intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phân tích bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến để chứng minh: Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam

Chia sẻ: Lan Si Zhui | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:3

61
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX của nước ta. Thơ ông đậm đà tính dân tộc và mang một phong cách riêng khó lẫn. Có ý kiến cho rằng : “Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ đặc sắc của làng cảnh Việt Nam”. Điều đó thể hiện rất rõ qua những sáng tác về thiên nhiên, nhất là qua chùm thơ: “Thu vịnh”, “Thu điếu”, “Thu ẩm”.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phân tích bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến để chứng minh: Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam

Đề  bài: Phân tích bài thơ  Thu điếu của Nguyễn Khuyến để  chứng minh: Nguyễn  <br /> Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam<br /> Bài làm<br /> Nguyễn Khuyến là nhà thơ  lớn cuối thế  kỉ  XIX, đầu thế  kỉ  XX của nước ta. Thơ  ông <br /> đậm đà tính dân tộc và mang một phong cách riêng khó lẫn. Có ý kiến cho rằng : “Nguyễn <br /> Khuyến là một trong những nhà thơ đặc sắc của làng cảnh Việt Nam”. Điều đó thể hiện <br /> rất rõ qua những sáng tác về thiên nhiên, nhất là qua chùm thơ: “Thu vịnh”, “Thu điếu”,  <br /> “Thu ẩm”.<br /> Đáng lưu ý là các chi tiết trong ba bài thơ  này cũng như  nhiều bài thơ  khác đều rút ra từ <br /> cảnh vật  ở  quê hương tác giả, một vùng đồng chiêm trũng quanh năm ngập nước, trong  <br /> làng vô số ao chuôm với những bờ tre quanh co bao bọc những mái rạ nghèo.<br /> Tình yêu quê hương, sự hiểu biết tường tận về làng quê kết hợp với hồn thơ đằm thắm, <br /> tinh tế  của tác giả  đã sáng tạo nên những vần thơ  bất hủ  về  mùa thu nơi thôn dã của  <br /> đồng bằng Bắc bộ. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến không phải là những hình ảnh  <br /> trừu tượng,  ước lệ  thường thấy trong thơ  cổ  điển mà là những cảnh vật bình dị, thân <br /> quen ở nông thôn. Cái hồn của cảnh vật thấm sâu vào tâm hồn nhà thơ, đồng điệu với tâm  <br /> trạng buồn, trăn trở của ông.<br /> Ba bài thơ, ba cảnh thu khác nhau nhưng hợp lại thành một bức tranh hoàn chỉnh về mùa <br /> thu với những nét đặc trưng nhất.<br /> “Thu vịnh” vẽ nên cảnh thu với bầu trời “xanh ngắt”, cao vời vợi, mấy “cành trúc” cong  <br /> cong, nhè nhẹ  đung đưa trước làn “gió hắt hiu”. Tiết thu se lạnh, sương khói lãng đãng <br /> phủ  trên mặt ao hồ lúc sáng sớm và chiều tối khiến cho khung cảnh thực trở nên huyền  <br /> ảo:<br /> Trời thu xanh ngắt từng cao,<br /> Cần trúc lơ phơ, gió hắt hiu.<br /> Nước biếc trông như tầng khói phủ,<br /> Song thưa để mặc bóng trăng vào.<br /> Nét đẹp của mùa thu tụ  lại  ở  bầu trời “xanh ngắt”,  ở làn “nước biếc” thấp thoáng khói <br /> sương,  ở  ánh trăng thu bàng bạc tràn qua song cửa, gợi nên khung cảnh quen thuộc của <br /> một miền quê yên ả, thanh bình.<br /> Nhà thơ  quan sát rất kĩ chuyển biến tinh tế  của cảnh vật trong những thời điểm khác <br /> nhau của một ngày. Tất cả đều gần gũi, gắn bó và đồng điệu với tâm hồn nhạy cảm của <br /> thi nhân.<br /> Ở  “Thu điếu”, khung cảnh không mở  ra mà thu nhỏ  lại. Ao đã nhỏ, chiếc “thuyền câu”  <br /> càng nhỏ: “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Mọi hoạt động cũng hết sức nhẹ  nhàng:  <br /> “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí. Lá vàng trước gió khẽ  đưa vèo”. Gió heo may chỉ đủ  sức  <br /> bứt lìa những lá tre, lá trúc vàng úa và lá rơi không thành tiếng. Trên cao, “trời xanh ngắt”  <br /> một màu, “tầng mây lơ lửng” như đứng im một chỗ và ông câu với cái dáng ngồi “tựa gối <br /> ôm cần” cũng như cố thu mình cho nhỏ lại. Yên lặng bao trùm lên hết thảy, đến nỗi nghe <br /> được cả  tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Âm thanh ấy càng làm tăng thêm phần  <br /> yên lặng. Ông câu thu mình bất động phải chăng cũng là để  tan hòa vào trời đất xung <br /> quanh.<br /> Mùa thu trong “Thu  ẩm” lại hiện ra với một vẻ đẹp khác. Nhà thơ  uống rượu một mình <br /> dưới trăng. Hình ảnh làng quê biến hiện theo cái nhìn, cái cảm dần dần thấm độ  say của <br /> rượu. Vẫn là “ba gian nhà cỏ”, “ngõ tối”, “làn ao”, “bóng trăng”, “da trời”… thường ngày  <br /> quen nhìn đến mức chẳng có gì đáng chú ý. Không đáng chú ý nhưng đó là những cảnh,  <br /> những vật từ đất này mà ra, thiếu nó thì hình như không còn gì là làng xóm tự nghìn xưa.  <br /> Vậy mà với tâm trạng u buồn có sẵn, lại được men rượu ngấm vào khơi lên, nhà thơ thấy <br /> cảnh vật nhòe dần theo con mắt ngà ngà : “nhà” thì “thấp le te”, “đóm” thêm “lập lòe” , <br /> “bóng trăng” thì “loe”, “mắt”cũng “đỏ hoe” và “người” thì cũng “say nhè”.<br /> Ba gian nhà cỏ thấp le te,<br /> Ngõ tối đêm sâu, đóm lập lòe.<br /> Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,<br /> Làn ao lóng lánh bóng trăng hoe.<br /> Nghĩa là cảnh vật cũng như lảo đảo, chếnh choáng men say. Người say bởi rượu thì ít mà <br /> bởi buồn đau, day dứt và giận mình bất lực trước thời thế thì nhiều.<br /> Gác bút lại không làm thơ nữa, quên mình trong mộng, đắm chìm trong yên lặng hay uống <br /> rượu đến “say nhè” để quên bớt nỗi chua chát đắng cay đến cùng xuất phát từ tâm tư ấy, <br /> tuy nhiên nó vẫn được ẩn giấu ở bên trong.<br /> Nét chung của ba bài thơ  “Thu” đều quy tụ  vào việc tả  cảnh vật thân thuộc, đơn sơ  mà  <br /> dung dị, đáng yêu của làng cảnh Việt Nam. Cái nhìn trên bề  mặt cùng cái hồn đồng quê  <br /> hiện lên rất rõ trong từng câu, từng chữ. Cái tình của nhà thơ cũng thật đằm thắm và tinh <br /> tế.<br /> Trong những năm tháng cáo quan về   ở   ẩn tại quê nhà, chỉ  có thiên nhiên gần gũi, trong <br /> sạch, nên thơ mới giúp Nguyễn Khuyến khuây khỏa đôi lúc trong khi nỗi buồn thời cuộc <br /> thường xuyên đè nặng trái tim ông.<br /> Ba bài thơ “Thu vịnh”, “Thu điếu”, “Thu  ẩm” tạo thành một chùm thơ thu tuyệt đẹp, thể <br /> hiện nét tài hoa của ngòi bút cụ  Tam Nguyên, tiêu biểu cho hồn thơ  dung dị, thẳm sâu, <br /> đầy chất trữ tình. Bạn đọc Việt Nam yêu thơ Nguyễn Khuyến, yêu quê hương một phần  <br /> là từ những bài thơ đó.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2