Phân tích đối chiếu ngôn ngữ trong việc dạy và học tiếng<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Phân tích đối chiếu ngôn ngữ<br />
trong việc dạy và học tiếng<br />
Bởi:<br />
TS Đào Hồng Thu<br />
<br />
<br />
Dẫn nhập<br />
<br />
Theo các nghiên cứu ban đầu của chúng tôi, cần thiết phải có các tài liệu ngữ pháp đối<br />
với các văn bản mang đặc tính chuyên ngành dưới dạng đối chiếu giữa tiếng mẹ đẻ và<br />
ngoại ngữ được học hoặc nghiên cứu nhằm giúp người học hoặc nghiên cứu tiếp nhận<br />
một cách nhanh chóng các kiến thức tiên tiến bằng ngoại ngữ. Hơn thế nữa, trên cơ sở<br />
ngữ pháp được học, người học có thể nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn bằng<br />
chính tiếng mẹ đẻ của mình và làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc.<br />
<br />
Thực tế lịch sử phát triển của tri thức khoa học thể hiện một quá trình liên tục và có tính<br />
kế thừa. Nội dung của các thuật ngữ về nghiên cứu đối chiếu cũng được xác định trong<br />
quá trình phát triển biện chứng lịch sử đó.<br />
<br />
Thuật ngữ "đối chiếu" thường được dùng để chỉ phương pháp hoặc phân ngành nghiên<br />
cứu lấy đối tượng chủ yếu là hai hay nhiều ngôn ngữ. Mục đích của nghiên cứu đối<br />
chiếu ngôn ngữ là làm sáng tỏ những nét tương đồng và không tương đồng hoặc chỉ làm<br />
sáng tỏ những nét không tương đồng của hai hay nhiều ngôn ngữ. Nguyên tắc nghiên<br />
cứu chủ yếu của đối chiếu ngôn ngữ là nguyên tắc đồng đại.<br />
<br />
Trong các tài liệu bằng tiếng Nga, thuật ngữ "đối chiếu ngôn ngữ" (phương pháp đối<br />
chiếu, ngôn ngữ học đối chiếu) được đưa vào sử dụng khá sớm bởi các nhà ngôn ngữ học<br />
như E.D.Polivanov (1933), V.D.Arakin (1946), V.H.Jaxeva (1960), V.G.Gak (1961),<br />
N.P.Fedorov (1961), O.C.Akanova (1966) và v.v. Từ 1970 đến nay, trong ngôn ngữ học<br />
hiện đại, thuật ngữ được sử dụng nhiều hơn cả là "ngôn ngữ học đối chiếu" (contrastive<br />
linguistics.<br />
<br />
Trong các tài liệu bằng tiếng Anh, lúc đầu được phổ biến là thuật ngữ "so sánh"<br />
(comparative) với nội dung đối chiếu. Từ năm 1960 trở về đây, thuật ngữ "ngôn ngữ<br />
học đối chiếu" (contrastive linguistics) bắt đầu được sử dụng phổ biến, dần dần thay thế<br />
cho thuật ngữ "so sánh" (comparative). Tuy nhiên, trong ngôn ngữ học Anh, các thuật<br />
ngữ truyền thống được dùng tương đối lâu dài. Ví du, trong các công trình của Haliday,<br />
<br />
<br />
1/7<br />
Phân tích đối chiếu ngôn ngữ trong việc dạy và học tiếng<br />
<br />
<br />
Mackintơn, Tơrevưn và một số tác giả khác, thuật ngữ "so sánh" (comparative) vẫn được<br />
sử dụng đến năm 1961, còn Elie đã dùng thuật ngữ "comparative" với nghĩa đối chiếu<br />
cho đến năm 1966.<br />
<br />
Theo từ điển nhiều tập Oxford (1933), tính từ "comparative" được định nghĩa căn cứ<br />
vào cách dùng của từ này khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Nội dung nghĩa thường<br />
nhấn mạnh đối chiếu những điểm khác nhau giữa hai hoặc hơn hai đối tượng được khảo<br />
sát, theo thời gian, thuật ngữ "đối chiếu" được sử dụng với nghĩa mở rộng để chỉ đúng<br />
hiện thực nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ.<br />
<br />
Trong các tài liệu bằng tiếng Pháp, việc sử dụng thuật ngữ "đối chiếu" cũng diễn ra<br />
tương tự: thời kì đầu sử dụng thuật ngữ "comparée" và các từ phái sinh của nó. Sau<br />
đó, thuật ngữ "contrastive" được thay thế cho "comparative" mang nghĩa đối chiếu và<br />
ngày càng được sử dụng rộng rãi (Potie 1971, Duboa 1973, Gato 1974, Pioro 1977<br />
và v.v.). Hiện nay, trong các tài liệu bằng tiếng Pháp thường sử dụng phổ biến thuật<br />
ngữ "linguistique contrastive" (hoặc differentielle). Tương ứng với thuật ngữ này, trong<br />
các tài liệu tiếng Nga thường sử dụng "контративная лингвистика" của các tác giả<br />
V.G.Gak và A.B.Fedorov.<br />
<br />
Đối chiếu các ngôn ngữ<br />
<br />
Đối chiếu các ngôn ngữ cho khả năng xác định không chỉ các dữ kiện và hiện tượng có<br />
các chức năng tương tự trong các ngôn ngữ được đối chiếu, mà còn xác định vị trí của<br />
chúng trong các hệ thống theo chức năng. Ví dụ, khi đề cập đến hệ thống các phương<br />
tiện mang nghĩa chỉ hành động, có thể nói rằng trong tiếng Anh tiếp tố -er chắc chắn<br />
là hạt nhân của hệ thống chức năng các phương tiện tạo ra danh từ chỉ vật mang hành<br />
động, hơn nữa, tiếp tố này có khả năng to lớn trong việc tạo lập các danh từ trên cơ sở<br />
một động từ bất kì. Trong tiếng Việt, nhân tố được dùng để tạo từ chỉ người hành động<br />
thường là từ riêng biệt và được gọi là từ tố, ví dụ "viên" trong các từ nhân viên, sinh<br />
viên, viên chức và v.v.<br />
<br />
Nghiên cứu đối chiếu ngữ pháp trong văn bản khoa học giải quyết các quan hệ tương<br />
đồng và không tương đồng về cấu trúc và hoạt động của ngôn ngữ khoa học. Trong phân<br />
tích đối chiếu ngôn ngữ, các hiện tượng ngôn ngữ càng giống nhau thì càng có nhiều<br />
tương đồng về cấu trúc và hoạt động của ngôn ngữ được đối chiếu. Ví dụ, khi đối chiếu<br />
tiếng Việt với tiếng Hán hoặc với tiếng Thái thì mức độ giống nhau nhiều hơn là đối<br />
chiếu tiếng Việt với tiếng Anh, tiếng Nga hoặc tiếng Bun. Trong trường hợp đối chiếu<br />
các ngôn ngữ rất khác nhau về loại hình thì sẽ tìm thấy nhiều điểm khác nhau về cấu trúc<br />
và hoạt động của ngôn ngữ. Sự khác nhau này có tính hệ thống, khái quát (thanh điệu<br />
trong tiếng Việt, cách trong tiếng Nga v.v.). Nếu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Anh thì<br />
sẽ tìm thấy nhiều điểm giống nhau hơn trong ngôn ngữ (cùng là các ngôn ngữ phân tích<br />
tính, trật tự câu rõ ràng v.v.). Trong các ngôn ngữ khi đối chiếu luôn tồn tại sự không<br />
<br />
<br />
<br />
2/7<br />
Phân tích đối chiếu ngôn ngữ trong việc dạy và học tiếng<br />
<br />
<br />
tương đồng về ngữ pháp, ngữ nghĩa hoặc tuyến dẫn xuất nghĩa phái sinh. Ví dụ, từ loại<br />
tiếng Việt và tiếng Anh có sự không tương đồng về số lượng và loại hình.<br />
<br />
Sự không tương đồng về nghĩa thể hiện cả ở khái niệm ngữ nghĩa của từ, ví dụ, các sắc<br />
thái về mầu sắc là không như nhau trong cả hai ngôn ngữ Anh và Việt: từ blue tiếng<br />
Anh được chuyển dịch sang tiếng Việt với hai nghĩa xanh lơ và xanh nước biển. Mầu<br />
sắc trong tiếng Việt được thể hiện bằng các từ theo mô hình hợp nghĩa, phụ nghĩa và láy<br />
lại để tạo ra hàng loạt đơn vị ngôn ngữ với sắc thái chi tiết hơn so với từ chỉ mầu sắc<br />
trong tiếng Anh, ví dụ: xanh - xanh xanh, xanh nhạt, xanh thắm, xanh da trời, xanh nõn<br />
chuối, xanh nước biển, xanh biếc (biêng biếc), xanh lè, xanh lục, xanh thổ cẩm, xanh<br />
cẩm thạch, xanh rêu...<br />
<br />
Trong hệ thống ngữ pháp tiếng Anh hiện đại không tồn tại phạm trù cách và giống,<br />
không có khái niệm hai động từ đối lập nhau: chưa hoàn thành thể / hoàn thành thể, ví<br />
dụ như trong tiếng Nga. Phần lớn các cụm từ tiếng Anh được thể hiện ở dạng cụm từ<br />
chính phụ, chính xác hơn, ở dạng cụm từ cố định hoặc thành ngữ (phrases). Các cụm từ<br />
này được tạo thành trên cơ sở liên kết phụ thuộc, bao gồm hai thành tố: thành tố chính<br />
(hạt nhân) - kernel và thành tố phụ (bổ sung từ) - adjunct. Cũng như tiếng Việt, trật tự<br />
các thành phần của cụm từ tiếng Anh có ý nghĩa chủ yếu: một danh từ bất kì đứng trước<br />
một danh từ khác đều thực hiện chức năng định ngữ,<br />
<br />
An air-flow meter - khí cụ đo lưu lượng không khí<br />
<br />
Anticorrosive paint - sơn chống gỉ<br />
<br />
Liên kết chính phụ không chỉ được thể hiện ở cụm danh từ, mà còn ở cụm động từ (to<br />
work hard, to fly a plane, to decide to stay, to begin singing, to wait for news...), cụm<br />
tính từ (very difficult, proud of his son,...).<br />
<br />
Có thể thấy rõ rằng trong tiếng Việt và trong tiếng Anh cấu trúc câu cùng tuân thủ một<br />
trật tự là C - P - O. Thành phần chính của cấu trúc câu trong cả hai ngôn ngữ Việt và<br />
Anh là chủ ngữ S và vị ngữ V, hạt nhân của cấu trúc câu là vị ngữ V. Vị ngữ là thành<br />
phần thiết yếu, không thể thiếu trong cấu trúc một câu bất kì, bởi vì nếu thiếu vị ngữ thì<br />
không tồn tại tính vị ngữ của cấu trúc câu, nghĩa là không tồn tại sự biểu thị các quan hệ<br />
thông báo đối với hiện thực. Chủ ngữ cũng là thành phần cần thiết trong phần lớn các<br />
cấu trúc câu, bởi vì nó chỉ nghĩa sự vật của lời nói hoặc văn bản tạo nên cơ sở nội dung<br />
trần thuật, và do đó, tạo nên nội dung giao tiếp. Câu có cấu trúc gồm cả chủ ngữ và vị<br />
ngữ thì được gọi là câu hai thành phần.<br />
<br />
Trong tiếng Việt và tiếng Anh, vị trí các thành phần của câu đều có vai trò quan trọng<br />
trong cấu trúc câu. Việc thay đổi vị trí của vị ngữ (vật mang thông tin chủ yếu của câu)<br />
đối với chủ ngữ, nghĩa là thay đổi trật tự từ trong cấu trúc câu thường dẫn đến việc nội<br />
dung thông báo của câu bị thay đổi, hơn nữa, có thể dẫn đến sự thay đổi cả hình thức<br />
<br />
<br />
3/7<br />
Phân tích đối chiếu ngôn ngữ trong việc dạy và học tiếng<br />
<br />
<br />
cấu trúc câu và sắc thái của nó. Vị trí của vị ngữ đối với chủ ngữ có thể rất đa dạng ở<br />
các ngôn ngữ khác nhau. Phần đối chiếu này không hạn chế trong phạm vi hai ngôn ngữ<br />
Việt - Anh. Nghiên cứu có thể được mở rộng hơn đối với các ngôn ngữ khác để trên cơ<br />
sở này người học có thể phát triển nghiên cứu đối chiếu không chỉ hai ngôn ngữ Việt -<br />
Anh, mà còn đối với các ngôn ngữ khác.<br />
<br />
Phạm vi đối chiếu có thể được phân định theo các nguyên tắc sau:<br />
<br />
- Làm sáng tỏ đặc điểm thể hiện các phạm trù ở ngôn ngữ được nghiên cứu như thời,<br />
thể, xác định, không xác định, phạm trù giống, số, cách, đa nghĩa, đồng âm, đồng nghĩa,<br />
trái nghĩa v.v.<br />
<br />
- Đối chiếu các đặc điểm cấu tạo âm vị, hình vị, từ loại, cú pháp v.v.<br />
<br />
- Đối chiếu các đặc điểm hoạt động, hành chức của các hiện tượng, phạm trù ngôn ngữ<br />
trong giới hạn các cấp độ.<br />
<br />
- Đối chiếu các phong cách chức năng.<br />
<br />
- Đối chiếu tiến trình phát triển nhằm làm sáng tỏ các quy luật phát triển và quá trình<br />
biến đổi xảy ra trong nội bộ các ngôn ngữ được nghiên cứu.<br />
<br />
Các phương thức phân tích đối chiếu<br />
<br />
Phương thức phân tích đối chiếu cấu trúc thường bắt đầu bằng đối chiếu đơn vị, thành<br />
phần và cuối cùng là đối chiếu hệ thống. Nghiên cứu đối chiếu này được thể hiện ở chỗ,<br />
qua giao tiếp, khả năng vật chất của các ngôn ngữ được sử dụng là không như nhau:<br />
trong tiếng Anh, Nga, Pháp đều có trọng âm từ, song chức năng của trọng âm trong tiếng<br />
Nga và Pháp nhiều hơn do cùng loại hình, trọng âm tiếng Việt được thể hiện bằng thanh<br />
điệu. Nếu đối chiếu hai ngôn ngữ Việt - Anh, có thể thấy rằng trong tiếng Việt và tiếng<br />
Anh có nhiều điểm giống nhau về trọng âm đơn do cùng ngôn ngữ phân tích tính. Một<br />
ví dụ khác, trong các ngôn ngữ có cùng một hiện tượng mà khả năng hoàn thành chức<br />
năng, phạm vi hoạt động không giống nhau như khu biệt âm vị dài ngắn trong tiếng Anh<br />
và tiếng Việt: a (dài/ngắn), i (dài/ngắn) có ý nghĩa âm vị học trong tiếng Anh, còn trong<br />
tiếng Việt thì không có hiện tượng ngôn ngữ này.<br />
<br />
Phương thức phân tích đối chiếu hoạt động của ngôn ngữ trong giao tiếp là phương thức<br />
được sử dụng để xác định tính phổ cập hoặc hạn chế của các hiện tượng ngôn ngữ hoặc<br />
của các sự kiện ngôn ngữ tồn tại trong các ngôn ngữ được đối chiếu. Phương thức này<br />
cho thấy hoạt động ngôn ngữ được thể hiện rõ nét ở ngôn ngữ này, nhưng không được<br />
thể hiện rõ ở ngôn ngữ khác. Ví dụ, xét trên bình diện số lượng từ vay mượn trong tiếng<br />
Việt và tiếng Anh thì tiếng Việt chịu sự vay mượn từ nhiều hơn tiếng Anh, hơn nữa,<br />
tiếng Việt vay mượn cả các từ tiếng Anh. Ngoài ra, tiếng Việt còn vay mượn từ của<br />
<br />
<br />
4/7<br />
Phân tích đối chiếu ngôn ngữ trong việc dạy và học tiếng<br />
<br />
<br />
tiếng Hán, Pháp và Nga. Tiếng Anh vay mượn từ chủ yếu từ tiếng Pháp và Latin (ngôn<br />
ngữ dòng Ấn - Âu). Có sự hoạt động của các từ vay mượn trong các ngôn ngữ Việt và<br />
Anh là do hệ quả của các quan hệ loại hình và tiếp xúc khu vực, văn hóa và lịch sử<br />
quy định. Một ví dụ khác, trật tự từ trong nhiều ngôn ngữ thường có các đặc điểm khác<br />
nhau. Trong tiếng Nga, trật tự từ chặt chẽ có phạm vi hoạt động rất hạn chế, trong khi<br />
đó, phạm vi hoạt động của trật tự từ trong tiếng Việt, tiếng Anh lại rất lớn do mang đặc<br />
trưng của các ngôn ngữ phân tích tính. Hơn nữa, trật tự từ trong tiếng Việt được thực<br />
hiện một cách rất chặt chẽ và nghiêm ngặt do chịu ảnh hưởng của một ngôn ngữ đơn lập<br />
(không biến hình).<br />
<br />
Phương thức phân tích đối chiếu phát triển được sử dụng để xác định đặc điểm và hướng<br />
phát triển của các ngôn ngữ. Sự phát triển ngôn ngữ thể hiện ở các thay đổi cấu trúc<br />
nội bộ, phạm vi hoạt động, chức năng của nó trong các mối quan hệ tương ứng với tiến<br />
trình phát triển xã hội và lịch sử. Ví dụ, khi so sánh tiếng Việt và tiếng Anh trên bình<br />
diện phát triển thì thấy tiếng Việt ngày nay không còn được hoàn toàn như tiếng Nôm<br />
trước đây về cấu tạo từ và câu. Trong khi đó, tiếng Anh hầu như không thay đổi. Qua<br />
đối chiếu có thể thấy các ngôn ngữ đã trải qua các giai đoạn phát triển nào. Trên cơ sở<br />
này có thể phân loại các đặc điểm cấu trúc đồng đại của ngôn ngữ trong các mối quan<br />
hệ đối chiếu.<br />
<br />
Vấn đề các đặc điểm ngôn ngữ luôn gắn liền với vấn đề về mục đích dạy và học ngoại<br />
ngữ như ngôn ngữ thứ hai trong quá trình học tập và giảng dạy. Vấn đề chủ yếu ở đây là<br />
hoạt động lời nói bằng ngoại ngữ của người học phải đạt kết quả khả quan.<br />
<br />
Phương pháp tối ưu cho việc học ngoại ngữ là quá trình tiếp nhận các cấu trúc ngữ pháp<br />
bằng tiếng mẹ đẻ có thể diễn ra ở người học một cách tự động và chuyển dịch được sang<br />
ngoại ngữ. Thông thường, khi học ngoại ngữ luôn diễn ra quá trình phân tích đối chiếu ít<br />
nhất là hai ngôn ngữ : tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ được học, và ngược lại, ngoại ngữ được<br />
học và tiếng mẹ đẻ. L.V.Serba đã nêu một luận điểm quan trọng là không chỉ đối chiếu<br />
tiếng nước ngoài với tiếng mẹ đẻ, mà còn đối chiếu tiếng mẹ đẻ với tiếng nước ngoài.<br />
Bằng phương thức này, việc học ngoại ngữ là phương tiện tối ưu để hiểu sâu sắc thêm<br />
tiếng mẹ đẻ. Nhưng nếu ý nghĩa của ngoại ngữ là to lớn đối với bản ngữ, thì hiển nhiên<br />
là bản ngữ cũng có ý nghĩa trọng đại đối với việc học ngoại ngữ. Xuất phát từ những lợi<br />
ích của đối chiếu bản ngữ và ngoại ngữ vì các mục đích học tập, tồn tại một số nguyên<br />
tắc chung cho việc đối chiếu như vậy.<br />
<br />
Một số vấn đề phân tích đối chiếu trong tiếng Việt và tiếng Anh thuộc lĩnh<br />
vực khoa học<br />
<br />
Đối chiếu ngôn ngữ không phân biệt không gian và biên giới của các ngôn ngữ được đối<br />
chiếu. Các ngôn ngữ khi đối chiếu có thể là ngôn ngữ của các dân tộc liền kề, trên cùng<br />
lãnh thổ hoặc ở các vùng, miền rất khác nhau trên thế giới.<br />
<br />
<br />
<br />
5/7<br />
Phân tích đối chiếu ngôn ngữ trong việc dạy và học tiếng<br />
<br />
<br />
Tiếng Việt khoa học chỉ bắt đầu phát triển khi đất nước vào giai đoạn mở cửa và thực sự<br />
phát triển khi Việt Nam tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập<br />
toàn cầu. Quá trình hội nhập đòi hỏi phát triển ngôn ngữ (ngoại ngữ và bản ngữ) để giao<br />
lưu quốc tế và chuyển giao công nghệ.<br />
<br />
Theo nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù việc định hướng cho giáo dục ngôn ngữ thuộc<br />
lĩnh vực khoa học còn chưa rõ nét, song cũng đã có những báo cáo khoa học tại các hội<br />
nghị, hội thảo khoa học về ngôn ngữ như các cuộc hội thảo "Ngữ học trẻ" 2002, 2003,<br />
2004, Hội thảo đào tạo Sau đại học - ĐHNN - ĐHQG Hà Nội 2002, các cuộc hội thảo<br />
về Ngôn ngữ và Văn hóa tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh v.v. Chúng tôi thấy rằng<br />
trong vài năm trở lại đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về ngôn ngữ khoa học được<br />
trình bày dưới dạng các bài báo cáo khoa học, luận văn cao học, luận án tiến sĩ.<br />
<br />
Như vậy, việc nghiên cứu ngôn ngữ Việt thuộc lĩnh vực khoa học đã bắt đầu có bước<br />
khởi xướng đáng ghi nhận. Các tác phẩm và tài liệu khoa học được dịch sang tiếng<br />
Việt từ các ngoại ngữ khác nhau đã bắt đầu được các nhà ngôn ngữ học đề cập đến<br />
khi phân tích đối chiếu ngôn ngữ. Chúng tôi đã tiến hành khảo cứu các cấu trúc câu<br />
thường được sử dụng trong văn bản khoa học được dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt, cụ<br />
thể là văn bản dịch "Giới thiệu chung về lí thuyết viễn thông" (General Introduction of<br />
Telecommunication Theory) của nhà xuất bản Thanh niên. Trong 162 trang được dịch<br />
sang tiếng Việt, có 1743 câu được sử dụng, trong đó:<br />
<br />
- Câu đơn: 1279, chiếm 73,38%<br />
<br />
- Câu phức: 161, chiếm 9,24%<br />
<br />
- Câu ghép: 303, chiếm 17,38%.<br />
<br />
Một đặc điểm cần được lưu ý là do chịu ảnh hưởng của việc sử dụng câu trong văn bản<br />
khoa học nước ngoài như Anh, Nga, Pháp, v.v. nên trong những năm gần đây xuất hiện<br />
xu hướng sử dụng cấu trúc bị động trong văn bản khoa học tiếng Việt, đặc biệt là các<br />
văn bản dịch, điều mà trước đây hoàn toàn không phổ biến. Các cấu trúc bị động chiếm<br />
tỉ lệ rất cao trong toàn bộ văn bản. Trong số 669 cấu trúc câu bị động được chúng tôi<br />
khảo sát, các cấu trúc bị động đơn chiếm đa phần:<br />
<br />
- Cấu trúc bị động đơn: 537, chiếm 80,27%<br />
<br />
- Cấu trúc bị động phức: 40, chiếm 5,98%<br />
<br />
- Cấu trúc bị động ghép: 92, chiếm 13,75%<br />
<br />
- Cấu trúc vô nhân xưng chiếm tỉ lệ tương xứng: 118.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
6/7<br />
Phân tích đối chiếu ngôn ngữ trong việc dạy và học tiếng<br />
<br />
<br />
Trong quá trình tiếp ngữ pháp văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học không<br />
thể thiếu sự tham gia của khoa học đối chiếu các ngôn ngữ. Đối chiếu là phương pháp<br />
nghiên cứu cơ bản của ngôn ngữ học được sử dụng để nhận biết và phân biệt tương<br />
đương các cấu trúc, các hoạt động và sự phát triển của ngôn ngữ. Điều này đặc biệt quan<br />
trọng đối với việc dịch văn bản, bởi vì nếu không nắm vững được các nguyên tắc đối<br />
chiếu ngôn ngữ, người dịch dễ dịch theo cảm tính, đặc biệt đối với các trường hợp khi<br />
gặp cấu trúc cú pháp phức tạp.<br />
<br />
Hiện nay tồn tại và phát triển phương pháp đối chiếu theo hai chiều. Khi đối chiếu ngôn<br />
ngữ hai chiều, luôn xuất hiện các đặc điểm của cả hai ngôn ngữ được đối chiếu. Nguyên<br />
tắc đối chiếu hai chiều cho phép phát hiện toàn bộ các giao thoa ngôn ngữ, làm sáng tỏ<br />
các dấu hiệu ngôn ngữ chưa được phát hiện khi đối chiếu một chiều của ngôn ngữ thứ<br />
nhất, cũng như thứ hai. Nguyên tắc này đòi hỏi đối chiếu ngôn ngữ cần được tiến hành<br />
trên cơ sở cùng một phong cách chức năng. Các văn bản được phân tích đối chiếu cần<br />
phải thuộc về cùng thể loại phong cách chức năng. Các văn bản được đối chiếu theo<br />
phương pháp này là văn bản khoa học công nghệ viễn thông.<br />
<br />
Trước khi tiến hành đối chiếu ngôn ngữ, cần xác định các thuật ngữ sao cho chúng biểu<br />
đạt một cách tương đương các hiện tượng được đối chiếu trong cả hai ngôn ngữ, nghĩa<br />
là cần tạo lập các đặc điểm tương ứng chung để đối chiếu các hiện tượng ngôn ngữ. Các<br />
ngôn ngữ được mô tả bằng thuật ngữ có nội dung hàm chứa khác nhau thì không thể tiến<br />
hành đối chiếu với nhau được.<br />
<br />
Trong phần đối chiếu dưới đây chúng tôi trình bày các điểm không tương đồng về cấu<br />
trúc và ngữ nghĩa trong câu dịch so với các cấu trúc câu trong văn bản tiếng Anh và các<br />
lỗi mắc phải trong văn bản tiếng Việt.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
7/7<br />