intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phân tích tính nghệ thuật trong Hai đứa Trẻ của Thạch Lam

Chia sẻ: Lan Si Zhui | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:5

64
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mỗi lần đọc Thạch Lam trong tâm trí tôi lại hiện lên hình ảnh cánh cổng gỗ của khu vườn êm ả được miêu tả trong truyện Dưới bóng hoàng lan. Phía ngoài cánh cổng là một thế giới ồn ào, phồn tạp, nắng nôi, nhưng bên trong là bầu không khí mát rười rượi thoảng mùi hương thật thích hợp cho tâm trạng suy tư và cảm nhận, lắng nghe những điều tế nhị của sự sống. Văn Thạch Lam cũng như khu vườn bên trong cánh cổng ấy, ít sự kiện, hành động nhưng đầy ắp những bâng khuâng. Nó cho ta cơ hội hiểu thấu sâu xa những cuộc đời giản dị, qua sự chiêm nghiệm lặng lẽ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phân tích tính nghệ thuật trong Hai đứa Trẻ của Thạch Lam

Đề bài: Phân tích tính nghệ thuật trong Hai đứa Trẻ của Thạch Lam<br /> Bài làm<br /> Mỗi lần đọc Thạch Lam trong tâm trí tôi lại hiện lên hình  ảnh cánh cổng gỗ  của khu  <br /> vườn êm ả được miêu tả trong truyện Dưới bóng hoàng lan. Phía ngoài cánh cổng là một  <br /> thế  giới  ồn ào, phồn tạp, nắng nôi, nhưng bên trong là bầu không khí mát rười rượi  <br /> thoảng mùi hương thật thích hợp cho tâm trạng suy tư  và cảm nhận, lắng nghe những  <br /> điều tế nhị của sự sống.<br /> Văn Thạch Lam cũng như khu vườn bên trong cánh cổng ấy, ít sự kiện, hành động nhưng  <br /> đầy  ắp những bâng khuâng. Nó cho ta cơ  hội hiểu thấu sâu xa những cuộc đời giản dị,  <br /> qua sự chiêm nghiệm lặng lẽ.<br /> "Hai đứa trẻ" là truyện ngắn rất Thạch Lam. Chất liệu của nó vẫn là cuộc sống tù đọng, <br /> mòn mỏi nơi những phố huyện nghèo nàn xơ xác. Nhưng từ thứ chất liệu rất "văn xuôi" <br /> đó, nhà văn đã đưa lại cho chúng ta những trang viết hết sức thi vị, không có gì chung với  <br /> sự thi vị hoá cuộc sống một cách tầm thường. Thi vị (hay chất thơ) của tác phẩm gắn liền <br /> với dụng công của nhà văn muốn khêu gợi trí tưởng tượng nơi người đọc và đánh động <br /> khả  năng cảm nhận của các giác quan bằng lối hành văn hoặc cách tổ  chức lời văn khá <br /> riêng biệt. Đây chính là chiều sâu của một nghịch lý tưởng chừng khó giải thích: viết về <br /> các sự vật, sự việc tầm thường, đơn điệu mà văn vẫn lôi cuốn đến thế. Điều này phá vỡ <br /> một ngộ  nhận (chí ít là của người đọc) về  tính quyết định của vật liệu. Thực ra nghệ <br /> thuật chính là một sự chế ngự vật liệu, vật liệu thông qua những phương thức, phương <br /> tiện diễn tả đặc thù.<br /> Câu văn của Thạch Lam tả rất sát sự thật, sự việc. Nhưng điều đó không có nghĩa ở đây <br /> chỉ có sự khớp đúng đến nghẹt thở. Tiết điệu buông chùng của câu mở  đầu thiên truyện <br /> chứng tỏ  điều đó: "Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một <br /> vang xa để  gọi buổi chiều". Cái lõi ngữ  pháp của câu chỉ  được nhận ra ở  vế  sau, nhưng <br /> sự cảm nhận của người đọc đã thực sự được khởi hành từ trước cùng cụm danh từ được  <br /> đảo lên trên. Trong câu này cái đáng chú ý còn có từ  "gọi". Nó xác lập một tương quan <br /> mới (dù vô hình) giữa các sự vật mà từ báo hiệu chẳng hạn không nói lên được. Dĩ nhiên  <br /> câu văn vừa nêu không chỉ  Thạch Lam mới viết nổi. Nhưng điều quan trọng là nó xuất  <br /> hiện có quy luật chứ không ngẫu nhiên, nhằm nhấn mạnh một điều gì khác hơn những sự <br /> kiện nổi trên bề  mặt. Xin chú ý thêm hai câu văn khác đứng kề  nhau: "Chiều, chiều rồi.  <br /> Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ <br /> đưa vào". Trong câu đầu dường như thừa một chữ "chiều", xét theo góc độ thông tin bình  <br /> thường. Nhưng thực ra  ở đây còn có thông tin về tâm trạng mà riêng hai chữ "chiều rồi" <br /> chưa truyền tải được (do thiếu vắng nhịp điệu). Mặt khác, nếu không có chữ chiều "thừa <br /> ra"  ấy, sự  buông lơi êm đềm của câu sau sẽ  ít có hiệu quả. Tính chất thừa tiếp hô  ứng  <br /> của mạch văn cũng thiếu trọn vẹn. Rõ ràng đọc giả  đang bị  dẫn dắt bởi văn chứ  không  <br /> phải cái gì khác.<br /> Suốt truyện ngắn, nhà văn nhiều lần nhấn mạnh sự "ngây thơ" của hai nhân vật chị  em  <br /> qua các nhận xét như: "Liên không hiểu sao...", "Liên tưởng là...", "tâm hồn Liên... có  <br /> những cảm giác mơ hồ không hiểu", "vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ <br /> như đầy bí mật và xa lạ...","Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết...". <br /> Rất có thể nhân vật của truyện "không biết", không hiểu thật, nhưng điều đáng nói là tác <br /> giả đã mượn chính tâm trạng nhân vật để ám thị người đọc. Các phủ định từ  "không" đã  <br /> "bẫy" họ sa vào một không khí bất định, mông lung. Độc giả cứ ngỡ mình đang cùng nhà <br /> văn theo dõi nhân vật, nhưng thật sự họ đã bị lây nhiễm chính cảm giác của nhân vật và <br /> không thôi thao thức. Càng cố gắng hiểu những điều nhân vật "không hiểu" để phân biệt  <br /> với nó, anh ta càng rơi sâu vào không khí của truyện đến nỗi mất cả đường ra, trong khi <br /> tác giả vẫn không ngừng tả, kể để trói anh ta chặt hơn vào câu chuyện mà ông "bịa" ra.<br /> Truyện tuy rất ít hành động nhưng vẫn thấp thoáng những lời đối thoại. Chúng được <br /> phân bố  rất đều trong tác phẩm và xuất hiện giữa những đoạn miêu tả  cảnh vật ­ một  <br /> khung cảnh lặng lẽ, êm đềm, có phần hiu hắt, buồn bã. Chính không khí ấy quy định sắc  <br /> điệu của lời đối thoại, trong khi bản thân lời đối thoại cũng mang tính chất lơ  lửng, <br /> không gây nên sự đột biến nào của mạch truyện. Những câu hỏi nêu ra có thể trả lời cũng  <br /> được mà không cũng được. Nó không nhằm mục đích tìm biết mà chỉ chờ đợi một sự phụ <br /> hoạ, xác nhận điều người nói nghĩ và thậm chí cả sự hiện tồn mờ nhạt của họ nữa:<br /> ­ Em thắp đèn lên chị Liên nhé!<br /> ­ Cái chõng này sắp gãy rồi chị nhỉ?<br /> ­ Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế?<br /> ­ Còn cô chưa dọn hàng à?<br /> ­ Có phải buổi trưa em bán cho bà Lực hai bánh xà phòng không?<br /> ­ A, cô bé làm gì thế?<br /> ­ Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?<br /> ­ Tàu hôm nay không đông, chị nhỉ?<br /> Trước những câu hỏi  ấy người đối thoại thường là "mãi rồi mới chép miệng trả  lời", <br /> ngẫm nghĩ rồi đáp hoặc có đáp cũng "đáp vẩn vơ", thậm chí "không đáp", "không cần  <br /> ngoảnh mặt ra". Một số người khi muốn chứng minh luận điểm nói rằng cảnh đời được <br /> miêu tả  trong truyện thật nghèo nàn buồn tẻ, đã viện đến các chi tiết như  đám trẻ  con  <br /> nhặt nhạnh những thứ  rơi vãi trên nền chợ, chị  Tý dọn hàng đến khuya mà không bán <br /> được bao nhiêu, hai chị em Liên xem phở bác Siêu như một thứ quà xa xỉ, một người mua  <br /> hàng đến nửa bánh xà phòng cũng phải mua chịu... Thật ra cần chú ý hơn đến những mẩu <br /> đối thoại rời rạc đã nói ở trên. Dụng công của Thạch Lam cũng như  hồn văn của truyện  <br /> chính toát lên từ đấy. Nó đưa tới cho người đọc không phải chuyện này chuyện nọ mà là  <br /> một ấn tượng buồn nản, xót thương, thậm chí bực bội trước các câu hỏi tủn mủn, bâng  <br /> quơ, không cần thiết phải trả  lời và những lời đáp quá chừng nhạt nhẽo, phẳng lặng.  <br /> Những ấn tượng đó khó gây dựng hơn nhiều so với các nhận xét kết luận "đóng bao"sẵn  <br /> thường thấy ở nhiều truyện thừa giọng giáo huấn mà thiếu tính nghệ thuật.<br /> Trong truyện cũng vài lần nổi lên tiếng reo chứa đựng niềm hân hoan mong đợi:<br /> ­ Kìa, hàng phở của bác Siêu đã đến kia rồi.<br /> ­ Đèn ghi đã ra kia rồi.<br /> Nhưng những tiếng reo đó đã nhanh chóng phô ra tính chất tội nghiệp của chúng, niềm <br /> vui mới nhóm lên đã bị triệt tiêu bởi lời kể nhẩn nha vô tình mà thật "ác nghiệt": " An và  <br /> Liên ngửi thấy mùi phở  thơm, nhưng  ở cái huyện nhỏ  này, quà bác Siêu bán là một thứ <br /> quà xa xỉ, nhiều tiền , hai chị  em không bao giờ  mua được " và "chuyến tàu hôm nay <br /> không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn". Đúng là mong đợi <br /> chỉ để  mà mong đợi, reo lên chỉ  để  rồi buồn tiếc và thất vọng hơn. Cảm giác thất vọng  <br /> của nhân vật chắc chắn là sâu sắc. Nhưng đâu chỉ  nhân vật, độc giả  cũng thất vọng <br /> không kém. Bị  trói chặt bởi nhịp cầu lê thê của câu chuyện, họ  đã chờ  đợi bao nhiêu  ở <br /> những  tiếng reo kia.  Thật  ra,  niềm  thất  vọng này  chính  là  hiệu  quả  nghệ  thuật của <br /> truyện. Sau sự  hụt hẫng này, độc giả  sẽ  vỡ  ra những ý nghĩa của đời sống mà truyện  <br /> muốn hướng tới. Nghệ  thuật không phải là nói thẳng mà nói vòng, còn độc giả  thì có  <br /> được cảm giác thật như  người trong truyện. Cùng với nhân vật, họ  tự  nghiệm sinh các  <br /> giá trị của đời.<br /> Hình ảnh thiên nhiên trong truyện đã gây cho người đọc những ấn tượng sâu đậm. Sự êm <br /> ả  đượm buồn mà ta nhận thấy một phần là của thiên nhiên với tư  cách là chất liệu, vật <br /> liệu, một phần là của văn. Những bức tranh nho nhỏ được gài xen kẽ với những mẩu đối <br /> thoại rời rạc, không hoàn chỉnh. Chúng lấp đầy những khoảng trống của lời nói và cầm <br /> giữ nhịp điệu của thiên truyện. Giả sử tác giả viết khác đi, dồn hẳn những đoạn miêu tả <br /> thiên nhiên về một phía, và phía kia là hình ảnh sinh hoạt của con người, hẳn giọng điệu <br /> điều hoà của truyện sẽ  biến mất và chủ  đề  của chuyện sẽ  khác đi.  Ở  đây thiên nhiên <br /> không thu hút toàn bộ thần trí con người để họ mê man trong đó. Nó gần gũi, vỗ về, khơi  <br /> gợi những cảm xúc dịu dàng và bâng khuâng. Nó trồi lên đánh lạc hướng tâm trạng buồn <br /> chán của nhân vật (và của độc giả) thông qua mùi âm  ẩm của đất bụi, vẻ  lung lay của  <br /> bóng đèn, bóng người, ánh nhấp nháy của ngàn sao và đom đóm, tiếng động mơ  hồ, khe  <br /> khẽ  của loạt hoa bàng rụng xuống vai...Tuy nhiên, việc đánh lạc hướng kia chỉ  diễn ra  <br /> từng lúc một, và nhân vật của truyện lại trở về với thực tại túng thiếu, lam lũ, để tiếp đó  <br /> rơi vào trạng thái chập chờn nửa mơ, nửa thức, khắc khoải chờ  mong, hi vọng (dẫu  <br /> chẳng biết hi vọng ở cái gì). Truyện sở dĩ không rơi vào nhàm tẻ dù đối tượng hàm chứa <br /> sự tẻ nhàm, chính một phần nhờ lối tả, kể xen kẽ, chắp nối đó. <br /> Hai đứa trẻ là truyện ngắn giàu tính nghệ thuật. Tác giả đã rất ung dung, thoải mái khi xử <br /> lí chất liệu hiện thực. Tất cả chất liệu đã được tổ chức lại nhằm khơi dậy ở người đọc  <br /> những cảm xúc nghệ thuật thuần khiết . Nhà văn đưa họ  vào thế giới của ông, thôi miên  <br /> họ, sau đó tự để  họ  ngẫm nghiệm và rút ra những bài học cần thiết.  Ở  trên có nhắc tới  <br /> "khu vườn Thạch Lam". Thực ra "khu vườn"ấy không chỉ  có nghĩa là đề  tài. Đó là "khu  <br /> vườn" của nghệ  thuật ­ một nghệ thuật biết vượt thoát khỏi sự  trói buộc của đề  tài để <br /> làm vang dậy tiếng nói riêng của nhà văn.<br />  <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0