ờng nước đi chặt cây Chu Đồng kéo về làm nhà chu.Tậm Tạch phản loại b ị lang giết ch ết. Rùa Thần lại giúp lang làm nhà chu "sáng cả mường, kinh kì kẻ ch ợ", "rạng trời rạng đ ất". Lang giết 10 voi ngà, 30 trâu mộng, 9 bò, 100 gà sao, nấu 1000 vò
  8. rượu, để ăn mừng. Lang Cun Cần ban thưởng cho các con nhiều vàng b ạc quý giá. Con củ a Tậm Tạch lại đốt nhà chu đ ể báo thù cho cha. Hắn lại b ị lang giết ch ết, máu h ắn hoá thành con Moong khổng lồ, tàn phá bản mường. Lang Cun Cần đưa tất cả mường nư ớc đi săn Moong, vô cùng nguy hiểm mới giết được. Moong được ăn thịt; người Lào, người Thái, người Tày, người Mường nhanh chân lấy được da Moong vằn vện mà họ c được cách thêu thùa, dệt vải rất đẹp. Người K inh đ ến sau lấy được thịt và m ỡ Moong, từ đấy biết nấu nhiều món ăn ngon.Người "Mường ngoài" (Hoà Bình) đến sau cùng, chẳng được thứ gì , chỉ nhìn thấy đống tro thui Moong, ch ẳng may, gió thổi tro bay dính vào môi, nên môi người "Mường ngoài" b ị đen là vì thế! Tai ho ạ còn nhiều. Chó ăn ph ải phổ i Moong mà thành chó điên. Chó điên bị giết, xác bị qu ẳng xuống sông, cá ăn ph ải biến thành Cá điên. Cá điên b ị lang bắt giết, b ầy quạ ăn phải hoá ra Quạ điên. Mường nước săn nùng mãi, cuối cùng Lang Cun Khương b ắn trúng Qụa, cả b ày ho ảng sợ b ay trồn vào rừng sâu. Nhưng rồi hồn Toóng Ín lại biến thành Ma Ruộng đưa b ầy Rắn "m ỏ vàng, mỏ đỏ" đánh nhau với anh em Lang Cun Khương. Quân hai bên đánh nhau suốt đêm ngày, kịch chiến giữ a ruộng, quần nhau trên đồi gianh, đuổ i nhau trong rừng sến, hỗn chiến tại bến sông Rồng,... Toóng Ín thất thế phải chạy xuống thu ỷ p hủ của Long Vương ẩn náu và xin cầu viện. Long Vương biến Toóng Ín thành Ma May, Ma Lang. Hắn đưa binh m ã gồm thuồng luồng, ba ba, cá ngao... dâng nước làm lũ lụt, dìm chết được Lang Cun Tàng, Lang Cun Khương cùng mường nước nổi chiêng cồng đem giáo mác, cung nỏ, lưới... vây các ngả sông đón đánh. Giặc Ma May, Ma Lang bị đ ại bại, bỏ lại
  9. trên bãi chiến trường bao xác loài thu ỷ quái, làm thổ i cả b ản mường. Từ đó, mường nước yên vui, hoà bình thịnh vượng. Lang Cun Cần đã sống được trên vạn năm. Trẻ già, trai gái mường nước nô n ức sắm áo qu ần, lo kiệu lo ngai, rước vua về, "Đồng chì tam quan kẻ chợ" Giảng văn: Đẻ nước 1. Xuấ t xứ Đoạn thơ này trích gần trọn chương "Đẻ nước" trong sử thi "Đẻ đ ất đẻ nước"; từ câu 268-334 theo sưu tầm củ a Hoàng Anh Nhân (Thanh Hoá) 2. Ý chủ đạo Đoạn thơ nói về trận đại hồng thu ỷ thời tiền sử - buổ i đầu khai thiên lập địa theo cách cảm nhận riêng của người Mường xa xưa. 3. Ông Pồng Pêu Là Thần Mưa theo cách gọi của ngưòi Mường. Thiên tai kéo dài "Hạn 9 tháng biền biệt - nắng 12 năm xác đ ất" làm cho muôn loài đau khổ: "cây cau úa cả tàu - rừng vàu không mọ c măng", làm cho "chó mực, chó ngao lè lưỡi, rái cá phải ch ạy lên đồi"... Ông Pồng Pêu lúc đó đang ngồi "đan chài" và "đan lưới" trong nhà, bình dị như con người lao động. Ông ngư ớc nhìn kh ắp trời đất, rồ i gọ i gió, gọ i "mưa cho mát lòng các loài thú hiền thú dữ, cây lau cây bái". Tức thì trời mưa to. Pồng Pêu là biểu tượng cho ý nguyện của muôn loài muôn vật và con người vì sự sống b ắt diệt trên trái đất. 4. Cảnh trời mưa Mưa miêu tả dữ dội chẳng khác nào trận đại hồng thu ỷ trong Kinh thánh nói đến. Mây vàng mây đen đùn lên che kín cả
  10. bầu trời, gió ùn ùn thổi điên cuồng. Cun Sấm nàng Sét cùng ra oai: "Lanh lảnh cun Sấm xuống thét Lăm lăm nàng sét xuống đánh". Mưa kéo dài "mưa 9 đêm, mưa liền 9 ngày". Hạt mưa " to bằng hộ t cà" về sau "to bằng qu ả bưởi". Nước ngập mênh mông. Mưa để "rước nàng ngâu về trời" để "đưa chàng ngâu qua sông Ngân". Mưa "ngập cây", "ngập bụ i", mãi "bốn tháng nước rút - b ẩy tháng nước xuôi". Mưa đem đ ến sự sống cho đàn cua đá, đàn cá, đàn ba ba, đàn cá chuối, đàn nòng nọ c, đàn cá cơm. Sau khi "đẻ nước" trời "đẻ đất". Có đ ất, đất đang xơ xác, Có nước, nước ùn đục ngầu Đó vẫn là cảnh thiên địa xơ khai. Biện pháp lặp và liệt kê được nhà thơ dân gian xưa của tộc Mường, vận dụng tạo nên ấn tượng "đẻ nước". Thần mưa, thần Sấm, thần Sét, Chứ c nữ, Ngưu lang...được nói đến hồn nhiên đầy ý vị. Đo ạn sử thi đã giải thích hiện tượng mưa gió, lũ lụt qua cảm quan nghệ thu ật “vạn vật hữu linh" của người Mường thời viễn cổ. Xuất xứ "Bài ca chàng Đam Săn" là sử thi anh hùng của tộc người Ê đê ở Tây Nguyên. Tác phẩm được nhiều người sưu tầm tuy lời kể có khác nhau ít nhiều, nhưng cốt truyện đều giống nhau. Tóm tắt Theo tục "n ối dây", Đam Săn ph ải lấy hai chị em Hơ Nhí và Hơ Bhí làm vợ. Anh đã chống lại, nhưng b ị trời lấy ống điếu gõ vào đ ầu 7 lần "Đam Săn chết lịm, rồ i Trời cho sống lại". Cuối cùng Đam Săn phải làm theo lời Trời. Đam Săn trở thành tù
  11. trưởng giàu mạnh, danh tiếng vang lừng rừng núi, "đầu đội khăn kép, vai mang túi da". Đam Săn đã cùng bộ tộ c đánh th ắng hai tù trưởng hùng mạnh khác là Mơtao Grứ và Mơtao Mơxây, b ắt được nhiều nô lệ, thu được nhiều tài sản quý báu. Ngang tàn coi thường th ần linh, Đam Săn chặt cây thần. Ch ặt mãi cây mới đổ. Cây đổ quật chết cả hai nàng Hơ Nhí và Hơ Bhí. Anh vác rìu đi lên trời, cầu xin Trời cứu sống vợ anh. Đang sống trong yên vui giàu có, Đam Săn lại lên đường đi bắt Nữ thần Mặt Trời đ ể có "hai vợ lẽ... vợ thật đẹp”. Cuộ c cầu hôn thất bại, anh trở lại quê nhà, b ị chết lún giữ a rừng của bà Sun Y Rít. Đam Săn chết, cháu Đam Săn ra đời, lại theo tục "nối dây" đi tiếp hành trình củ a cậu chàng, dấn thân vào cuộc chiến đấu mới. Giảng văn Đi bắ t nữ thâng Mặt Trời 1. Xuấ t xứ và ý tưởng chủ đạo Đoạn trích "Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời" nằm trong chương 7 "Bài ca chàng Đam Săn" Đoạn sử thi này nói lên khát vọng và dũng khí, lòng quả cảm củ a người anh hùng Đam Săn được bộ tộc ngưỡng mộ . 2. Hình ảnh dũng sĩ Đam Săn - Khát vọng phi thường. Là một tù trưởng giàu có và hùng m ạnh: "Trăm chiêng núp anh đã có. Trăm chiêng bằng anh đ ã có. Trăm con voi anh đ ã có...". Nhiều nồi đồng, lợn dê đ ầy sân. "Tiếng tăm anh vang đến thần núi", ai cũng ph ải khen anh là "gan dạ, anh dũng", không h ề lùi trước bất cứ địch thủ n ào! Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời vì nàng là "người đẹp nhất", "bắp chân nàng tròn, váy nàng đ ẹp tuyệt vời". Đi b ắt nữ thần Mặt Trời m ới thành một tù trưởng "hết sức giàu mạnh... trên đời
  12. không ai bì kịp"... Khi đến vương quốc của nữ thần Mặt Trời, Đam Săn đã nói với người đẹp: "Tôi muốn có hai vợ lẽ, tôi muốn có mộ t người vợ th ật đẹp và tôi hứ a với nàng tôi sẽ m ang nàng xuống trần lập một gia đình chung với Hơ Nhí và Hơ Bhí". N gười tù trưởng phải có khát vọng phi thường như vậy mới tiêu biểu cho phẩm chất cao đẹp của cộng đồng bộ tộ c xa xưa. - Dũng khí quả cảm vô song. Lên đường với con tuấn mã, tay cầm lao, gươm dắt thắt lưng, khoác áo màu đen màu trắng, mang theo bùa ngải..."sẽ giúp tôi thắng!". Đừng đi đầy tê giác, hùm thiêng, cọp dữ, đ ã cắm chông, đã cắm b ẫy, nước đầy đỉa, cây đầy sên, bò cạp giữa đường, rết trên ngọn cây... xương người và xương trâu đ ầy rừng!... Nhưng quyết tâm củ a Đam Săn không hề n ao núng: "Mặc kệ! để tôi kiếm một nối đi. Tôi sẽ tới chỗ tôi muốn! Gặp hùm tôi sẽ giết hùm". Đam Săn ra đi từ lúc gà gáy. Chàng vượt qua rừng âm u, núi rậm chân và tay b ị cỏ tranh, mây "cắt nát". Đến ranh giới giữ a trời và đất, Đam Săn đã "chặt một sườn núi ném xuống bùn làm con đường" để vượt qua và tiến lên. Chàng dũng sĩ vô cùng ngạc nhiên trước cái nhà của nữ thần: cầu thang nhà là chiếc cầu vồng, cối và chày giã gạo đều b ằng vàng, sân nhà đầy voi, trong nhà đầy chiêng núp. Tôi tớ trai và gái đi lại đông như mây. Đam Săn thì được người nhà của nữ thần ngắm nghía như nhìn một "thần linh danh tiếng". Còn nữ thần Mặt Trời thay hai lần váy m ới "nh ấp nháy như ch ớp sáng". Tóc ch ải bóng buông dài. Dáng đi thướt tha "như chim diều bay, như phư ợng hoàng liệng, như nư ớc ch ảy êm đềm". Cổ nàng "đ ẹp như cổ con công". Nàng là dòng dõi nhà "Trời và Đất". Với tưởng tư ợng kì diệu, tác giả sử thi đã miêu
  13. tả hành trình củ a Đam Săn và hình ảnh nữ th ần Mặt Trời đ ể ca ngợi dũng khí, lòng quả cảm và khát vọng về công danh, hạnh phúc củ a người dũng sĩ lỗi lạc. Cuộ c cầu hôn không thành, Đan Săn lên ngựa trở về. Th ần ánh sáng đã làm cho đất nhão ra. Chàng dũng sĩ đã chết trong tư th ế lẫm liệt. Mặc dù vậy, Đam Săn là tù trưởng duy nhất đi tới được vương quốc nữ thần Mặt Trời. Người Ê đê xưa và nay vô cùng tự hào về h ành trình của Đam Săn. Cách giải thích hiện tượng tự nhiên, Mặt Trời và ánh sáng của người Ê đê xa xưa rất kì diệu. Đoạn Đam Săn đi bắ t nữ thần Mặ t Trời là đoạn hay nh ất tràng lệ nhất, bi tráng nhất trong sử thi "Bài ca chàng Đam Săn". Nghệ thuật phóng đại và so sánh được sử dụng trong miêu tả và chuyện kể rất thần tình, đ ầy ấn tượng. Một vài điều cần biết về chuyện cổ tích 1. Cổ tích là tích cũ, chuyện xa xưa, ra đời khi xã hội có áp bức, bóc lột. Cổ tích kể về nh ững truyện m ang yếu tố hoang đường, sự tích kì lạ về con người, hoặc th ế giới muôn loài, ch ứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc. 2. Người ta chia truyện cổ tích thành 3 loạ i: - Truyện cổ tích loài vật (Quạ và Công; Con thỏ tinh khôn...) - Truyện cổ tích thần kỳ (Chử Đồng Tử, Cây khế…) - Truyện cổ tích sinh hoạt (Chàng ngố c, Cái cân thu ỷ tinh...) 3. Cuộc đ ấu tranh giữa thiện và ác, giàu và nghèo, thống trị và bị thống trị, chính ngh ĩa và phi nghĩa... Các bài họ c về ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, tham thì thâm... rất dễ bắt gặp trong truyện cổ tích. Cổ tích nêu cao khát vọng về tự do và hạnh
  14. phúc, công bằng ở đời. Truyên "Ch ử Đồng Tử" 1. Tóm tắ t. Ngày xưa ở nàng Chử Xá có hai cha con Chử Cù Vân và Ch ử Đồng Tử, nghèo khổ, mò cua bắt ốc, chỉ có một chiếc khố chung nhau, h ễ ai đi đâu th ì đóng: Chử Cù Vân ốm sắp chết d ặn con cứ táng trần cho cha. Nhưng khi Chử Cù Vân qua đ ời thì Chử Đồng Tử đã lấy kh ố đóng cho cha rồi mới chôn cất. Ngày ngày Chử Đồng Tử vẫn xuống sông mò cua bắt cá kiếm sống. Thuở ấy có nàng Tiên Dung, công chúa củ a vua Hùng thứ ba, nhan sắc tuyệt trần, đã 17, 18 tuổ i mà không chịu lấy chồng, chỉ thích chèo thuyền đi xem sông núi. Mộ t hôm, thuyền củ a nàng đ ến khúc sông làng Chử Xá, thấy cảnh sông nước bờ bãi xinh đ ẹp, nàng bèn ra lệnh cho th ị nữ vây màn tứ vi vào một nơi có bóng mát để tắm. Không ngờ n ơi đó Chử Đồng Tử đ ang náu mình dưới cát. Tiên Dung giội nước mộ t lúc, nàng giật mình th ấy mộ t chàng trai trồi lên. Nàng hỏ i duyên cớ thì Chử Đồng Tử nói vì không có quần áo, thấy thuyền quan quân thì sợ nên phải vùi mình xuống cát đ ể ẩn. Tiên Dung nói với Chử Đồng Tử : "Tôi đã nguyện không lấy chồng, nay duyên trời run rủi, lại gặp chàng chốn này mới biết cưỡng không đư ợc với trời". Nàng sai thị nữ đem áo qu ần cho Chử Đồng Tử và sửa soạn tiệc hoa. "Chử Đồng Tử bối rối chối từ, Tiên Dung nói: "Thiếp với chàng là tự trời xe duyên, việc gì mà từ chối!". Hai người nên vợ nên chồng từ đấy. Vua Hùng được tin giận lắm, ra lệnh cho quân quan, người hầu của Tiên Dung ph ải về kinh đô. Nàng sợ cha, đành cùng chồng ở lại làm ăn. Mấy năm sau, cuộc sống trở nên th ịnh vượng. Nàng để chồng ra biển
  15. tìm vật lạ đem về đổi lấy các thứ khác. Chử Đồng Tử lên đường. Đến một nơi núi non hữu tình, th ấy cái am nhỏ, chàng leo lên núi, may thay gặp sư Ph ật Quang. Thấy Chử Đồng Tử là người chân thật, sư Ph ật Quang truyền cho phép lạ, hơn mộ t năm sau thành tài. Chử Đồng Tử xuống núi trở về nhà, lạy tạ nhà sư và đư ợc Phật Quang ban cho một cái gậy, mộ t nón có phép mầu nhiệm biến hoá. Chử Đồng Tử đ em phép mầu truyền lại cho Tiên Dung rồi hai vợ chồng du ngo ạn cảnh sông núi. Có lần trời tối giữa đường, hai vợ chồng cắm cái gậy xu ống đất, úp nón lên đầu gậy, hai người tựa vào nhau dưới nón mà ngủ. Nửa đêm tỉnh giấc, hai vợ chồng thấy mình đang sống trong một cung điện tráng lệ... Tin lạ ấy bay đến tai vua Hùng. Vua cả giận, ngỡ là Chử Đồng Tử và Tiên Dung làm ph ản bèn sai quân quan đi đánh d ẹp. Binh mã triều đ ình chưa qua sông th ì trời tối ph ải dừng lại. Đêm ấy, Tiên Dung và Chử Đồng Tử cùng bay lên trời. Mưa to, gió lớn, cun g điện cũng biến m ất. Về sau, bãi ấy gọ i là bãi Tự Nhiên, đầm ấy gọi là đầm Nhất Dạ. Nghe nói, thời nước ta bị tàu đô hộ, Chử Đồng Tử đã cưỡi rồng xuống giúp Triệu Việt Vương một cái vuốt rồng cắm lên mũ đầu mâu... Nh ờ th ế mà quân ta phản công, chém được tường giặc Lương là Dương Sằn, khôi phục lại đất nước. 2. Ý nghĩa. - Chử Đồng Tử " là mộ t truyện cổ tích thần kì, có nhiều dị bản đậm sắc thần k ỳ" Nó cũng thuộc đề tài về những kẻ h èn mọn "lấ y tiên, lấy công chúa... được kể qua nhiều truyện cổ tích th ần kì. Truyện "Ch ử Đồng Tử" cũng vậy. Chử Đồng Tử mò cua, bắt cá, nghèo khổ , một cái khố cũng không có, nhưng rất hiếu thảo, chân
  16. thật. Hạnh phúc cầm tay rồ i mà chàng vẫn bố i rối, mu ốn chối từ . Với Tiên Dung thì nàng "gặp" và lấy Chử Đồng Tử là do "duyên trời run rủi", là " tự trời xe duyên". Qua đó, ta thấy truyện Chử Đồng Tử nói lên quan niệm của nhân dân ta về vấn đề hôn nhân là do duyên số, đồng thời thể h iện ước mơ tự do và dân chủ trong tình yêu, trong xây d ựng hạnh phúc lứa đôi. Tiên Dung đã chủ động kết duyên với Ch ử Đồng Tử vượt qua lễ giáo và đẳng cấp, vượt qua mọi thử thách để bảo vệ h ạnh phúc. Tình tiết Chử Đồng Tử cưỡi rồng xuống hạ thế giúp Triệu Việt Vương chiếc vuốt rồng linh nghiệm... để quân ta chém được tướng giặc là Dương Sằn, Tổ quốc đư ợc giải phóng, đ ã làm cho truyện cổ tích này thêm vị truyền thuyết thể hiện sâu sắc lòng yêu nước của nhân dân ta. Con người Việt Nam dù đi đâu làm đâu cũng nhớ về cội nguồn, tìm mọ i cách để giúp nước. Ch ử Đồng Tử và Tiên Dung đã sống và hành động như vậy. Nhà sư Ph ật quang, cái nón và chiếc gậy nhiệm màu, cung điện tự mọc lên, tự mất đi, Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay lên trời, Chử Đồng Tử giúp Triệu Quang Phụ c cái vuốt rồng.... đó là yếu tố hoang đường, kì diệu... làm cho truyện cổ tích này vô cùng hấp d ẫn. Các địa danh: làng Chử Xá, bãi Tự Nhiên, đầm Nh ất Dạ... nay vẫn còn đó, làm cho truyện cổ tích "Chử Đồng Tử" tuy mang màu sắc hư ảo, thần kì mà như th ật, có thật. Rất thú vị về nh ững tên người, tên đất... ấy. Tóm tắt Ngày xưa, mộ t nhà quan lang họ Cao sinh được hai người con trai giống nhau như hai giọ t nước, thật khó phân biệt ai là anh, ai là em. Khi hai anh em đến tuổi 17, 18 thì cha mẹ đ ều qua đời cả. Anh em lại càng yêu thương nhau nhiều hơn.
  17. Hai anh em đến xin học ông đ ạo sĩ họ Lưu. Thấy hai anh em chăm chỉ học hành, lại đ ứng đắn nên thầy quý nh ư con. Ông đ ạo sĩ có mộ t cô con gái xinh đ ẹp tươi giòn, tuổi đã 16, 17 sinh lòng yêu m ến hai chàng trai, muốn kết duyên với người anh như không thể phân biệt được người nào là anh, ngư ời nào là em. Sau đó, cô m ới ngh ĩ ra một kế: dọn 2 bát cháo mà chỉ đ ặt một đôi đũa rồ i mời hai anh em cung ăn. Người em lễ phép nhường đôi đũa cho người anh ăn trước. Cô gái xinh đ ẹp xin phép cha mẹ cho được lấy người anh làm chồng. Từ ngày lấy vợ, ngư ời anh hình như dồn tất cả tình yêu cho vợ nên tình cảm anh em không còn được th ắm thiết như trước nữa. Ngư ời em buồn tủ i vô cùng. Một lần đi nương về, trời đ ã tố i, cô gái họ Lưu từ buồng ra gặp người em tưởng là chồng, vộ i ôm ch ầm lấy. Người em vội kêu lên, cả hai đều xấu hổ . Còn người anh thì lại nghi ngờ ch ị dâu và em chồng có tình ý gì nên càng hững hờ với em hơn trước. Mộ t buổi chiều, ở nhà một mình, trống vắng, buồn tủi, cô đơn, người em đã bỏ nhà ra đi, đi m ãi vào tận khu rừng âm u. Trời tố i m ịt, người em vẫn đi. Trăng đã lên. Phía trước là mộ t con suố i rộng, sâu, nước xanh biếc, ch ẳng lộ i qua được. Chàng ngồi bên bờ suối mà khóc, khóc mãi. Sương khuya lạnh thấm vào cõi lòng cô đ ơn. Chàng ch ết mà vẫn trơ trơ, biến thành một tảng đá. Thấy em bỏ nhà ra đi m ãi chưa về, người anh đi tìm em. Lại ngồ i trước con suối, người anh rầu rĩ than khóc, ngất đi rồi chết cứng, hoá thành một cây không cành mọc thẳng đứng bên tảng đá. Người vợ lại bỏ ra đi tìm chồng, tìm em. Lạ thay người lại đi theo con đường vào rừng xanh, cũng đến bờ suố i, ngồi cạnh tảng đá, dưới gố c cây. Nàng
  18. vô cùng đau khổ khóc than, mình gầy xác ve, ch ết tự lúc nào, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cái cây không cành mọ c bên tảng đá. Trong vùng, ai cũng thương tâm. Một lần vua Hùng đi qua con suối ấy, nhân dân đem truyện ba người kia kể lại cho vua nghe. Vua bảo thử lấy quả ở cây không cành nghiền với lá cây leo thì mộ t mùi thơm toả ra; nhai thử th ấy thơm ngon đậm đà và nhổ vào tảng đá, lạ chưa b ãi nước biến thành sắc đỏ . Nhân dân đặt tên cây không cành ấy là cây cau, cây dây leo là cây trầu, lại lấy tảng đá nung lên cho xốp để ăn với trầu, cau cho thơm miệng, đỏ môi. Tục ăn trầu của dân ta có từ đ ấy. Trầu cau không thể thiếu trong lễ hội, trong cưới xin... Mỗi lần khách đ ến chơi nhà "miếng trầu là đầu câu chuyện" làm cho tình nghĩa th êm đẹp và đ ằm thắm, đậm đà. Phân tích 1. Ý nghía Truyện "Trầu cau" là mộ t trong những truyện cổ tích thần kì sớm nhất ở Việt Nam. Truyện đã giải thích mộ t cách nên thơ, cảm động, với bao tình tiết đậm đà ch ất trữ tình tục ăn trầu- một m ĩ tụ c dân gian, biểu hiện mộ t nét đ ẹp truyền thống lâu đời giàu b ản sắc của nền văn hoá Việt Nam. Đồ ng thời truyện còn ca ngợi tình nghĩa thắm thiết, thu ỷ chung của anh em, vợ chồng trong gia đ ình. Cái ch ết của ba người-hai anh em họ Cao và cô gái họ Lưu- chỉ là một sự hoá thân kì diệu:cau - trầu - vôi. Cây cau to ả bóng chở che cho hòn đ á, cây trầu quấn chặt lấy thân cau. Cũng như trầu với cau ăn với tí vôi làm cho miệng thơm môi đ ỏ. Trầu cau đã gắn bó với lễ hộ i cổ truyền, trong thù tiếp củ a cộng đồng người Việt xa xưa.
  19. 2. Lời bình Dị bản thành văn của truyện "Trầu cau" xuất hiện ở th ế k ỷ 15 trong "Lĩnh Lam chích quái" (Truyện Cây Trầu). Nhưng như thế là rất muộn so với nội dung xã hội được phản ánh trong truyện. Mằc dù các tác giả "Lĩnh Lam chích quái" có cố gắng tô điểm lại thêm đôi nét cho thích hợp với quan điểm đ ạo đức thời phong kiến, dị bản này vẫn bảo lưu được cái cốt lõi rất cổ củ a truyện kể. Đó là mộ t kiểu truyện kể về sự xung đột của hai quan điểm vì hình thái hôn nhân: mộ t thuộc ch ế độ quần hôn (anh em lấy chung mộ t vợ) thời mẫu hệ và mộ t thuộc ch ế độ hôn nhân và gia đình lứ a đôi thời phụ h ệ. Sự xung đột đó phản ánh mộ t bước tiến xã hộ i và th ể h iện thành tâm trong đau khổ giằng xé giữ a tình anh em và tình yêu trai gái ở trong từng nhân vật của truyện. Tâm trạng ấy đưa đến cái chết sầu muộn của cả b a người thật là cảm động. Kiểu truyện này phổ biến khắp vùng Đông Nam Á. Nhưng cũng như ở nhiều nơi khác, truyện cổ tích th ần kì Việt Nam đã lồng đ ề tài xã hội vào đ ề tài thiên nhiên, đã kết thúc bằng đồng nhất các quan hệ tình cảm kia với sự hài hoà củ a thiên nhiên (trầu, cau, vôi) gợi nên niềm thương cảm gắn bó giữa nh ững con người chân thành với nhau, cũng là một nội dung văn hoá lành mạnh của tục ăn trầu ở Việt Nam hàng ngàn năm qua. Cao Huy Đỉnh (Tìm hiểu tiến trình văn hoá dân gian Việt Nam)
  20. Tóm tắt "Tiễn dặn người yêu" là một truyện thơ dài 1846 câu của người Thái ở Tây Bắc nước ta. Truyện kể về mộ t mối tình chung thu ỷ của lứa đôi, trải qua nhiều trắc trở đ ắng cay, cuối cùng cũng đoàn tụ. Cốt truyện như sau: Chàng trai nhà nghèo yêu mộ t cô gái. Hai người có bao k ỷ n iệm đẹp êm đềm và từng gắn bó thề nguyền:"Sông Đà cạn bằng chiếc đũa hãy quên". Anh nhờ ngư ời mối lái, lo lễ vật đến xin ở rể, nhưng bố mẹ cô gái chê anh nghèo, không nhận lời. Cô b ị bố mẹ ép gả cho mộ t người con trai giàu có. Cô kêu van chú thím anh chị em trong nhà, kêu van đến cả chim cu, nhưng ai cũng không giúp được, "d ẫu van xin bố m ẹ cũng không buông, không tha". Người con trai nhà giàu đến ở rể. Người yêu của cô đau khổ , ph ẫn chí bỏ nhà đi buôn, hy vọng trở nên giàu có, sẽ trở về giành lại ngư ời yêu. Trước lúc ra đi, cô trao lại người yêu chiếc đàn môi h ẹn ngày tái ngộ . Cô mòn mỏ i chờ trông mà người yêu đi m ãi vẫn chưa về. Năm tháng đã trôi qua, người con trai nhà giàu đã hết hạn "ở rể ngoài" và được làm "rể trong". Hết hạn ở rể, cô phải về nhà chồng. Cùng lúc ấy, người yêu trở về, anh tiễn chị đ i. Đôi b ạn tình bịn rịn, không muốn rời nhau. Anh tiễn người tình trước lúc chia tay: " K hông lấy được nhau thời trẻ" thì hãy lấ y nhau "khi goá bụa về già". Mấy năm sau, chị b ị nhà chồ ng đuổ i về nhà cha m ẹ đẻ vì theo họ, chị không th ể nào trở thành "vợ h iền, dâu thảo". Rồi cha mẹ chị b án ch ị cho một nhà quan. Chị đau khổ như điên như d ại. Gia đ ình nhà quan đưa chị ra chợ bán với giá bán một cuộn dong. Người mua chị lại chính là người yêu cũ, nay đã trở nên giàu có và đã có vợ. Chị đã
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2