Nguyễn Mạnh Tiến<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
80(04): 37 - 40<br />
<br />
PHÂN BIỆT CHỦ NGỮ VỚI TÂN NGỮ DỰA VÀO KẾT TRỊ<br />
CỦA ĐỘNG TỪ - VỊ NGỮ<br />
Nguyễn Mạnh Tiến*<br />
Khoa Đào tạo Giáo viên THCS, Trường ĐH Sư phạm - ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Dựa vào kết trị và sự hiện thực hóa kết trị hạt nhân của động từ - vị ngữ, bài báo tiến hành phân<br />
biệt chủ ngữ với tân ngữ trong một số kiểu câu có ý kiến tranh luận trong tiếng Việt. Thuộc số này<br />
là: a) Kiểu câu có vị ngữ là động từ nội hướng trung tính (Ví dụ: Trong túi còn tiền, Ở đây thường<br />
xảy ra tai nạn giao thông). b) Kiểu câu có vị ngữ là động từ ngoại hướng trung tính. (Ví dụ: Tôi có<br />
tiền. Y khẽ lắc đầu). c) Kiểu câu có vị ngữ là động từ ngoại hướng được dùng trong ý nghĩa nội<br />
hướng chỉ trạng thái (Ví dụ: Trên bàn đặt một cuốn sách, Trên tường treo một bức tranh).<br />
Từ khóa: Kết trị; động từ; vị ngữ; chủ ngữ; hiện thực hóa<br />
<br />
Trong cách phân tích câu theo quan điểm<br />
truyền thống, vấn đề ranh giới giữa chủ ngữ<br />
và bổ ngữ được coi là một trong những vấn đề<br />
nan giải. Theo cách phân tích câu theo kết trị,<br />
chủ ngữ được coi là một kiểu bổ ngữ (bổ ngữ<br />
chủ thể) nên vấn đề phân biệt chủ ngữ như là<br />
thành phần chính với bổ ngữ như là thành<br />
phần phụ không còn được đặt ra. Tất cả<br />
những từ có ý nghĩa cú pháp chủ thể dù có vị<br />
trước hay sau vị ngữ (vị từ) đều được coi là<br />
chủ ngữ (tức là bổ ngữ chủ thể). Chẳng hạn,<br />
cụm danh từ chỉ chủ thể (một con cú mèo)<br />
trong hai câu: Một con cú mèo từ trong hang<br />
bay ra và Từ trong hang bay ra một con cú<br />
mèo đều là chủ ngữ (bổ ngữ chủ thể). Tuy<br />
nhiên, trong việc xác định chủ ngữ, vấn đề phân<br />
biệt chủ ngữ với tân ngữ (bổ ngữ đối thể hay<br />
khách thể) vẫn được đặt ra vì mặc dù giữa chủ<br />
ngữ và tân ngữ không có sự đối lập về đẳng cấp<br />
(tôn ti) hay về chức năng cú pháp (chúng đều là<br />
thành phần phụ), nhưng giữa chúng vẫn có sự<br />
đối lập về nội dung chức năng, tức là sự đối lập<br />
về ý nghĩa và hình thức cú pháp.*<br />
Như vậy, thực chất của việc phân biệt chủ ngữ<br />
với tân ngữ là phân biệt chúng theo đặc điểm<br />
về ý nghĩa cú pháp và hình thức cú pháp tương<br />
ứng đặc trưng cho mỗi thành phần câu này.<br />
Trong bài viết này, để phân biệt chủ ngữ và<br />
tân ngữ theo ý nghĩa và hình thức cú pháp,<br />
chúng tôi chủ trương dựa vào số lượng và đặc<br />
*<br />
<br />
Tel: 0986.200.477<br />
<br />
tính của kết trị bắt buộc (kết trị hạt nhân)<br />
được hiện thực hóa của động từ - vị ngữ. Khi<br />
dựa vào số lượng kết trị để xác định, phân<br />
biệt chủ ngữ với tân ngữ, chúng ta có thể tìm<br />
thấy những gợi ý bổ ích từ ý kiến của S.D.<br />
Kanelson, S.M. Kibardina và N.I. Tjapkina.<br />
Theo S.M.Kibardina, “nếu ở động từ chỉ có<br />
một tham tố (acgument, diễn tố) duy nhất thì<br />
nó là chủ ngữ của câu không phụ thuộc vào<br />
hình thức biều hiện của nó. Nếu ở động từ có<br />
một vài tham tố thì một trong chúng là chủ<br />
thể, còn lại là đối thể ” [2;22]. S.D. Kanelson<br />
cho rằng “chủ thể (chủ ngữ) của câu là tham<br />
tố (acgument) duy nhất của vị từ một vị trí<br />
hoặc là một trong những tham tố của vị từ<br />
nhiều vị trí thường biểu hiện chức năng chủ<br />
đề” [1;16]. Đối với N.I.Tjapkina thì để phân<br />
biệt chủ ngữ với bổ ngữ (tân ngữ), điều quan<br />
trọng nhất cần quan tâm trước hết là số lượng<br />
kết trị hạt nhân được hiện thực hóa của động<br />
từ - vị ngữ. Bà viết: “Nếu danh từ trong hình<br />
thức cú pháp zero (không được dẫn nối bởi<br />
giới từ hay hậu từ ) hiện thức hóa kết trị hạt<br />
nhân của động từ (chỉ chủ thể) đứng trước kết<br />
cấu động – danh mà ở đó danh từ chỉ đối thể<br />
hành động cũng hiện thực hóa kết trị hạt nhân<br />
của động từ thì câu sẽ là câu song trị và danh<br />
từ đứng sau động từ là bổ ngữ. Nếu danh từ<br />
trong tổ hợp với giới từ (hậu từ) đứng trước<br />
cấu trúc động – danh từ thì câu sẽ là câu đơn<br />
trị với ý nghĩa tồn tại, còn danh từ đứng sau<br />
động từ như là danh từ duy nhất hiện thực hóa<br />
kết trị hạt nhtân của động từ - vị ngữ và<br />
không có bên mình hư từ (giới từ - hậu từ) sẽ<br />
giữ chức năng chủ ngữ (phụ thuộc)”[53;305].<br />
37<br />
<br />
Nguyễn Mạnh Tiến<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Theo chúng tôi, ngoài việc dựa vào số lượng<br />
kết trị cần dựa vào đặc tính của kết trị bắt<br />
buộc (hạt nhân) được hiện thực hóa.<br />
Về thủ pháp, để xác định số lượng và đặc tính<br />
của kết trị bắt buộc được hiện thực hóa bên<br />
động từ - vị ngữ, cần dùng các thủ pháp hình<br />
thức như lược bỏ (để kiểm tra, xác định các<br />
yếu tố bắt buộc), bổ sung (để kiểm tra, xác<br />
định các yếu tố bị tỉnh lược), thay thế (để xác<br />
định yếu tố tương đương về ý nghĩa, chức<br />
năng), cải biến (để xác định hình thức cơ bản).<br />
Vận dụng các nguyên tắc và thủ pháp trên<br />
đây, chúng ta có thể xác định, phân biệt chủ<br />
ngữ, tân ngữ.<br />
Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét một vài trường<br />
hợp tiêu biểu trong số những trường hợp<br />
tranh luận.<br />
Trường hợp 1: Câu có vị ngữ là động từ<br />
trung tính nội hướng.<br />
Đây là những câu có vị ngữ là các động từ với<br />
ý nghĩa tồn tại, xuất hiện, tiêu biến (có, còn,<br />
hết, diễn ra, xảy ra, tan, cháy, đổ, vỡ, gãy,<br />
rơi…). Những câu này thường có hai biến thể<br />
trật tự: danh từ + động từ (N - V) và động từ<br />
+ danh từ (V - N).<br />
Ví dụ: Tiền còn -> Còn tiền.<br />
Tai nạn đã xảy ra -> Đã xảy ra tai nạn.<br />
Vé hết -> Hết vé.<br />
Nhà cháy -> Cháy nhà.<br />
Trong một số trường hợp bên động từ còn có<br />
kết tố chỉ vị trí được cấu tạo bởi tổ hợp giới từ<br />
(thời vị từ) + danh từ. Ví dụ: Trong túi còn<br />
tiền. Ở đây thường xảy ra tai nạn giao thông.<br />
Trong việc phân tích cú pháp, N trong biến thể<br />
V – N được coi là chủ ngữ hoặc bổ ngữ. Theo<br />
quan điểm kết trị, để xác định bản chất của N,<br />
cần dựa vào đặc tính của V. Các động từ - vị<br />
ngữ trong kiểu câu này có đặc điểm sau:<br />
- Về nghĩa, chúng chỉ hoạt động vừa có tính<br />
nội hướng, vừa có tính ngoại hướng, tức là có<br />
đặc điểm trung tính.<br />
- Về kết trị, chúng chỉ có một kiểu kết trị bắt<br />
buộc duy nhất vừa có tính chủ thể vừa có tính<br />
đối thể (khách thể).<br />
- Về khả năng hiện thực hóa kết trị, chúng<br />
cho phép kết tố bắt buộc có thể chiếm hai vị<br />
trí (liền trước và liền sau mình). Mặt khác,<br />
38<br />
<br />
80(04): 37 - 40<br />
<br />
trong một số trường hợp, chúng còn cho phép<br />
xuất hiện đồng thời hai kết tố thuộc cùng một<br />
kiểu kết trị (ý nghĩa). Ví dụ: Xe hỏng lốp, Vịt<br />
còn hai con. Hai kết tố này luôn có khả năng<br />
chuyển về một phía, vì vậy, chúng thuộc một<br />
kiểu kết tố. Ví dụ: Lốp xe hỏng. Hỏng lốp xe<br />
rồi. Hai con vịt vẫn còn. Vẫn còn hai con vịt.<br />
Kết tố bắt buộc bên những động từ này có các<br />
đặc điểm sau:<br />
- Là kiểu kết tố bắt buộc duy nhất bên động từ.<br />
- Vừa có nét nghĩa chủ thể (nét nghĩa đặc trưng<br />
cho chủ ngữ) vừa có nét nghĩa đối thể (khách<br />
thể) là nét nghĩa đặc trưng cho tân ngữ.<br />
- Có khả năng chiếm cả hai vị trí: liền trước<br />
động từ (vị trí đặc trưng của chủ ngữ) và liền<br />
sau động từ (vị trí đặc trưng của tân ngữ).<br />
Áp dụng nguyên tắc và thủ pháp xác định<br />
thành phần câu đã nêu trên đây thì phải cho<br />
rằng kết tố bắt buộc bên các động từ tồn tại,<br />
xuất hiện, tiêu biến trên đây không hoàn toàn<br />
giống chủ ngữ cũng không hoàn toàn giống<br />
tân ngữ mà có đặc tính trung gian giữa hai<br />
thành phần câu này. (Tính trung gian của<br />
chúng do tính trung gian của động từ vị ngữ<br />
quy định).<br />
Tuy nhiên, vì kiểu kết tố này là kiểu kết tố bắt<br />
buộc (diễn tố, tham tố) duy nhất bên động từ<br />
nên theo nguyên tắc trên đây, có thể xếp nó<br />
vào phạm trù chủ ngữ.<br />
Trường hợp 2: Câu có vị ngữ là động từ<br />
trung tính ngoại hướng. Đây là những câu có<br />
vị ngữ là động từ với ý nghĩa sở hữu (có, còn)<br />
và động từ chỉ hoạt động của bộ phận cơ thể<br />
(lắc, gật, nháy, há, nghển, kiễng…). Ví dụ:<br />
Tôi có tiền, Y khẽ lắc đầu.<br />
Trong các công trình nghiên cứu về cú pháp,<br />
ý kiến tranh luận về kiểu câu trên đây thường<br />
tập trung chủ yếu ở danh từ đứng sau động từ.<br />
Một số tác giả coi các danh từ đứng sau động<br />
từ (tiền, đầu) là bổ ngữ trong khi một số tác<br />
giả khác lại coi chúng là chủ ngữ (phụ thuộc)<br />
[45;134-135]. Có sự bất đồng này là do cách<br />
hiểu khác nhau về đặc tính của động từ - vị<br />
ngữ (coi có, lắc là động từ nội hướng hay<br />
ngoại hướng). Như vậy, để xác định tư cách<br />
thành phần câu của các danh từ ở cuối câu,<br />
trước hết, cần làm rõ đặc tính ý nghĩa và kết<br />
trị của động từ - vị ngữ.<br />
<br />
Nguyễn Mạnh Tiến<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Các động từ - vị ngữ trong những câu trên<br />
đây có những đặc điểm đáng chú ý sau:<br />
- Về ý nghĩa: Chúng chỉ hoạt động của chủ thể<br />
hướng tới đối thể (khách thể). Chẳng hạn, có<br />
chỉ hoạt động sở hữu của chủ thể tôi hướng<br />
tới đối thể là tiền đồng thời, lại chỉ sự tồn tại<br />
của tiền. Lắc chỉ hoạt động xuất phát từ chủ<br />
thể y hướng tới đối thể đầu (đối thể không<br />
hẳn ở ngoài chủ thể), đồng thời, lại chỉ trạng<br />
thái của đầu (Trạng thái lắc của đầu chính là<br />
kết quả của hành động điều khiển (lắc) có chủ<br />
ý của chủ thể y ). Như vậy, về nghĩa, các động<br />
từ trên có đặc điểm trung tính (vừa có tính nội<br />
hướng, vừa có tính ngoại hướng).<br />
- Về kết trị: Phù hợp với đặc điểm ý nghĩa đã<br />
chỉ ra, các động từ trên đây có hai kết trị bắt<br />
buộc. Kết trị chủ thể hoạt động (không điển<br />
hình) và kết trị đối thể (cũng không điển<br />
hình), (Ai có? Có gì? Ai lắc? Lắc gì?). Tính<br />
không điển hình của kế trị chủ thể và kết trị<br />
đối thể ở các động từ trên đây thể hiện ở chỗ:<br />
+ Trong cấu trúc Tôi có tiền, tôi vừa là chủ<br />
thể hoạt động sở hữu (kẻ sở hữu), vừa là vị trí<br />
tồn tại của tiền, còn tiền vừa là đối thể sở hữu,<br />
vừa là chủ thể tồn tại. Trong cấu trúc Y khẽ<br />
lắc đầu, Y vừa là chủ thể của hành động lắc (y<br />
điều khiển đầu mình lắc); vừa là kẻ mang<br />
trạng thái lắc (vì trạng thái lắc thuộc về bộ<br />
phận bất khả li đầu cũng đồng thời thuộc về<br />
chỉnh thể y), còn đầu vừa là đối thể chịu sự<br />
điều khiển của hành động lắc xuất phát từ chủ<br />
thể y, vừa là kẻ mang trạng thái lắc. Nét trung<br />
tính của động từ (có, lắc) và nét trung gian<br />
của các kết tố hiện thực hóa kết trị của chúng<br />
được xác nhận qua khả năng chuyển các cấu<br />
trúc trên đây thành các cấu trúc với ý nghĩa<br />
tồn tại hoặc trạng thái (Ví dụ: Tôi có tiền - ><br />
Ở tôi có tiền. Tiền ở tôi có. Y khẽ lắc đầu -><br />
Đầu y khẽ lắc).<br />
Như vậy, các danh từ đứng sau động từ - vị<br />
ngữ trong những câu trên đây (tiền, đầu) có<br />
đặc điểm hỗn hợp của chủ ngữ và tân ngữ.<br />
Tuy nhiên, vì các động từ - vị ngữ trong<br />
những câu trên đây có hai kết trị bắt buộc với<br />
đặc tính đối lập nhau (một có tính chủ thể và<br />
một có tính đối thể), đồng thời, chúng cũng<br />
cho phép hiện thực hóa hai kết trị này (bên<br />
<br />
80(04): 37 - 40<br />
<br />
chúng xuất hiện hai kết tố có nét nghĩa đối<br />
lập: chủ thể và đối thể) nên theo nguyên tắc<br />
nêu trên, có thể xếp các động từ trên đây vào<br />
động từ ngoại hướng (trung tính) và phù hợp<br />
với điều đó, bên chúng sẽ có một kết tố chủ<br />
thể hay chủ ngữ (là danh từ đứng trước) và<br />
một kết tố đối thể hay tân ngữ (là danh từ<br />
đứng sau).<br />
Trường hợp 3: Câu có vị ngữ vốn là động từ<br />
ngoại hướng (chỉ hành động) được dùng trong<br />
ý nghĩa nội hướng (chỉ trạng thái). Ví dụ:<br />
(1) Trên tường treo một bức tranh.<br />
(2) Trước cửa nhà trồng hai cây dừa.<br />
(3) Trong sân buộc hai con ngựa.<br />
(4) Trên bàn đặt một lọ hoa.<br />
Những câu kiểu trên đây có một số đặc điểm<br />
đáng chú ý sau:<br />
Khuôn hình phổ biến của chúng gồm ba thành<br />
tố: trạng ngữ (chu tố) chỉ vị trí, động từ - vị<br />
ngữ và danh từ có vai trò diễn tố. Với khuôn<br />
hình này, kiểu câu trên đây rất giống với câu<br />
tồn tại với vị ngữ là các động từ chỉ sự tồn tại,<br />
xuất hiện, tiêu biến đã được nói đến trên đây.<br />
- Về nội dung, kiểu câu trên đây thiên về ý<br />
nghĩa tồn tại, tức là miêu tả sự tồn tại của sự<br />
vật trong tư thế, trạng thái nhất định ở vị trí<br />
nào đó.<br />
- Các động từ - vị ngữ trong kiểu câu này mặc<br />
dù vốn là động từ ngoại hướng (chúng chỉ<br />
hành động mà kết quả tạo ra ở đối thể một<br />
trạng thái tồn tại nào đó nên còn được gọi là<br />
động từ chỉ hành động lưu kết quả) nhưng<br />
trong cách dùng cụ thể ở kiểu câu này, ý<br />
nghĩa hành động ở chúng rất mờ nhạt trong<br />
khi ý nghĩa trạng thái (tồn tại) lại là ý nghĩa<br />
chủ đạo. Bằng chứng về điều này là: a) Trong<br />
một số trường hợp, chúng có thể được dùng<br />
hoàn toàn với ý nghĩa trạng thái. Ví dụ: Trên<br />
nền trời xanh ngắt treo lơ lửng mấy đám mây<br />
– Đầu súng, trăng treo (Chính Hữu). Trong<br />
những câu vừa dẫn ra, rõ ràng không hề có<br />
hành động treo mà chỉ có trạng thái treo. b)<br />
Có thể thay thế chúng bằng động từ tồn tại có.<br />
Ví dụ: Trên tường có một bức tranh. Trong<br />
sân có hai con ngựa. Trên bàn có một lọ hoa.<br />
Trước cửa nhà có hai cây dừa. c) Không thể<br />
39<br />
<br />
Nguyễn Mạnh Tiến<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
thay thế chúng bằng các động từ chỉ hành<br />
động mà kết quả không tạo ra ở đối thể một<br />
trạng thái tồn tại nào đó mà không làm thay<br />
đổi nghĩa vốn có của câu. Chẳng hạn, không<br />
thể nói: Trước cửa nhà chặt hai cây dừa.<br />
Trong sân đánh hai con ngựa.<br />
- Các danh từ đứng sau động từ cũng có<br />
những đặc điểm đáng chú ý: a) Có thể coi<br />
chúng là diễn tố (tham tố, actant, acgument)<br />
duy nhất bên động từ - vị ngữ vì việc thử<br />
nghiệm bổ sung vào trước động từ một danh<br />
từ chỉ chủ thể làm mất ý nghĩa tồn tại vốn có<br />
của câu và sẽ tạo ra một cấu trúc không tự<br />
nhiên, bình thường. Hơn nữa, trong nhiều<br />
trường hợp, hoàn toàn không thể thực hiện<br />
việc bổ sung như vậy được. Chẳng hạn, trong<br />
các câu: Giữa hai hàm răng trắng đều đặn<br />
của Moan ngậm một nhánh cỏ bị cắn đến nát<br />
(Văn miêu tả, kể chuyện chọn lọc. H.1973,<br />
trang 181); Trên nền trời xanh ngắt treo lơ<br />
lửng mấy đám mây, không thể bổ sung bất cứ<br />
danh từ (diễn tố, tham tố) nào vào trước các<br />
động từ - vị ngữ (ngậm, treo). Điều này<br />
chứng tỏ những câu đang xem xét đều là câu<br />
hoàn chỉnh về ngữ pháp (tức là trong nó<br />
<br />
80(04): 37 - 40<br />
<br />
không có hiện tượng lược bỏ). b) Trước các<br />
danh từ này thường phải có từ chỉ số lượng<br />
(hoặc từ chỉ số lượng kết hợp với từ chỉ đơn<br />
vị). Nói cách khác, các danh từ này không có<br />
vị trí liền sau động từ, vị trí cơ bản (đặc<br />
trưng) của tân ngữ. c) Có thể chuyển các danh<br />
từ này lên vị trí trước động từ là vị trí cơ bản<br />
của chủ ngữ. Ví dụ: Bức tranh treo trên<br />
tường. Hai con ngựa buộc trong sân. Mấy<br />
đám mây treo lơ lửng trên nền trời xanh ngắt.<br />
(L. Tônxtôi. Chiến tranh và hòa bình).<br />
Với những đặc điểm đã chỉ ra, những câu<br />
được xem xét trên đây rõ ràng có đặc điểm<br />
của câu tồn tại đơn trị và danh từ đứng sau<br />
động từ có đặc điểm của chủ ngữ.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. S.D. Kasnelson: Loại hình ngôn ngữ và tư<br />
duy bằng lời nói. L.1972. bằng tiếng Nga.<br />
[2]. S.M.Kibardina: Phạm trù chủ thể, đối thể và<br />
lí thuyết kết trị. (Trong tuyển tập: Phạm trù chủ<br />
thể, đối thể trong các loại hình ngôn ngữ khác<br />
nhau. L.1982; bằng tiếng Nga).<br />
[3]. N.I. Tjapkina: Câu động từ trong các ngôn<br />
ngữ đơn lập (Trong tuyển tập: Các ngôn ngữ<br />
Đông Nam Á. M. 1967; bằng tiếng Nga).<br />
<br />
SUMMARY<br />
PHÂN BIỆT CHỦ NGỮ VỚI TÂN NGỮ DỰA VÀO KẾT TRỊ<br />
CỦA ĐỘNG TỪ - VỊ NGỮ<br />
Nguyen Manh Tien*<br />
College of Education - TNU<br />
<br />
Based on the theory and the realization of the valence of the predicative verb, the paper was<br />
conducted to distinguish the subject from the object in three types o sentence which are being<br />
debated:<br />
a) The preadicate is a neutral internal verb; for example: There is some money in the bag or<br />
Accident often happen here.<br />
b) The preadicate is a extenal internal verb; for example: I have some money or He quietly shook<br />
his head.<br />
c) The preadicate is an extenal internal verb but the verb is used in the sense as a internal state<br />
verb; for example: On the wall hangs a picture or On the table lies a book.<br />
Keywords: Valence, verb, subject, predicate, realize<br />
<br />
*<br />
<br />
Tel: 0986.200.477<br />
<br />
40<br />
<br />