intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát triển kinh tế và thương mại Việt Nam trong bối cảnh bảo hộ thương mại - Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:1074

9
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế - Phát triển kinh tế và thương mại Việt Nam trong bối cảnh bảo hộ thương mại gồm các nội dung bài viết như Chủ nghĩa bảo hộ thương mại kiểu mới và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam; nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường hoa kỳ trong bối cảnh bảo hộ thương mại; phát triển bền vững xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc; thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong bối cảnh bảo hộ thương mại;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát triển kinh tế và thương mại Việt Nam trong bối cảnh bảo hộ thương mại - Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ INTERNATIONAL CONFERENCE PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH BẢO HỘ THƯƠNG MẠI PROMOTING ECONOMY AND TRADE IN THE CONTEXT OF GLOBAL TRADE PROTECTIONISM NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI Tháng 8 - 2020 1
  2. 2
  3. BÁO CÁO ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ “PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH BẢO HỘ QUỐC TẾ” NGƯT.GS.TS. Đinh Văn Sơn Hiệu trưởng Trường Đại học Thương mại Trong giai đoạn vừa qua, tình hình kinh tế, chính trị thế giới tiếp tục có nhiều biến động và diễn biến phức tạp. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc và xung đột giữa các quốc gia (Mỹ - Iran, Mỹ - Triều Tiên, Anh rời khỏi EU (Brexit);...) vẫn tiếp tục có những tác động sâu rộng tới tình hình kinh tế và thương mại quốc tế. Bảo hộ thương mại đã và đang trỗi dậy khá mạnh trong thời gian gần đây trong bối cảnh kinh tế thế giới bắt đầu tăng trưởng chậm lại kể từ năm 2013. Ngày càng nhiều quốc gia quay trở lại chính sách thúc đẩy sản xuất công nghiệp để thay thế hàng nhập khẩu, thắt chặt quy định về tỷ lệ nội địa hóa và trợ giá hàng xuất khẩu, dựng nên các rào cản thương mại khác nhau để bảo vệ nền sản xuất trong nước. Trong khi đó, thành quả của toàn cầu hóa không được phân chia đồng đều giữa các khu vực, các nền kinh tế cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới xu hướng phản đối tự do hóa thương mại gia tăng mạnh ở nhiều khu vực trên thế giới, nhất là tại các nền kinh tế lớn, trong đó có Mỹ và châu Âu. Trong thời gian qua, số lượng biện pháp bảo hộ thương mại mà các nền kinh tế lớn thực hiện ngày càng tăng lên. Đặc biệt, tại Mỹ, Tổng thống Donald Trump, với chính sách “Đưa nước Mỹ vĩ đại trở lại”, đã áp dụng nhiều biện pháp, từ rút khỏi các thỏa thuận thương mại mà ông coi là “gây thiệt hại” cho nền kinh tế đất nước, tới áp thuế nhập khẩu đối với hàng hóa từ các quốc gia khác nhau. Các nền kinh tế lớn trên thế giới đang đứng trước bài toán khó là làm sao dung hòa được lợi ích quốc gia và những cam kết hợp tác thúc đẩy tự do thương mại vì lợi ích chung. Việc Mỹ đưa ra những rào cản thuế đối với nhập khẩu, cũng như khuyến khích các doanh nghiệp chuyển địa điểm sản xuất về trong nước, trong khi Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, cũng tìm mọi cách tăng kim ngạch xuất khẩu song lại dựng lên những rào cản đối với hàng nhập khẩu, giữ thị phần trong nước cho các doanh nghiệp nội địa, là những minh chứng rõ nét về xu hướng theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ. Nguy cơ chiến tranh thương mại càng trở nên rõ hơn khi EU, Trung Quốc và một số quốc gia khác cũng đã công bố các biện pháp trả đũa Mỹ. Việc áp đặt một biện pháp đơn phương mang tính rào cản đối với thương mại tự do được đánh giá không phải là giải pháp tối ưu, đi ngược lại xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, cản trở hệ thống thương mại toàn cầu, đồng thời có thể dẫn tới các cuộc chiến thương mại, ảnh hưởng bất lợi đến tăng trưởng kinh tế của các nước, khu vực và thế giới. Năm 2019, thuế quan bình quân của tất cả các khu vực trên thế giới tiếp tục giảm theo xu hướng tự do hóa thương mại. Tuy nhiên, mức thuế quan MFN của Mỹ tăng lên 0.25% so với năm 2018. Đây là kết quả của thuế quan nhập khẩu bổ sung Mỹ áp dụng lên các mặt hàng thép, nhôm đến từ các nước đồng minh (Canada, Mexico, Liên minh Châu Âu) và các mức thuế quan leo thang từ cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc. 3
  4. Châu Âu cũng áp dụng thuế quan nhằm trả đũa các chính sách thương mại của Mỹ hướng tới mặt hàng nhôm, thép. Bởi vậy, mức thuế quan trung bình của Liên minh Châu Âu tăng 0.1% so với năm 2018. Trung Quốc và Hàn Quốc có mức thuế suất khá cao với mức trung bình là 10% (Trung Quốc) và 13% (Hàn Quốc), nhằm bảo hộ các ngành công nghiệp nội địa. Bên cạnh thuế quan, các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS), biện pháp kỹ thuật (TBT), biện pháp chống bán phá giá (AD), biện pháp chống trợ cấp (CV), biện pháp tự vệ (SG) cũng là những biện pháp phổ biến được sử dụng trong chính sách thương mại của các nước thành viên WTO, trong đó SPS và TBT là những biện pháp đứng đầu về số lượng những biện pháp được thông báo và những biện pháp còn hiệu lực. Năm 2017 trên toàn thế giới có 1719 biện pháp bảo hộ bằng hàng rào kỹ thuật (TBT) được đưa ra, thì năm 2018 là 2037. Năm 2017 có 1001 biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (SPS) đưa ra thì năm 2018 có 1316 biện pháp được đưa ra. Trong báo cáo về kinh tế thế giới tháng 6/2018, Ngân hàng Thế giới (WB) đã cảnh báo bất cứ trở ngại nào đối với hoạt động thương mại ở Trung Quốc hay Mỹ, hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, sẽ dẫn đến hiệu ứng lan toả tiêu cực cho phần còn lại của thế giới thông qua các kênh thương mại, tài chính và hàng hóa. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới cảnh báo rằng những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ tiếp tục gia tăng sẽ là các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển. Các rào cản phi thuế quan cũng có thể được nâng lên, qua đó làm gia tăng chi phí thương mại xuyên biên giới. Các phí tổn liên quan đến hoạt động vận chuyển, dịch vụ logistics, các trở ngại về pháp lý và quy định cũng sẽ ngày càng lớn. Do ảnh hưởng của các bất ổn kinh tế vĩ mô và căng thẳng thương mại kéo dài đã có những tác động tiêu cực đến thương mại toàn cầu. Kinh tế thế giới năm 2019 tăng trưởng với tốc độ chậm nhất trong vòng 10 năm kể từ sau thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009. Theo số liệu của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2019 chỉ đạt 2,9%, giảm mạnh so với 3,6% năm 2018 và thấp hơn đáng kể so với mức trung bình 3,84% trong giai đoạn 2010-2018. Tăng trưởng khối lượng thương mại hàng hóa và dịch vụ toàn cầu đã giảm mạnh xuống mức thấp nhất trong gần một thập kỷ qua từ mức 3,9% năm 2018 xuống còn 0,3% năm 2019 (UNCTAD, 2020). Bên cạnh xu thế bảo hộ thương mại, tiến trình tự do hóa thương mại vẫn tiếp tục diễn ra, đặc biệt ở cấp độ tự do hóa thương mại khu vực đánh dấu bằng hàng loạt hiệp định đã và đang hoàn tất việc ký kết, nổi bật là: Hiệp định Đối tác Toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định thương mại tự do Mỹ - Mexico - Canada (USMCA); Hiệp định thương mại tự do Mỹ - Hàn, Mỹ - Nhật Bản; Hiệp định đối tác kinh tế Nhật - Liên minh EU; Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA);... Có thể thấy rõ các nền kinh tế phát triển có xu hướng sử dụng các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA), hoặc nâng cấp các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) để thay thế cho các thỏa thuận thương mại đa phương toàn cầu với những đặc trưng địa chính trị. Cuối năm 2019, sự bùng phát của đại dịch viêm đường hô hấp cấp Covid-19 trên toàn thế giới đã gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế và sức khỏe, đồng thời đã có những tác động lớn định hình lại hệ thống thương mại và thị trường toàn cầu. Tính đến cuối tháng 6/2020, đại dịch Covid-19 với khoảng trên 10 triệu người nhiễm bệnh và hơn 500 4
  5. nghìn ca tử vong, có thể gây ra suy thoái kinh tế nghiêm trọng nhất trong lịch sử. Các chính phủ trên khắp thế giới đã áp đặt nhiều chính sách giãn cách xã hội nghiêm ngặt trong hầu hết các lĩnh vực. Những chính sách này đã trở thành chuẩn mực mới của sự tương tác xã hội và định hình lại cuộc sống. Bối cảnh dịch bệnh mới này đã buộc các doanh nghiệp phải đóng cửa, gây ra tình trạng thất nghiệp, tiêu dùng giảm, dòng chảy hàng hóa và hoạt động sản xuất, phân phối bị gián đoạn. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) dự kiến thương mại toàn cầu sẽ giảm mạnh ở mức kỷ lục từ 13-32% trong năm 2020. Các khu vực gặp nhiều nguy cơ nhất là Bắc Mỹ và châu Á. Theo kịch bản xấu nhất, xuất khẩu của những nước này có thể giảm lần lượt 40% và 36%. Thương mại châu Âu và Nam Mỹ cũng sẽ sụt giảm hơn 30%. Nhóm các nhà lãnh đạo Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) đã cam kết duy trì một môi trường đầu tư và thương mại tự do, công bằng, không phân biệt, minh bạch, có thể dự đoán và ổn định. Tuy nhiên, các biện pháp thương mại đáp ứng trong tình hình dịch Covid-19 có xu hướng bị chia rẽ. Khoảng 50 thành viên của WTO đã ban hành khoảng 130 biện pháp thương mại liên quan đến dịch Covid-19. 55% trong số đó là nhằm tạo thuận lợi để giảm hoặc loại bỏ thuế nhập khẩu. Ngược lại, 45% số biện pháp có xu hướng hạn chế thương mại, áp đặt các hạn chế định lượng (QR) như hạn ngạch, thủ tục cấp phép xuất khẩu hoặc cấm xuất khẩu, đối với các sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm liên quan đến y tế. Trước bối cảnh khó khăn trên, với các giải pháp hợp lý được Đảng và Nhà nước triển khai thực hiện, nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt được những thành tựu vượt bậc: Năm 2019. tăng trưởng kinh tế đạt 7,02%, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao hàng đầu khu vực, thế giới; lạm phát được kiểm soát ở mức thấp dưới 4%; Chất lượng tăng trưởng được nâng lên, hiệu quả đầu tư được cải thiện, năng suất lao động tăng 6,2%, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đạt 46,11%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 517 tỷ USD, tăng 7,6% so với năm 2018. Đây là năm thứ tư liên tiếp Việt Nam xuất siêu với 9,94 tỷ USD, vượt xa so với con số kỷ lục 7,2 tỷ USD được thiết lập năm 2018. Kết quả này đã đưa Việt Nam lọt top 30 quốc gia có tăng trưởng xuất nhập khẩu tốt trên thế giới. Xét riêng lĩnh vực xuất khẩu, Việt Nam đã trở thành nền kinh tế có quy mô xuất khẩu đứng thứ 22 trên thế giới. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện đạt kỷ lục 20,4 tỷ USD. Xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia tăng 3,5 điểm và 10 bậc theo đánh giá của WEF. Việt Nam lần đầu tiên vươn lên trong nửa trên của bảng xếp hạng thế giới, vị trí 67 trên 141 nền kinh tế được xếp hạng. Đặc biệt, ngay khi có dịch bệnh Covid-19 bùng phát, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc quyết liệt, cùng với sự đồng lòng, đoàn kết của toàn dân, công tác phòng, chống dịch đã đạt kết quả tốt, Việt Nam đã đẩy lùi và kiểm soát được dịch bệnh. Đồng thời, đã có những chính sách kịp thời để từng bước hỗ trợ doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn của đại dịch; các hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội đang được khôi phục; tình hình kinh tế - xã hội đã có những chuyển biến tích cực; được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong giai đoạn tới đây nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức, rủi ro như tăng trưởng chưa bền vững, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp còn thấp, hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt là 5
  6. hiệu quả đầu tư công chưa cao, năng lực đổi mới sáng tạo thấp, năng suất lao động thấp, tăng trưởng phụ thuộc cao và ngày càng tăng vào khu vực FDI, vấn đề ô nhiễm môi trường,...Tiến trình Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt trong bối cảnh các quốc gia phát triển gia tăng các biện pháp bảo hộ thương mại, cùng với các cơ hội, thách thức từ nguyên nhân nội tại và khách quan đã đặt ra những vấn đề cấp thiết nghiên cứu đối với Việt Nam cả ở cấp độ quốc gia, ngành, địa phương và doanh nghiệp, qua đó đưa ra những khuyến nghị, giải pháp cụ thể, thiết thực ngằm giải quyết những vấn đề căn bản đang là trở ngại cho việc phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam. Được sự đồng ý của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, Trường Đại học Thương mại, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế và Đại học Sofia (Bulgaria) đồng tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế với chủ đề: “Phát triển kinh tế và thương mại Việt Nam trong bối cảnh bảo hộ thương mại”. Đây sẽ là một diễn đàn khoa học để các nhà quản lý kinh tế, nhà hoạch định chính sách, các doanh nhân, nhà nghiên cứu, giảng viên các trường đại học trao đổi, thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm về tác động của bảo hộ thương mại đến tổ chức, điều hành trong quản lý kinh tế vĩ mô cũng như quản trị của các tổ chức, các doanh nghiệp với mục tiêu phát triển bền vững kinh tế và thương mại Việt Nam. Ban tổ chức Hội thảo đã gửi thư mời viết bài nghiên cứu đến các tổ chức, cá nhân các nhà khoa học trong và ngoài nước và nhận được trên 150 bài viết. Sau khi tổ chức tiến hành phản biện độc lập một cách nghiêm túc, ban chuyên môn của Hội thảo đã lựa chọn ra được 71 bài có chất lượng, đáp ứng được các yêu cầu của Hội thảo để đăng kỷ yếu. Kỷ yếu Hội thảo được biên tập với 3 nội dung lớn: Nội dung I: Bảo hộ thương mại: xu thế, tác động và chính sách phát triển kinh tế và thương mại Việt Nam. Các tác giả đã tổng hợp và hệ thống những vấn đề lý luận mang tính nguyên lý của bảo hộ thương mại từ quan điểm tiếp cận, mục tiêu, tác động đến các công cụ bảo hộ như thuế quan, vệ sinh dịch tễ, biện pháp kỹ thuật, chống bán phá giá, chống trợ cấp,... Nhiều bài viết cũng đề cập cụ thể đến chính sách bảo hộ thương mại của một số quốc gia phát triển như Mỹ, EU, Trung Quốc,... từ đó đánh giá tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam và các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam. Để làm sâu sắc hơn những nội dung nêu trên, chúng tôi xin tiếp tục phát triển một số khía cạnh cần trao đổi thêm : (i) Nội hàm của phát triển bền vững kinh tế và thương mại và cụ thể hoá trong các ngành, lĩnh vực, vùng và loại hình doanh nghiệp khác nhau trong bối cảnh gia tăng bảo hộ thương mại hiện nay; (ii) Cần có những cải cách, đổi mới gì tiếp theo đối với các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý, các tổ chức xã hội để thực hiện sứ mệnh phát triển bền vững ở Việt Nam. Nội dung II: Các hiệp định thương mại tự do: cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế, thị trường và doanh nghiệp Việt Nam. Các bài viết đã trình bày và đánh giá sâu về bản chất của các “FTA thế hệ mới” được phát triển bao gồm các nội dung vốn được coi là “phi thương mại” như: lao động, môi trường, cam kết phát triển bền vững và quản trị tốt,... bao trùm các lĩnh vực như đầu tư, cạnh tranh, mua sắm công, thương mại điện tử, khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển,... Các tác giả cũng đánh giá việc ký kết và đưa vào thực hiện các 6
  7. “FTA thế hệ mới” như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Việt Nam và EU (EVFTA) có thể đem lại những tác động lớn, kỳ vọng sẽ góp phần quan trọng giúp môi trường kinh doanh của Việt Nam thông thoáng, dễ dự báo và có tính hội nhập cao hơn, đặc biệt là được kỳ vọng sẽ tạo sự cải thiện mạnh mẽ hoạt động đầu tư và thương mại cho nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó cũng đặt ra cho Việt Nam hàng loạt những thách thức về khả năng đáp ứng những cam kết cao về thể chế và pháp luật, quy tắc xuất xứ hàng hóa, môi trường, sở hữu trí tuệ và hàng loạt các hàng rào kỹ thuật khác,... Nội dung III: Một số chủ đề khác bao gồm các nội dung nghiên cứu theo một số lĩnh vực cụ thể: quản trị và phát triển nguồn nhân lực, liên kết phát triển kinh doanh của các tỉnh, vùng; thương mại điện tử và kinh doanh online; các hoạt động đổi mới trong quảng cáo, marketing, thương hiệu đối với sản phẩm hàng hoá; hành vi tiêu dùng của khách hàng;... Hội thảo với chủ đề “Phát triển kinh tế và thương mại Việt Nam trong bối cảnh bảo hộ thương mại” thực sự có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Các gợi ý về nội dung trao đổi trong hội thảo, một mặt tổng hợp từ kết quả nghiên cứu ban đầu từ các bài viết khoa học đăng trong kỷ yếu, nhưng đó cũng chính là những trăn trở của thực tiễn đối với mục tiêu phát triển kinh tế và thương mại bền vững trước những thời cơ và cả những rào cản thách thức mới. Rất mong tiếp tục nhận được các ý kiến từ phía các nhà khoa học, các chuyên gia, các nhà lãnh đạo, quản lý và hoạch định chính sách. Ban tổ chức xin chân thành cảm ơn sự phối hợp và hỗ trợ quý báu của các cơ quan quản lý nhà nước, Bộ Giáo dục & Đào tạo, các đơn vị truyền thông và đặc biệt, xin trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các chuyên gia, các giảng viên đã tâm huyết tham gia viết bài và đóng góp lớn cho sự thành công của Hội thảo. Xin trân trọng cảm ơn./. 7
  8. 8
  9. CHỦ ĐỀ TOPIC 9
  10. 10
  11. CHỦ NGHĨA BẢO HỘ THƯƠNG MẠI KIỂU MỚI VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU VIỆT NAM NEW PROTECTIONISM AND SOLUTIONS FOR PROMOTING VIETNAM EXPORT PGS,TS. Nguyễn Hoàng Trường Đại học Thương mại Tóm tắt Trước bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động, bảo hộ thương mại kiểu mới xuất hiện thay thế cho các biện pháp bảo hộ truyền thống như thuế quan và hạn ngạch. Các hình thức bảo hộ mới phổ biến được các nước phát triển áp dụng như chống bán phá giá, chống trợ cấp, các hàng rào kĩ thuật... Xuất khẩu Việt Nam trong những năm gần đây mặc dù vẫn tăng trưởng nhưng với tốc độ giảm dần. Mặt khác, sự gia tăng chủ nghĩa bảo hộ kiểu mới dẫn tới mất cân bằng trên thị trường, doanh nghiệp xuất khẩu phải thay đổi chiến lược kinh doanh, đầu tư sản xuất để đáp ứng với những rào cản thương mại mới này... Với sự nỗ lực và các biện pháp kịp thời từ chính phủ, sự phối hợp của các hiệp hội cũng như tinh thần cầu thị, cải tiến kĩ thuật của các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ là tiền đề giúp Việt Nam ứng phó với các rào cản thương mại kiểu mới, thúc đẩy xuất khẩu Việt ra các thị trường quốc tế. Từ khóa: Bảo hộ thương mại, rào cản, xuất khẩu, giải pháp, Việt Nam. Abstract In the recent context of world economy crisis, new kinds of trade protection emerge by replacing traditional ones. These new protections applied by developed countries include anti-dumping, anti-subsidy, technical barriers... Vietnam exports increase in recent years, but at a decreasing rate gradually. On the other hand, the rise of new protections leads to an trade imbalance in the market where exporting firms must change their strategies and productions to meet new trade barriers... With efforts and measures made by the governmentand related associations,Vietnam exporting firms will respond to newbarriersin international markets. Keywords: Protectionism, export, export barriers, export solutions, Việt Nam. 1. Mở đầu Trong xu thế hội nhập sâu rộng của nền kinh tế thế giới, tự do hóa thương mại được thúc đẩy thông qua các tổ chức, hiệp hội thương mại khu vực và thế giới (ASEAN, EU, AfCFTA, Mercosur, WTO), và các hiệp định tự do thương mại FTAs, các chính sách bảo hộ thương mại truyền thống như hàng rào thếu quan, hạn ngạch không còn phù hợp với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, từ sau hai cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 1997 và 2008, đã tác động nặng nề đến thương mại quốc tế và nền kinh tế các nước, bảo hộ thương mại bắt đầu được nhiều nước áp dụng lại, đảo ngược xu hướng thương mại tự do gần ba thập kỷ trước, nhưng dưới các hình thức mới dựa trên các rào cản phi thuế 11
  12. quan(Erixon và Sally, 2010; Gunnella và Quaglietti, 2019). Các loại hình này liên quan đến kỹ thuật, như rào cản kỹ thuật đối với thương mại, bao gồm các tiêu chuẩn hoặc yêu cầu bắt buộc về đặc tính sản phẩm hoặc phương pháp sản xuất liên quan được áp dụng nhiều nhất (chiếm 41% tổng số biện pháp phi thuế quan), tiếp theo là vệ sinh và các biện pháp kiểm dịch thực vật chiếm 35% (UNCTAD, 2019b). Một số biện pháp bảo hộ thương mại kiểu mới khác cũng được các nước phát triển xây dựng để hạn chế xuất khẩu từ các nước đang phát triển như Việt Nam. Trước bối cảnh giảm sút trong tổng cầu của kinh tế thế giới, hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2019 vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khả quan đạt được những kết quả ấn tượng. Trị giá hàng hóa xuất khẩu năm 2019 đạt 263,451 tỷ USD, quy mô các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng, số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên tăng mạnh và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (Tổng cụ Thống kê, 2019). Tuy nhiên, xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và chiều sâu cảu các loại hình bảo hộ thương mại kiểu mới, dẫn đến nhiều tác động tiêu cực hơn là tích cực cho thế giới và các quốc gia, Việt Nam cũng không ngoại lệ khi chịu tác động trong bối cảnh đó. Cụ thể, theo thống kê của Bộ Công Thương, tính hết năm 2018, đã có 144 vụ phòng vệ thương mại do nước ngoài khởi xướng điều tra, áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Các vụ kiện chống bán giá cá tra-basa, tôm, chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại đối với thép cuộn, thép chống ăn mòn do Mỹ khởi xướng; chống trợ cấp dây đồng, ống thép không gỉ do Ấn Độ khởi xướng; biện pháp tự vệ với thép nhập khẩu vào EU... khiến Việt Nam gặp khó khăn trên thị trường quốc tế. Mặc dù, Việt Nam đã, đang rất tích cực, chủ động xử lý có hiệu quả các vấn đề trong tranh chấp thương mại, xử lý các biện pháp phòng vệ thương mại, vượt qua các rào cản thương mại của các thị trường nhập khẩu, nhưng tình hình thế giới đang có những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, các nước phát triển ngày càng gia tăng các biện pháp hạn chế thương mại, bảo hộ sản xuất trong nước, để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài và đổi mới cơ cấu kinh tế, Việt Nam cần có các giải pháp thích ứng. Trên cơ sở đó, tác giả thực hiện đề tài “Chủ nghĩa bảo hộ thương mại kiểu mới và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam, trên cơ sở dữ liệu thu thập và nhận định của các chuyên gia nhằm đánh giá thực trạng xuất khẩu của Việt Nam những năm gần đây, tác động của bảo hộ thương mại kiểu mới và đưa ra những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam trong bối cảnh kinh tế nhiều biến động hiện nay. 2. Cơ sở lý luận Bảo hộ thương mại hay bảo hộ mậu dịch (Protectionism) là tổng hợp những chính sách thương mại của Chính phủnhằm hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước cạnh tranh với các nhà sản xuất nước ngoài trong một ngành cụ thể bằng các biện pháp như tăng giá sản phẩm nhập khẩu, giảm chi phí cho các nhà sản xuất trong nước và hạn chế các nhà sản xuất nước ngoài tiếp cận thị trường trong nước (Abboushi, 2010). Nguyên nhân do sự khác biệt về điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia, khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không giống nhau hay những ngành doanh nghiệp mới gia nhập thị trường chưa thể cạnh tranh được với những ngành doanh nghiệp đã có kinh nghiệm, nhà nước cần có chính sách bảo vệ nhất định, đưa ra rào cản ra đối 12
  13. với các hoạt động trao đổi hàng hóa, dịch vụ để tăng khả năng cạnh tranh, bảo hộ cho nền kinh tế kém phát triển, tạo ra sự đồng đều về điều kiện tái sản xuất. Bảo hộ thương mại trong thời gian ngắn có thể hiệu quả, nhưng nếu kéo dài sẽ làm suy yếu nền kinh tế, giảm năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Không có cạnh tranh, các công ty trong ngành công nghiệp được bảo hộ không có nhu cầu đổi mới và cải tiến. Hệ quả là sản phẩm trong nước sẽ giảm chất lượng và đắt hơn so với sản phẩm ngoại nhập (Amadeo, 2019). 2.1. Bảo hộ thương mại truyền thống Trong nhiều thập kỷ qua, các quốc gia thường chỉ làm ra những mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh cao nhất nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Về bản chất, đó là sự phân công lao động trong dây chuyền sản xuất toàn cầu. Toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại tuy là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới nhưng do sự bất bình đẳng về lợi ích kinh tế giữa các quốc gia, giữa các khu vực, tầng lớp, thành phần xã hội trong mỗi quốc gia đã dẫn đến xu hướng chống toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại. Một số quốc gia thúc đẩy các doanh nghiệp dịch chuyển trở về nước mình nhằm gia tăng lợi ích của quốc gia mình. Nhiều chính phủ tuyên bố ủng hộ tự do hóa thương mại, tôn trọng các nguyên tắc thị trường, phê phán chủ nghĩa bảo hộ nhưng trên thực tế lại hành động ngược lại, kể cả áp dụng biện pháp can thiệp hành chính.Cụ thể, hai loại hình bảo hộ truyền thống cơ bản gồm thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu. Các biện pháp bảo hộ thương mại truyền thống thường được thực hiện thông qua hoạt động lập pháp hoặc các kênh hành chính có tính minh bạch cao (Gandolfo, 2014). Thuế quan là một khoản tiền mà người chủ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu hoặc quá cảnh phải nộp cho hải quan (cơ quan đại diện cho nước chủ nhà). Kết quả của thuế quan là làm tăng chi phí của việc đưa hàng hóa đến một quốc gia (Nguyễn Hoàng Quy và các cộng sự, 2016). Thuế quan có thể được tính theo giá trị hoặc theo số lượng đơn vị hàng hóa nhập khẩu/ xuất khẩu. Đối với một số lượng nhỏ hàng hóa buôn bán trên thế giới, người ta áp dụng thuế quan hỗn hợp bằng cách kết hợp hai cách tính thuế nói trên. Thuế quan là một công cụ chính sách của Chính phủ được sử dụng nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong quá trình tổ chức quản lý nền kinh tế quốc gia. Theo đối tượng đánh thuế, thuế quan gồm 3 loại: thuế quan xuất khẩu, thuế quan nhập khẩu và thuế quan quá cảnh. Trong đó, thuế quan nhập khẩu là loại thuế có vị trí quan trọng trong chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia. Nếu theo phương pháp đánh thuế, thuế quan gồm các loại: thuế quan tính theo đơn vị vật chất của hàng hóa và thuế quan đánh theo giá trị hàng hóa. Thuế tài chính và thuế bảo hộ là hai loại thuế quan đánh theo giá trị hàng hóa (Nguyễn Hoàng Quy và các cộng sự, 2016). Hạn ngạch là việc hạn chế số lượng đối với một loại hàng hóa xuất và nhập khẩu nào đó thông qua hình thức cấp giấy phép (Gandolfo, 2014). Hạn ngạch cũng có tác dụng giống như thuế, hạn chế tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên, nếu dùng hạn ngạch Chính phủ sẽ không có nguồn thu như thuế. Trên thực tế, hạn ngạch dễ dẫn đến độc quyền kinh doanh và các tiêu cực trong việc tìm cơ hội để có được hạn ngạch. Hạn ngạch thường được áp dụng trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) và có thể do nước nhập khẩu hoặc xuất khẩu tự áp đặt một cách đơn phương, nhưng cũng có loại hạn ngạch được áp đặt trên cơ sở tự nguyện của bên thứ hai, loại này được gọi là hạn ngạch xuất khẩu tự nguyện. Hạn 13
  14. ngạch trong chính sách thương mại quốc tế thường dùng để chỉ hạn ngạch nhập khẩu. Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của Chính phủ về số lượng hoặc giá trị một mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng được xuất đi hoặc nhập về từ một thị trường nào đó, trong một thời gian nhất định, thường là một năm (Gandolfo, 2014). Hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng bằng cách cấp giấy phép nhập khẩu cho một số công ty. Trong khi đó, hạn ngạch xuất khẩu được áp dụng ít hơn hạn ngạch nhập khẩu và thường chỉ áp dụng đối với các mặt hàng quý, thiết yếu đối với một quốc gia (Nguyễn Hoàng Quy và các cộng sự, 2016). Trước những tác động tiêu cực kể trên, ngày nay các quốc gia trên thế giới đều có xu hướng không áp dụng hạn ngạch nhập khẩu, mà xuất hiện một xu thế mới, đó là áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan khác. Một trong số các biện pháp đó là hạn ngạch thuế quan. Hạn ngạch thuế quan là chế độ trong đó quy định sẽ áp dụng một mức thuế bằng không (0%) hoặc thấp hơn đối với những hàng hóa được nhập khẩu theo đúng số lượng quy định, nhằm đảm bảo cung cấp với giá hợp lý cho người tiêu dùng. Khi hàng hóa nhập khẩu quá số lượng quy định thì sẽ áp dụng mức thuế cao để bảo hộ các nhà sản xuất trong nước. Hạn ngạch thuế quan được sử dụng nhằm đảm bảo hài hòa mục tiêu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và người sản xuất trong nước (Nguyễn Hoàng Quy và các cộng sự, 2016). Sau hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, các nước phát triển và đang phát triển đã đưa ra một loạt các biện pháp hạn chế thương mại, bao gồm thuế quan mới hoặc cao hơn, hạn chế định lượng và các quy định hải quan chặt chẽ hơn. Các thành viên WTO đã đưa ra nhiều biện pháp hạn chế thương mại từ giữa tháng 10 năm 2017 đến giữa tháng 5 năm 2018, trung bình 11 biện pháp hạn chế thương mại mới mỗi tháng so với 9 biện pháp mỗi tháng trong báo cáo trước đó. Việc gia tăng bảo hộ thương mại có thể làm gián đoạn của chuỗi giá trị toàn cầu đang lưu hành và gây thiệt hại cho thương mại quốc tế (UNCTAD, 2018).Do đó, một số quốc gia phát triển đã thúc đẩy việc giảm thuế nhập khẩu cho những quốc gia kém và đang phát triển, qua đó có thể góp phần tích lũy thương mại và trao đổi kinh tế. Theo tính toán của UNCTAD (2019a), năm 2017, 65,6% các nước kém phát triển được miễn thuế nhập khẩu. Tỉ lệ các mặt hàng được miễn thuế xuất khẩu từ các nước kém phát triển tăng từ 53,6% vào năm 2010. Từ năm 2010 đến 2017, dòng thuế áp dụng đối với các nước kém phát triển được miễn thuế tăng thêm 9,8%, gấp đôi so với các nước đang phát triển (5,2%). Từ năm 2015 đến năm 2016, con số này là 0,8%; bằng một nửa so với thời từ năm 2010 đến năm 2015 (2%), và gần bằng với các nước đang phát triển (0,7%). 2.2. Bảo hộ thương mại kiểu mới Cùng với sự suy yếu của bảo hộ thương mại truyền thống,trong những thập kỉ qua đã xuất hiện bảo hộ thương mại kiểu mới dựa trên các rào cản phi thuế quan. Đặc điểm chung của những rào cản này là ít công khai và phụ thuộc vào quyền tự quyết của nước chủ nhà hơn so với bảo hộ thương mại truyền thống. So với bảo hộ truyền thống, bảo hộ thương mại kiểu mới có thể cạnh tranh bí mật (Gandolfo, 2014; Gunnella và Quaglietti, 2019). Bảo hộ kiểu mới tập trung vào các lĩnh vực từ lâu đã được bảo vệ như: dệt may, quần áo, giày dép, sắt, thép, điện tử tiêu dùng và nông nghiệp. Các biện pháp thương mại đã gia tăng như trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Các cuộc điều tra chống bán phá giá mới đã tăng 15% từ giữa năm 2008 đến giữa năm 2009 và được đánh dấu trong các cuộc điều tra mới cho các biện pháp bảo vệ và đối kháng. Dấu hiệu là các hồ sơ và điều tra về thương mại quốc phòng đang được tổ chức theo quý mà 14
  15. điểm tăng mạnh là các nhiệm vụ áp đặt trong năm 2010 và 2011. Tuy nhiên, các cuộc điều tra mới ảnh hưởng đến thị phần nhỏ của thương mại thế giới (Erixon và Sally, 2010). Những công cụ bảo hộ mới đang được áp dụng phổ biến gồm: - Hạn chế xuất khẩu tự nguyện(Voluntary export restraint):là một thỏa thuận được đàm phán giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, theo đó nước xuất khẩu “tự nguyện” cắt bớt xuất khẩu vào nước nhập khẩu (Gandolfo, 2014). Các quy định thương mại toàn cầu cho phép các thành viên áp dụng những hạn chế xuất khẩu nếu chúng giúp giảm nhẹ tình trạng thiếu lương thực ở trong nước, cũng như các nguy cơ về môi trường, cho dù các hạn chế đó có thể gây tổn hại đến những nước nhập khẩu ròng lương thực và thậm chí gây ra tình trạng thiếu lương thực trầm trọng. Theo WTO, những biện pháp hạn chế nhập khẩu nói trên được đưa ra với một loạt lý do, như bảo vệ môi trường hoặc đảm bảo nguồn cung, cũng như giá cả của các mặt hàng nông sản ở thị trường trong nước. Tuy nhiên, việc sử dụng những biện pháp như thế để giải quyết các vấn đề này là những mối nguy hại. Các Chính phủ có thể bị lôi kéo vào xu thế sử dụng những hạn chế xuất khẩu để thay đổi lợi thế của họ về giá hàng hóa xuất khẩu hoặc tăng cường sản xuất theo hướng bất lợi cho các nước khác. Trung Quốc, nước hiện chiếm tới 97% nguồn cung đất hiếm của thế giới, biện minh rằng những lo ngại về môi trường và tình trạng kiệt tài nguyên đã buộc Bắc Kinh phải hạn chế xuất khẩu, dù phải đối mặt với thách thức pháp lý trong khuôn khổ WTO. - Trợ cấp công nghiệp (Industrial subsidies): bao gồm trợ cấp xuất khẩuvà trợ cấp nhập khẩu. Đối với xuất khẩu, trợ cấp có thể là trợ cấp xuất khẩu được trao cho nhà sản xuất nội trên phần sản phẩm mà đơn vị đó xuất khẩu hoặc trợ cấp sản xuất được trao cho nhà sản xuất trong nước trên tổng sản phẩm sản xuất được. Trợ cấp nhập khẩu thực ra là một kiểu trợ cấp sản xuất. Hiệu quả của trợ cấp này là đối với bất kì đầu ra nào, giá mà nhà sản xuất nhận được lớn hơn giá mà người tiêu dùng phải trả nhờ số tiền trợ cấp. Do đó, trợ cấp sản xuất được xếp hạng trên mức thuế quan (Gandolfo, 2014).Các hoạt động trợ cấp xuất khẩu trực tiếp giúp giảm giá hàng xuất khẩu và tăng sức cạnh tranh hàng nội địa so vơi hàng nhập khẩu. Trong năm 2018, Mỹ sử dụng biện pháp chống trợ cấp nhiều nhất với 10 vụ áp dụng trên 14 vụ khởi xướng, kế đến là Canada với 2/2 vụ khởi xướng, EU áp dụng 1/2 vụ khởi xướng (Cục Phòng Vệ Thương Mại, 2019). - Chống bán phá giá (Antidumping):Theo Gandolfo (2014), bán phá giá là sự phân biệt giá quốc tế diễn ra khi nhà sản xuất bán một mặt hàng ở nước ngoài với giá thấp hơn so với giá trong nước thị trường. Việc điều tra chống bán phá giá với các cáo buộc và áp thuế nhập khẩu cao hơn có chủ đích có thể giúp cho các nhà sản xuất ở một quốc gia nào đó chống lại các đối tác thương mại bị buộc tội là bán hàng hóa với mức giá thấp hơn chi phí sản xuất. Theo Cục Phòng Vệ Thương Mại (2019), trong năm 2018 Mỹ là quốc gia áp dụng biện pháp này nhiều nhất với 9 vụ áp dụng trên 16 vụ khởi xướng, kế đến là Canada 5/6 vụ khởi xướng, Ấn Độ 5/13 vụ khởi xướng. - Các hàng rào kĩ thuật (Standards protectionism): Hàng rào kĩ thuật trong bảo hộ thương mại kiểu mới gồm nâng cao một số tiêu chuẩn, yêu cầu khắt khe hơn đối với chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi trường, xuất xứ và sản phẩm liên quan đến sức khoẻ. Các tiêu chuẩn này tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế bằng cách giúp người mua nước ngoài đánh giá được quy cách, chất lượng của sản phẩm. Nhưng nếu chúng quá khác biệt 15
  16. giữa các nước sẽ buộc các doanh nghiệp nước khác có thể phải điều chỉnh lại quy trình sản xuất. Ngoài ra, đòi hỏi thử nghiệm sản phẩm tại nước nhập khẩu để đảm bảo rằng các sản phẩm đó phù hợp với những quy định của nước đó về kỹ thuật và an toàn khiến cho các nhà xuất khẩu phải chịu những quy trình kiểm tra nghiêm ngặt hơn hoặc chi phí kiểm tra cao hơn cho quá trình kiểm tra này. - Hạn chế lao động nhập cư(Restrictions on migrant labour):Lao động nhập cư bị hạn chế ở cả nước phát triển và nước đang phát triển. Chẳng hạn như Mỹ đã hạn chế visa diện H1B cho những người nước ngoài làm việc cho các ngân hàng cứu trợ, không có biện pháp tương tự ở EU nhưng số lao động nhập cư ở EU giảm đáng kể và một số chính phủ phải biện minh là “công việc địa phương cho nhân công địa phương” (Erixon và Sally, 2010). - Hạn chế vốn đầu tư FDI (FDI restrictions, “investment nationalism”): Đây không phải là vấn đề chính toàn cầu. Hạn chế đầu tư FDI tập hợp các ngành liên quan đến năng lượng. Bắc Mỹ, châu Âu và Úc quan ngại về các quỹ đầu tư quốc gia mới nổi và sự mở rộng của các doanh nghiệp nhà nước hải ngoại, đặc biệt từ Trung Quốc. Hạn chế vốn đầu tư FDI Trung Quốc đã gia tăng rõ rệt những năm gần đây nhưng UNCTAD cho rằng 85% biện pháp đầu tư FDI mới gần đây đang tự do hóa trong năm (Erixon và Sally, 2010). - Bảo hộ môi trường(Green Protectionism): là chính sách thương mại của các nước nhập khẩu áp dụng đối với các nước xuất khẩu gây ra tình trạng ô nhiễm khi sản xuất sản phẩm. Các nước nhập khẩu cho rằng môi trường của nước sản xuất ra và tiêu dùng phải được bảo vệ khỏi sự hủy hoại môi trường và nguồn tài nguyên do chính việc sản xuất hay tiêu dùng các sản phẩm nhập khẩu (Levinson, 2017; Ritzel và Kohler, 2017). Biện pháp này vừa hợp pháp hơn dưới con mắt của cộng đồng, vừa có thể được áp dụng một cách linh hoạt. Tuy nhiên, do hàng rào về môi trường nghiêm ngặt ở các nước phát triển đối với một số ngành nghề khiến các nhà đầu tư tại các nước này tìm cách đầu tư sang các nước đang phát triển - nơi chú trọng thu hút vốn đầu tư mà vấn đề môi trường không được kiểm soát chặt chẽ nên công đoạn có mức độ ô nhiễm môi trường cao được các nhà đầu tư tại các nước phát triển chuyển sang các nước đang phát triển, làm hủy hoại môi trường ở những quốc gia này (Nguyễn Hoàng Quy và cộng sự (2016). - Hội nhập thương mại (Regional Integration): gần đây cũng nổi lên trở thành một biện pháp bảo hộ thương mại kiểu mới. Các hiệp định thương mại khu vực cũng là một trong những biện pháp giúp các quốc gia thực hiện chính sách bảo hộ trong các mối quan hệ thương mại khu vực. Đây có thể coi là cách hợp pháp duy nhất giúp các quốc gia phát triển các thương hiệu nội địa mà không cần mở cửa thị trường và đối mặt với sự cạnh tranh từ các thương hiệu khác trên phạm vi toàn cầu, đồng thời hỗ trợ ngành công nghiệp nội địa mà không phá vỡ các quy định quốc tế về thúc đẩy xuất khẩu (Štěrbová, 2008). Tại các thị trường mục tiêu, các đối tác công nghiệp trong khu vực được bảo vệ khỏi sự cạnh tranh từ các quốc gia thức ba. Bảo hộ dựa trên hội nhập khu vực có thể gây nên nhiều rủi ro cho thương mại quốc tế. Bằng cách tạo ra các điều khoản ưu tiên không tương thích với các quy tắc của WTO, chiến lược hội nhập khu vực có thể dẫn đến nguy cơ tăng tranh chấp thương mại với các quốc gia thứ ba (Abida, 2013). Bên cạnh đó, chiến lược hôị nhập khu vực còn tạo ra khoảng cách địa lý thương mại giữa các khu vực khác nhau. Việc tạo nên các quyền lực kinh tế và chủ nghĩa bảo hộ có thể đe dọa hệ thống thương mại đa phương. 16
  17. Việc áp dụng các chính sách thương mại bảo hộ bởi một nhóm khu vực có thể có tác động tiêu cực đến quan hệ thương mại quốc tế và dẫn đến chiến tranh thương mại (Abida, 2013). Một cách khái quát, xu hướng bảo hộ thương mại trong thời gian tới sẽ diễn ra cùng với sự chia rẽ nội bộ khu vực và mỗi nước khá sâu sắc về vấn đề toàn cầu hóa và thương mại. Việc bảo hộ mậu dịch có tác động hai mặt. Một mặt, bảo hộ đem lại lợi ích nhất thời cho các nhà sản xuất trong nước và khuyến khích phát triển một số ngành nghề, hạn chế tiêu dùng; bảo đảm an toàn sức khỏe con người, động thực vật, môi trường, cân bằng cán cân thanh toán và đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước, tăng việc làm mới và phân phối lại thu nhập. Mặt khác, bảo hộ làm cho các nhà sản xuất trong nước có cơ hội đầu cơ trên giá bán hàng (hay cung cấp dịch vụ) ở mức có lợi nhất cho họ, làm giảm động lực áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, gây thiệt hại cho người tiêu dùng,phát triển và hiện đại hóa nền kinh tế xét theo mục tiêu dài hạn. Các hàng rào phi thuế quan đôi khi cũng làm nhiễu tín hiệu của thị trường mà người sản xuất dựa vào đó để ra quyết định. Tín hiệu này chính là giá thị trường. Khi bị làm sai lệch, nó sẽ phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh thật sự chỉ dẫn sai việc phân bổ nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế. Do đó, khả năng xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh doanh hiệu quả trong trung và dài hạn của người sản xuất bị hạn chế. Không những thế, các hàng rào phi thuế quan thường đòi hỏi chi phí của nhà nước để duy trì hệ thống điều hành kiểm soát thương mại phi thuế quan. Việc sử dụng các hàng rào phi thuế quan nhằm hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước hầu như không đem lại nguồn thu tài chính trực tiếp nào cho nhà nước, mà thường chỉ làm lợi cho một số doanh nghiệp hoặc ngành nhất định được bảo hộ hoặc được hưởng ưu đãi đặc quyền như được phân bổ hạn ngạch, được chỉ định làm đầu mối nhập khẩu. Điều này còn dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nội bộ nền kinh tế. 3. Phương pháp nghiên cứu Để cung cấp thông tin cho bài viết, tác giả sử dụng phương pháp thu thập tài liệu từ nguồn tài liệu thứ cấp như tạp chí kinh tế, báo cáo chuyên đề khoa học, tài liệu chuyên ngành, hồ sơ lưu trữ về chủ đề liên quan đến bảo hộ thương mại và xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả cũng tiến hành phỏng vấn các chuyên gia xuất khẩu và bảo hộ thương mại, các nhà nghiên cứu kinh tế, các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua các hội thảo, báo cáo chuyên đề hay các buổi giao lưu được tổ chức.Các câu hỏi được đưa ra dưới dạng thảo luậnvấn đề, qua đó các đối tượng được phỏng vấn sẽ trình bày quan điểm, nhận xét hay đưa ra nhận định về xuất khẩu của Việt Nam và bảo hộ thương mại. Nội dung phỏng vấn liên quan đến thực trạng xuất khẩu của Việt Nam những năm gần đây, thành tựu và thách thức của xuất khẩu Việt trên thị trường quốc tế, các vấn đề doanh nghiệp thường gặp phải với bảo hộ thương mại và giải pháp đề ra trước các rào cản từ bảo hộ thương mại kiểu mới. Các thông tin sau khi thu thập sẽ được tổng hợplàm cơ sở lý luậnđể trình bày về sự xuất hiện của các công cụ bảo hộ thương mại kiểu mới cũng như tác động đối với nền kinh tế các nước mà tiêu biểu là Việt Nam.Đối với các số liệu định lượng, tác giả làm tiền đề trong việc phân tích xu hướng kết hợp với các bài phỏng vấn của các chuyên gia kinh tế để đưa ra nhận định, đánh giá đối với bảo hộ thương mại trong giai đoạn hiện nay, từ đó có những giải pháp và kiến nghị thúc nhằm đẩy xuất khẩu Việt Nam. 17
  18. 4. Kết quả nghiên cứu Dựa trên các tài liệu, báo cáo thu thập cũng như bài phỏng vấn các chuyên gia kinh tế về xuất khẩu đã cho thấy có những kết quả đáng ghi nhận về tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây. Cụ thể như sau: 4.1. Thực trạng xuất khẩu Việt Nam những năm gần đây Theo số liệu từ Niên giám thống kê giai đoạn 2010 - 2019 của Tổng cục Thống kê,trị giá hàng hóa xuất khẩu năm 2019 đạt 263,451 tỷ USD, tăng 8,4% (tương ứng 20,49 tỷ USD)so với năm 2018.Trong khi năm 2012, giá trị xuất khẩu chỉ đạt 114,5 tỷ USD. Từ số liệu thống kê cho thấy, giá trị xuất khẩu của Việt Nam tăng dần đều qua các năm.Đây là một tín hiệu tốt cho tình hình xuất khẩu của Việt Nam. Cũng theo thống kê từ Tổng cục Thống kê (2019), trong năm 2019, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam với châu Á tiếp tục chiếm tỷ trọng cao nhất (51,3%) trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Trị giá xuất khẩu trong năm 2019 ở thị trường này là 135,45 tỷ USD, tăng 2,9% so với năm 2018, trong đó Trung Quốc chiếm tỷ trọng cao nhất với 15,7% . Kế đến là thị trường châu Mỹ đạt 73,89 tỷ USD, tăng 27,3% so với năm 2018, riêng Mỹ đạt 61,35 tỷ USD.Kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam với các châu lục khác lần lượt là: châu Âu: 47,27 tỷ USD, tăng 2%; châu Đại Dương: 4,46tỷ USD, giảm7,4% và châu Phi: 3,12 tỷ USD, tăng 8,1% so với năm 2018. Nhìn chung, Mỹ là thị trường lớn nhất của Việt Nam năm 2019, kế đến là hai thị trường EU và Trung Quốc. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2019 sang EU giảm 1%, trong khi Trung Quốc tăng không đáng kể với 0,1% so với năm 2018. Châu Đại Dương cũng tương tự như EU khi giảm 7,4% giá trị hàng nhập khẩu từ Việt Nam trong năm 2019. Trái lại, Mỹ nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam tăng 29,1% so với năm 2019. Hình 1: Xuất khẩu Việt Namgiai đoạn 2010 - 2019 Nguồn: Niên giám thống kê 2010 - 2019 18
  19. Một số nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt Nam năm 2019, theo Tổng cục Thống kê (2019) gồm: điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện; hàng dệt may; giàydépcácloại; máy móc; thiết bị; dụng cụ và phụ tùng khác; nhóm hàng nông sản; gỗ và sản phẩm gỗ; phương tiện vận tải và phụ tùng; hàng thủy sản; gỗ và các sản phẩm gỗ. Trong đó, điện thoại các loại và linh kiện đạt giá trị xuất khẩu cao nhất với 51,38 tỷ USD, tăng 4,4% so với năm 2018. EU, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc là 4 nơi nhập khẩu ngành hàng này nhiều nhất. Đứng thứ hai về kim ngạch xuất khẩu năm 2019 là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện với 35,93 tỷ USD tăng 21,5% so với năm 2018. Các thị trường chính là Trung Quốc, Mỹ, EU, Hồng Kông, Hàn Quốc. Hàng dệt may chiếm vị trí thứ 3 với kim ngạch xuất khẩu đạt 32,85 tỷ USD năm 2019, tăng 7,8% so với năm trước. Tính đến hết tháng 12/2019, Mỹ tiếp tục là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất từ Việt Nam với trị giá đạt 14,85 tỷ USD, kế đến là EU, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc. Một số mặt hàng đáng chú ý khác như: nông sản xuất khẩu trong năm 2019 đạt 16,91 tỷ USD, giảm 4,9% so với 2018 trong đó Trung Quốc vẫn là thị trường lớn nhất, kế đến là EU, ASEAN, Mỹ. Giày dép cũng là mặt hàng đem lại giá trị xuất khẩu cao trong năm 2019 với 18,32 tỷ USD được hai thị trường chính là Mỹ và EU nhập khẩu. Trong khi đó, nhóm hàng nông sản, thủy sản, sắt thép các loại có giá trị xuất khẩu năm 2019 giảm so với 2018 với tỉ lệ giảm lần lượt là 4,9%; 2,8% và 7,4%. Điều này cho thấy mặt hàng nông, thủy sản xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận những thị trường có yêu cầu cao về chất lượng và an toàn thực phẩm. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp, khó đoán định, đặc biệt là những diễn biến của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, xu thế bảo hộ mậu dịch gia tăng song hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn có những chuyển biến tích cực. Thứ nhất, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu ngày càng được cải thiện, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, quy mô các mặt hàng xuất khẩu ngày càng được mở rộng.Theo Tổng cục Thống kê, trong năm 2019 tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm 84,33% tổng kim ngạch xuất khẩu, cao hơn mức 82,87% của năm 2018 và 81% của năm 2017. Các mặt hàng chủ lực khác duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao như xuất khẩu máy vi tính tăng 20,4%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 18,2%; giày dép tăng 12,7%; kim loại thường khác tăng 10,3%; sản phẩm từ sắt thép tăng 9%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 11,9%. Số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên tăng qua các năm, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nếu như năm 2011 có 21 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 81% tổng kim ngạch xuất khẩu, thì đến năm 2019 là 32 mặt hàng. Trong đó có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD và 6 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 92,86% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thứ hai, thị trường xuất khẩu được mở rộng, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã vươn tới hầu hết các thị trường trên thế giới. Ở tất cả các thị trường mà Việt Nam có ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA) đều ghi nhận mức tăng trưởng tốt. Kim ngạch xuất khẩu sang các khu vực thị trường đều đạt mức tăng trưởng dương, như: ASEAN (tăng 1,3%), Hàn Quốc (tăng 8,1%), Nhật Bản (tăng 8,4%), Trung Quốc (tăng 0,1%) (Tổng cụcThống kê, 2019). Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường là thành viên CPTPP đạt mức tăng tốt: xuất khẩu sang Canada đạt 3,86 tỷ USD, tăng 28,2%; xuất khẩu sang Mexico đạt 2,84 tỷ 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2