intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở tiểu học: Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:160

34
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

(BQ) Nối tiếp nội dung phần 1, phần 2 cuốn sách "Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở tiểu học" trình bày các nội dung chương 3 - Bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng tiếng Việt cho học sinh giỏi. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở tiểu học: Phần 2

  1. C H Ư Ơ N G IM BỒI DƯỠNG KIÊN THỨC, KĨ NĂNG TIÊNG VIỆT CHO HỌC SINH GIỎI Bổi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt là một việc làm lâu dài và đóng bộ trong giờ chinh khoa và giờ học tự chọn, trong tất cớ các phân môn Tiếng Việt. Dựa vào mục tiêu và nội dung dạy học tiếng Việt, ta có thể chia phạm vi kiến thức và kĩ nâng tiếng Việt cần bổi dưỡng cho học sinh thành 16 mạch. Vì các nội dung bổi dưỡng học sinh giỏi được xây dựng theo nguyên tắc thực hành, chúng được thiết kế thành hệ thống bài tập nên chúng ta sẽ đi vào xác định các kiến thức và kĩ năng cơ bớn theo từng mạch kiến thức, kĩ năng cần bồi dưỡng cho học sinh, mô tớ, phân tích các kiểu dạng bài tập theo từng mạch kiến thức, kĩ năng này. Đặc biệt, chúng ta sẽ tập trung chỉ ra những điểm tạo ra sự thú vị cua từng kiểu dạng bài tập, chỉ ra những phạm vi kiến thức và kĩ năng cần phới có để giới tùng kiểu dạng bài tập, chỉ ra những điểm cần lưu ý khi hướng dẫn học sinh thực hiện những bài tập này. 1. Ngữ âm - chữ viết - chính tớ - kĩ năng phân tích cấu tạo tiêng và viết đúng chính tớ Các kiến thức liên quan đến ngữ âm, chữ viết, chính tớ gồm: cấu tạo âm tiết, quy tắc chính tớ (quy tắc lựa chọn chữ ghi âm và quy tắc viết hoa). Mạch kiến thức, kĩ năng này gốm các dạng bài tập sau: 1.1. Phân tích câu tạo tiêng (âm tiết) Phân tích cấu tạo âm tiết là một kĩ năng cần có để đọc đúng, đọc trơn "tiếng" và ghi lại đúng "tiếng" - viết đúng chính tớ các "chữ'. Phân tích cấu tạo âm tiết gồm các kiểu bài tập: 1.1.1. Tách tiếng thành các bộ phận: phụ âm đểu, vển, thanh Ở những bài tập yêu cẩu tách tiếng thành phụ âm đẩu và vần, học sinh sẽ gặp khó khăn trong những trường hợp có sự bất hợp lí của chữ viết tiếng Việt. Đó là khi mà âm và kí tự không có quan hệ 1-1, ví dụ trường hợp phụ âm đầu được viết bằng "gi" mà vần lại bắt đẩu bằng "i" như "gì", "giếng", "giết" là trường hợp đặc biệt khó. Vi dụ bài tập sau: Âm đểu của các tiếng được ghi bàng chữ in đậm dưới đây là âm gi? Chúng được viết bằng những con chữ nào? làm gì, giữ gìn, giặc giá, giết giặc, tháng giêng, giêng khơi, gia đinh [41 ]
  2. Âm đầu của tất cớ các tiếng được ghi bằng chữ in đậm ở trên đều là âm "dờ". Nó được ghi là "gi" trong các trường hợp: giữ, giặc, giã, gia. Khi vần bắt đầu bằng "i", âm "dờ" được ghi bằng con chữ "g" như trong các trường hợp: gì, gìn, giết, giêng, giếng. Lúc này một mình con chữ "g" đại diện cho cớ âm "dờ" (cũng lớ đại diện cho cớ chữ "gi"). Đớy cũng chính là một điểm tạo ra sự thú vị. 1.1.2. Tìm các tiếng có cùng vển Những bài tập nâng cao cũng sẽ chọn ngữ liệu là các trường hợp có sự bất hợp lí của chữ viết Tiếng Việt chúng ta, cần lưu ý để học sinh không bị chữ viết đánh lừa trong các trường hợp như "cua/qua", "hoa/qua" (xem Bĩ 2 thông tin 5). Một kiểu bài tập khá thú vị là tìm các tiếng được gieo vần ở trong đoạn thơ. Ngoài ra, dựa vào cách gieo vần có thể tạo trò chơi vui nói câu có vần tự giới thiệu về mình, ví dụ "Em tên là Hoa, em thích ăn quà". Ai phớn ứng chậm không nói được ngay một câu có nghĩa thì bị xem là thua cuộc. 1.1.3. Giải đố chữ Giới đố chữ là bài tập yêu cầu học sinh tìm được từ (chữ) phù hợp với câu đố. Ví dụ: Còn sắc thi để nấu canh Đến khi mất sắc theo anh học trò. Là những gì? Đây là một kiểu bài tập thú vị vì tích hợp được cớ kiến thức về chữ viết ghi âm và sự hiểu biết về nghĩa của từ. Những cách gọi đầu (phụ âm đấu), đuôi (vần hoặc âm cuối), năng, huyền, sắc... tạo ra những đống âm thú vị. 1.2. Viết đúng chính tả Liên quan đến chính tớ có các kiểu bài lập: 1.2.1. Dựa vào quy tắc để viết đúng Khi viết hoa tên người, tên địa lí nước ngoài, tên cơ quan đoàn thể, tên các danh hiệu huân chương, huy chương phới theo quy tắc "viết hoa chữ cái đầu mỗi bộ phận tạo thành tên". Việc thực hiện quy tắc này bị xem là khó vì học sinh khó tách được tên thành các bộ phận để viết hoa chữ cái đầu mỗi bộ phận. Nhũng bài tập kiểu này sẽ thú vị hơn khi chúng ta chọn được những ngữ liệu có tần số chính tớ cao (các từ ngữ cần viết hoa xuất hiện nhiều trong ngữ liệu). Vi dụ bài tập sau được xem là khó và thú vị: Những chữ nào cấn viết hoa trong các cụm từ in nghiêng dưới đây? Vì sao? Bác Hồ nói: "Non sông gấm vóc của chúng ta do phụ nữ ta, trẻ cũng như già [42]
  3. góp phần thêu dệt nên". Tiếp nối truyền thống của Hai Bà Trưng và Bà Triệu, ngày nay, phụ nữ đã có những đóng góp xuất sắc vào sự nghiệp xây dựng và bớo vệ Tổ quốc. Tiểu biểu cho những anh hùng của thời đại mới là 214 cô bác được nhận các danh hiệu cao quý: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là một trong những tổ chức quần chúng lớn mạnh của nước ta. Hội đã được Nhà nưỏc trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: huân chương sao vàng (1985), huân chương độc lập hạng ba (1997), huân chương lao động hạng nhất (1998), huân chương độc lập hạng nhất (2000). (Theo Những người phụ nữ xuất sắc - SGK Tiếng Việt 5) (Bài tập chính tớ trên có trường hợp ngoại lệ: "hạng Nhất", "hạng Ba" 1.2.2. Dựa vào nghĩa để viết đúng Đây là những bài tập chinh tớ ngữ nghĩa. Để chọn đúng dạng thức chữ viết cho những trường hợp này cần có sự hiểu biết về nghĩa từ. Để có những bài tập thú vị có hai cách: lựa chọn ngữ liệu có tần số chính tớ cao, ví dụ bài tập: Ở từng chỗ trống dưới đây, có thể điền chữ (tiếng) gì bắt đẩu bằng d, gi hoặc r? a) Nam sinh ... trong một... đình có truyền thống hiếu học. b) Bố mẹ ... mãi, Nam mời chịu dậy tập thể ... c) Ông ấy nuôi chó ... để ... nhà. d) Tở vừa ...tờ báo ra, đang đọc ... thì có khách. e) Đôi... này đế rất... g) Khi làm bài, không được ... sách ra xem, làm thế ... lắm. Để viết đúng l/n, ngữ liệu sau được xem là hay: Tôi làm nghề chở đò đã năm năm nay. Với chiếc thuyền nan lênh đênh mặt nước, ngày này qua tháng khác, tôi chăm lo đưa khách qua lại trên khúc sông này. Tôi thuộc lòng nơi nào lòng sông nông sâu, nơi nào nước thường chảy xiết. Để viết đúng d/gi/r, những ngữ liệu sau được xem là hay: Lũ nhỏ trò chuyện riu ran Róc rách nước chảy miên man suốt ngày Người cười rúc rích vui thay Rinh rích tiếng dế đêm nay ngoài vườn Ríu ra ríu rít đến trường Răm ran cười nói trẽn đường vui sao Tiếng vỗ tay nghe rào rào Rộn ràng tiếng trống xôn xao trong đẩu [43]
  4. Tiêng sào réo rắt nơi đâu Ra rả tiếng chú ve sểu ngân vang. (Theo Toán Tuổi thơ) Hoặc xây dựng bài tập chính tớ dưới dạng đổ vui - câu đố tìm những từ có hiện tượng chính tớ. Những bài tập chính tớ như tìm các từ láy được bắt đầu bằng "n" hoặc 7" được tổ chức bằng hình thức thi tìm nhanh, thi đặt câu với nhũng từ chứa hiện tượng chinh tớ hay mắc lỗi như chữa viết lẫn g/r cho học sinh miền Tây Nam Bộ sẽ có các câu: "Bắt con cá rô bỏ vào rổ, nó kêu rật rẹt."... chữa lôi lần ị/n cho học sinh phương ngữ Bắc Bộ sẽ có các câu: - Năm nay non nước nơi nơi Ấm đẹp lòng người lúa lổ (trổ) lung linh - LÒI nơ lo lắng nấu nung Luyện lười lanh lợi là lóng lâng lâng - Anh nuôi làm lụng bên bếp lửa, vừa nấu vừa nếm hết nửa nồi. Có một dạng bài tập nâng cao yêu cầu tìm tiếng không có khớ năng tạo từ, tức là tìm những tiếng không cóở trong từ tiếng Việt như: Những tiếng nào sau đây không có trong từ tiếng Việt? rư - dữ - giữ run - đun - giun rân - dàn - giãn rề - dễ - giỗ rung - dung - giung rỗ-dỗ - giỗ rãi - dãi - giãi rứt - dứt - giúi rác - dác - giác rò - dò - giò rã - dã - giã (Đáp án: rư, giẻ, giàn, giung, giứt) Đây là một bài tập khó vì để làm được bài tập này, học sinh cần có vốn từ nhiều đổng thời phới nắm chắc dạng thức chinh tớ của từ. 1.2.3. Kiểu bài tập chữa lỗi chính tả Dạng bài tập này cho sẩn những từ, câu, đoạn viết sai chính tớ, yêu cầu HS chữa lại cho đúng. Bài tập sẽ được tăng độ khó khi có tần số lỗi cao, ví dụ bài tập: Đoạn văn sau đã bỏ đi các dấu câu và viết sai các tên riêng nước ngoài. Hãy viết lại đoạn văn cho đúng chính tớ: Đỉnh é vơ rét trong dãy hi ma lay a là đỉnh núi cao nhất thế giời những người đểu tiên chinh phục được độ cao 8.848m này là ét man hi la rí (người niu di lân) và ten sing no ra gay (một thổ dẩn vùng hi ma lay a) ngày nóc nhà thế giới này bị chinh phục là 29/5/1953. (Theo Tàn Từ điển Bách khoa toàn thư) [44]
  5. Đặc biệt có loại bài chính tớ chữa lỗi dưới dạng bài tập vui, kết hợp chữa các lỗi về lôgic chúng sẽ trở thành các ngữ liệu để tổ chức các trò chơi vui học tiếng. Ví dụ: Mời các bạn nghiên cứu để xem ngoài lỗi chinh tớ còn những lỗi gì nữa? Hãy chữa lại cho đúng: "Dũng dật mình troàng tỉnh rắc... Đúng núc đó, đổng hồ quả lắc treo trên tường củng đổ truồng 1h40'. Bên ngoài, giữa màn đêm tĩnh mịch, vẳng nại tiếng gà mái nhảy ổ: "ò, ó, ũ, o..." Dũng nại đứng bên cửa xổ nhìn ra xán. Ngoài trời tối đen như mực, khiến tro Dũng không nhìn thây di cả. Trên bểu chòi đen kịt không có nấy một gạn máy. Ở góc sân, trú mèo đang nằm cạnh gốc cày càu, nghếch đểu nén ngắm chăng. Bất chợt, Dũng thấy nành lạnh. "Trắc hẳn nà dó mùa đông bắc chán về rồi đây!" - Dũng thểm nghĩ. Dũng quay chỏ lại dường và ngủ tiếp. Xáng mai Dũng còn phải giây xờm để đi nao động hè nữa cơ mà. "Thế mà đã gển một dưdi sáng rồi cơ đấy! Nhanh thật..." (Theo Dương Đức Kiên (Toán Tuổi thơ)) Có 27 chữ viết sai chính tớ cần sửa lại là: giật mình, choàng tỉnh giấc, đúng lúc đó, đố chuông, vẳng lại, Dũng lại đứng, cửa sổ, nhìn ra sân, khiến cho, không nhìn thấy gì, bầu trời, không có lấy, chú mèo, nghếch đẩu lên, ngắm trăng, lành lạnh, chắc hẳn là gió mùa đông bắc tràn về, quay trở lại giường, sáng mai, dậy sớm, lao động, một rưỡi. Lỗi về lôgic: - Đồng hố quớ lắc không đổ chuông vào lúc 1h40'. - Gà mái không nhớyổ vào ban đêm. - Chỉ gà trống mới gáy ò ó o. - Trời đã tối đen như mực thì không thấy mây, không thấy chú mèo và không có trăng được. - Gió mùa đông bắc không thổi vào mùa hè. - Dũng thức giấc là 1h4ơ nhưng ngủ lại lúc 1h30' là vô lí. 2. Đơn vị từ, câu - kĩ năng xác định đơn vị từ câu, phân cắt ranh giới từ và tách đoạn thành câu 2.1. Khái niệm từ- phân cắt ranh giới từ Trong chương trình tiểu học, không có bài li thuyết về khái niệm từ. Như chúng ta đã biết, nhận diện từ trong câu là một vấn đề rất khó của tiếng Việt. Định nghĩa về từ [45]
  6. không thể giới thích được triệt để các trường hợp. Vì vậy, không phới với bất ki tổ hợp nào cũng có thế yêu cầu học sinh tiểu học xác định đó là một từ hay hai từ, không phới bất kì câu nào cũng có thể đưa ra yêu cầu các em phân cắt đơn vị từ. Vi vậy, trước hết, chúng ta phới chọn các từ tiêu biểu, dễ dàng được các nhà Việt Ngữ học cho rằng đó là một từ. Tốt nhất là đưa ra các đoạn văn không có những tổ hợp trung gian, khó xác định là một hay nhiều từ. Các từ đưa ra ở đây được chọn lọc thuộc trường hợp dễ xác định đường ranh giới khi chúng ở trong câu. Đó là trường hợp từ láy, vi dụ: long lanh, xinh xắn, từ ghép ngẫu hợp, ví dụ: tắc kè, mồ hóng. Đó là trường hợp từ ghép điển hình, bao gồm từ ghép có ít nhất một hình vị không độc lập như xanh lè, đỏ ối, thẳng táp, từ ghép biệt lập kiểu như: tai hồng (ốc xe), chân vịt (của tàu thủy), cánh gà (hai bên sân khấu), đểu ruồi (một bộ phận của súng), (quạt) tai voi, (cổ) lá sen,... từ ghép hợp nghĩa cá thể, kiểu như: cơm nước, nhà cửa, thuyền bè, chợ búa,... từ ghép phân nghĩa một chiều gồm các hình vị tự do có nghĩa tạo nên những hình thức cấu tạo chặt chẽ như: máy bay, máy tiện, nhà máy, xe đạp,... các từ ghép Hán Việt kiểu như: chinh quyền, học sinh, giáo viên,... Trẽn thực tế, ít có bài tập chỉ có một yêu cầu tách câu thành từ nhưng để thực hiện những bài tập thuộc các mạch kiến thức - kĩ năng khác, ví dụ tim các từ trong câu theo kiểu cấu tạo đã cho, theo từ loại đã cho, trước hết HS cấn phới phân cắt đúng đường ranh giới từ. Ví dụ, do phân cắt ranh giới từ sai, cho quả xôi, bánh chưng, bành dày là hai từ nên nhiều học sinh không tim được các từ ghép trong hai câu thơ: Dán dâng một quả xôi đểy. Bánh chưng mấy cặp, bánh dày mấy đôi (xem Thông tin 5 - Một số đề thi học sinh giỏi Tiếng Việt). Bài tập về khái niệm từ và phân cắt ranh giới từ dành cho HS giỏi về nội dung này thường có hai dạng sau: 2.1.1. Xác định một tổ hợp hai tiếng nào đó là một từ hay hai từ Vi dụ bài tập nâng cao số 8 thông tin 5. Sộ phận in đậm trong những câu nào là một từ, vì sao? a) Cánh én dài han cánh chim sẻ. b) Mùa xuân đến, những cánh én lại bay về. c) Cánh gà rất ngon. d) Một chị đứng lấp ló sau cánh gà để xem. e) Tay người có ngón dài ngón ngắn. g) Những vùng đất hoang đang chờ tay người đến khai phá. Hai tiếng đã cho bao giờ cũng là hai tiếng có quan hệ chính phụ. Đó là trường hợp khó phân đinh là một từ hay hai từ nhất trong tiếng Việt. Để giúp HS xác đinh [46]
  7. tổ hạp hai tiếng này là một từ hay hai từ, chúng ta cần dựa vào tính chặt chẽ của từ vế mặt cấu tạo, nghĩa và trọng âm. Để xác định tinh chặt chẽ về cấu tạo, chúng ta dùng thao tác chêm xen, ví dụ cánh gà là hai từ khi nói về một bộ phận của con gà nên nó có thể thêm của để thành cánh của gà. Khi là một từ, cánh gà chỉ hai bên màn sân khấu, lúc này nó có kết cấu chặt chẽ, không thể thêm yếu tố nào vào giữa cánh và gà. Để xác định tính chặt chẽ về nghĩa, chúng ta thử xác định có yếu tố (tiêng) nào trong tổ hợp này mờ nghĩa hoặc cớ tổ hợp có sự chuyển nghĩa không. Vi dụ, trong tổ hợp tay người với tư cách là một từ, tay đã mờ nghĩa không còn chỉ một bộ phận của người mà mang nghĩa là người; trong tổ hợp bánh dẻo với tư cách là một từ, dẻo đã mờ nghĩa, gắn rất chặt với bánh để gọi tên một loại bánh nên mới có thể nói được Bánh dẻo này để lâu, cứng như vậy thì còn ăn làm sao được. Để xác định tính chặt chẽ về mặt ngữ âm, chúng ta xác định tổ hợp này có một hay hai trọng âm. Ví dụ cánh gà lúc là một từ được phát âm gần như là canh gà vì lúc này chỉ có gà có trọng âm, cánh không có trọng âm. 2.1.2. Ghép các tiếng đã cho để tạo từ Ví dụ: Cho 3 tiếng thân, thương, mến, hãy tạo thành các từ có hai tiếng. Kiểu bài tập này có thể dùng để tổ chức trò chơi thi tim nhanh, tìm nhiều từ có các tiêng đã cho, nêu ta chọn được ngữ liệu là các tiếng có khớ năng tạo từ lớn. Về li thuyết, với số lượng tiếng là n, khớ năng tạo số lượng từ hai tiếng tối đa sẽ là n(n-1). Ví dụ, với ba tiếng sẽ tạo được nhiều nhất là 6 từ. Chẳng hạn như ví dụ trên sẽ tạo được 6 từ: thân thương, thân mến, thương thân, thương mến, mến thương, mến thăn. 2.2. Khái niệm câu - xác định đơn vị câu Chương trình tiếng Việt mới không đưa ra định nghĩa về câu. Câu là một đơn vị được mặc nhiên thừa nhận như một tiên đề trong dạy học tiếng Việt. Bớn chất của câu là diễn đạt một ý trọn vẹn. Đây là dấu hiệu quan trọng nhất của khái niệm câu. Câu ứng với một kiểu cấu tạo nhất định, một ngữ điệu nhất định (trên chữ viết, câu có dấu hiệu hình thức là mở đầu bằng một chữ viết hoa và kết thúc bằng dấu chấm câu). Bài tập xác định đơn vị câu có dạng phổ biến là: 2.2.1. Tách đoạn thành câu, điền dấu, viết hoa Loại bài tập này thường được dùng nhiều để viết đúng dấu câu, ít được sử dụng trong các đề tiếng Việt nâng cao. Muốn xây dựng các bài tập dành cho học sinh giỏi, cấn tìm được các ngữ liệu là đoạn văn có thể tách thành câu theo nhiều cách khác nhau, ví dụ: [47]
  8. Hay dùng dấu chấm tách đoạn lởi sau thành 3 câu theo hai cách khác nhau và viết hoa cho đúng: Linh vời Minh là đôi bạn thân từ nhỏ hai bạn học chung một lóp từ lớp 1 đến lớp 5 hai bạn đều đạt danh hiệu học sinh giỏi. Về đơn vị câu, bài tập dành cho HS giỏi thường có các kiểu sau: 2.2.2. Bài tập yêu cấu nhận diện một đoạn lời là cáu hay không là câu Thực tế cho thấy HS thường nhầm trạng ngữ là câu, nhầm ngữ danh từ là câu do không phân biệt được định ngữ và vị ngữ. Lại có trường hợp HS không nắm được có những động từ nhất thiết phới có bổ ngữ nên khi viết các em đã sớn sinh ra những câu thiếu thành phẩn. Vì vậy, về nội dung, các đoạn lời đưa ra để xét là câu hay chưa thường tập trung dự phòng các loại lỗi này. Vi dụ: Những đoạn lời nào sau đây có thể thêm dấu chấm để thành câu? Vì sao? - Mặt nước loang loáng như gương - Trên mặt nước loang loáng như gương - Những bông hoa giẻ thơm ngát ấy - Những bông hoa giẻ thơm ngát ấy được dành để tặng cô giáo - Những cô bé ngày nào nay đả trỏ thành - Những cô bé ngày nào nay đã trưởng thành Về phương pháp, khi luyện tập nên để các đoạn lời là câu, không là câu ở cạnh nhau theo từng cặp để học sinh dễ phát hiện ra những điểm khác nhau, nhưng khi đưa vào đề thi, để tăng độ khó, thường người ta không để các cặp đối lập cạnh nhau. 2.2.3. Sắp xếp từ, cụm từ thành câu Loại bài tập này chỉ trở nên thú vị khi các bộ phận đưa ra để sắp xếp sẽ tạo ra được nhiều câu khác nhau (ngữ liệu đa trị), vi dụ bài tập: Ghép các bộ phận sau thành câu theo các cách có thể: trẽn cành, chim, liu lo, hót. Vời bốn bộ phận trên, có thể ghép để tạo được 10 câu khác nhau: 1) Trên cành, chim hót liu lo. 6) Chim trên cành hót liu lo. 2) Trên cành, liu lo chim hót. 7) Chim liu lo hót trên cành, 3) Trẽn cành, chim liu lo hót. 8) Chim trẽn cành liu lo hót. 4) Chim hót liu lo trên cành. 9) Liu lo trên cành chim hót. 5) Chim hót trên cành líu lo. 10) Líu lo chim hót trên cành. [48]
  9. 2.2.4. Chữa cảu sai thành câu đúng Cũng trên nguyên tắc dự phòng các lỗi câu, người ta xây dựng các bài tập chữa lỗi câu sai ngữ pháp. Sự thú vị của bài tập nâng cao là ở chỗ nhờ những ngữ liệu đa trị, ta có thể chữa thành câu theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ: - Hãy chữa câu sai sau đây thành câu đúng bằng hai cách khác nhau: Khi em nhìn thấy ánh mắt trìu mến, thương yêu của Bác. - Dòng sau chưa thành câu, hãy chữa lại để thành câu theo ba cách khác nhau: Những bạn học sinh giỏi đứng ỏ hàng đểu tiên ấy. Ở ví dụ thứ hai, ta có thể chữa dòng đã cho thành câu theo ba cách: cách thứ nhất bỏ "ấy", cách thứ hai xem đoạn lời đã có là chủ ngữ, thêm vị ngữ để tạo câu, ví dụ thêm "là những bạn đã đạt giới trong kì thi học sinh giỏi thành phố", cách thứ ba đưa "ấy" chuyển ra trước, đứng vào sau "Những bạn học sinh giỏi" để có câu "Những bạn học sinh giỏi ấy đứng ở hàng đầu tiên". Để tăng độ thú vị của các dạng bài tập về câu, có thể thêm yêu cầu nêu nghĩa và tác dụng của câu: Câu nói này có tác dụng gì? Câu này nhằm hỏi (yêu cầu, kể...) về điều gì? Đây là dạng bài tập mới của chương trình tiếng Việt 2000. Để làm đuạc những bài tập này, HS phới dịch cớu đã có thành một câu đồng nghĩa với một động từ chỉ hoạt động nói năng: "Câu này nhằm kể (tớ, khẳng định, giới thiệu, mời, nhờ, hỏi, nói lên...)". 3. Làm giàu vốn từ - kĩ năng nắm nghĩa, mỏ rộng vốn từ và sử dụng từ Làm giàu vốn từ là mục đích của các bài học mở rộng vốn từ theo chủ đề và tất cớ các bài học liên quan đến từ. Đó là những bài học theo mạch các lớp từ vựng, mạch cấu tạo từ và mạch từ loại. Các bài tập làm giàu vốn từ rất phong phú, tựu trung được sắp xếp thành ba nhóm sau: 3.1. Nhóm bài tập dạy nghĩa 3.1.1. Bài tập yêu cểu chỉ ra nghĩa của các yếu tố mang nghĩa (tiếng, từ, cụm từ, thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ) Những bài tập này yêu cầu giới nghĩa các từ ngữ cụ thể, nhất là các thành ngữ. Ví dụ: - Em hiểu "lao động trí óc" nghĩa là gì? - Em hiểu các thành ngữ dưới đây như thế nào: a) Cểu được ước thấy. b) Ước sao được vậy. [49]
  10. c) ước của trài mùa. d) Đứng núi này trông núi nọ. Tục ngữ cũng trở thành một ngữ liệu để dạy nghĩa. Ví dụ: Mỗi câu tục ngữ sau đây khuyên người ta điều gì? a) Lửa thửvàng, gian nan thửsức. b) Nước lã mà vã nên hồ Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan. c) Có vất vả mời thanh nhàn Không dưng ai dễ cểm tàn che cho. Bài tập dạy nghĩa rất thú vị. Giới nghĩa từ có thể trở thành một yêu cầu bổ sung cho bất kì một bài tập nào liên quan đến từ. Nó tạo ra sự mới mẻ không lặp lại cho những bài tập về từ. Chẳng hạn, sau khi yêu cẩu HS tìm các từ có tiếng "mới" cho một bài tập cấu tạo từ, chúng ta yêu cầu các em phân biệt nghĩa và cách dùng của hai từ "mời tinh" và "mới mẻ" hoặc sau khi HS tìm được các từ láy có tiếng "nhỏ" (nho nhỏ, nhỏ nhắn, nhỏ nhen), chúng ta yêu cầu các em phân biệt nghĩa của chúng thì những bài tập này sẽ trỏ nên thú vị hơn. Ngữ liệu nâng cao cho kiểu bài tập này là lớp từ được dùng theo nghĩa bóng, lớp từ đa nghĩa, lớp từ Hán Việt, đặc biệt là các thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ. Ví dụ: - Nêu nghĩa của nhà trong nhà rộng, nhà có năm người, đời nhà Trển, nhà văn, nhà tôi đi vắng. - Tìm các nghĩa khác nhau của từ đánh. - Tham quan nghĩa là gì? - Thiên trong thiên phú, thiên biến vạn hoa, thiên vị có những nghĩa gì? 3.1.2. Chỉ ra các thế đối lập về nghĩa của các yếu tố mang nghĩa (tiếng, từ, cụm từ, thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ) Ngữ liệu nâng cao của các bài tập này có thể là những từ có cùng yếu tố cấu tạo, cũng là lớp từ đổng nghĩa, ví dụ phân biệt nghĩa của cển cù, cển kiệm, phân biệt nghĩa của kết quả, hậu quả, thành quả. Đó cũng có thể là những từ đa nghĩa, ví dụ "Nghĩa của từ quả trong quả ổi, quả cam, quả bưởi có gì khác so với quả trong quả tim, quả đồi, quả đất?". Đó cũng có thể là những từ đồng nghĩa, gần nghĩa. Ví dụ: Phân biệt nghĩa của từ chết, từ trển, hi sinh. r 50 Ì
  11. 3.2. Bài tập hệ thông hoa vốn từ (mở rộng vốn tù) Đây là dạng bài tập để phát triển vốn từ cho HS, cũng là dạng đề đo sự phong phú về vốn từ và tính hệ thống của vốn từ của HS. Chúng gồm các kiểu sau: 3.2.1. Bài tập tìm từ Những bài tập này yêu cầu HS kể ra những từ thuộc một trường liên tưỏng nào đó. Trước hết đó là những từ cùng chủ đề. Ví dụ, kể tên nhũng đồ dùng học tập, kể ra những đức tính tốt của người học sinh. Đây là dạng bài tập đặc trưng của nhóm mở rộng vốn từ theo chủ đề. Ngoài ra, những bài tập này cũng yêu cầu tìm những từ cùng lớp từ vựng (tìm từ đống nghĩa, từ trái nghĩa, tìm từ cùng từ loại, tiểu loại, tìm từ có cùng đặc điểm cấu tạo, tìm các thành ngữ, tục ngữ có nội dung nào đó) Ví dụ: "Tìm các từ có tiếng nhân với nghĩa là người. Những bài tập này là những bài tập mở, rất thuận lợi để tổ chức thực hiện dưới dạng các trò chơi khi chúng ta chọn các ngữ liệu là những từ ngữ có tính "năng sớn" cao, ví dụ: tìm từ có tiếng ăn, tìm từ có tiếng sáng, tìm các thành ngữ tớ gương mặt, tìm các thành ngữ chỉ các kiểu chạy, tìm các thành ngữ có từ mèo... 3.2.2. Bài tập phân loại từ Bài tập phân loại từ là những bài tập cho sẵn các từ, yêu cầu HS phân loại theo một căn cứ nào đó. Bài tập có thể cho sẵn các từ rời, cũng có thể để các từ ở trong câu, đoạn. Dựa vào các căn cứ để phân loại, cũng chính là các căn cứ để tìm từ, các bài tập phân loại từ có thể chia thành những bài tập phân loại từ theo chủ đề, theo các nhóm nghĩa, phân loại từ theo các lớp từ vựng, theo từ loại, tiểu loại của từ, phân loại từ dựa vào cấu tạo. Các bài tập phân loại từ có thể có các kiểu: Cho từ rời, dựa vào nghĩa, phân nhóm, ví dụ: - Cho một số từ sau: vạm võ, trung thực, đôn hậu, tểm thước, mảnh mai, béo, thấp, trung thành, gểy, phản bội, khoe, cao, yếu, hiền, cứng rắn, giả dối. Dựa vào nghĩa, xếp các từ trên vào hai nhóm và đặt tên cho từng nhóm. - Cho các từ: bánh dẻo, bánh nướng, bánh cốm, bánh nếp, bánh rán, bánh ngọt, bánh mặn, bành cuốn, bánh gai. Hãy chia các từ trên thành ba nhóm và chỉ ra những căn cứ dùng để chia. Cũng có thể cho từ trong câu, đoạn, yêu cẩu dựa vào nghĩa phân nhóm. [51 ]
  12. Ví dụ, yêu cầu HS tìm các từ đồng nghĩa trong đoạn văn. Đặc biệt, trong các tài liệu nâng cao thường có những bài tập yêu cầu loại bỏ từ lạc ra khỏi nhóm. Ví dụ: Gạch bỏ từ không cùng nghĩa với các từ còn lại trong dãy từ sau: a) Tổ quốc, đất nước, giang sơn, dân tộc, sông núi, nước nhà, non sông, nước non. b) Quê hương, quê cha đất tổ, quê hương bản quán, quê mùa, nơi chôn rau cất rốn, quê hương xứ sỏ. 3.3. Bài tập tích cực hoa vốn từ (dạy sửdụng tù) Dạng bài tập để luyện kĩ năng sử dụng từ cũng là để đo năng lực, khớ năng sử dụng từ của HS giỏi gồm các kiểu sau: 3.3.1. Bài tập yêu cểu thay thế từ, điền từ Bài tập điền thế có thể cho trước từ cần điển, thế hoặc yêu cầu HS tự tìm từ trong vốn của mình. Tính thú vi của bài tập này sẽ được nâng lên khi yêu cầu HS lựa chọn giữa những từ cùng yếu tố cấu tạo, những từ đồng nghĩa, gần nghĩa, từ nào dùng chính xác nhất, có hiệu quớ giao tiếp nhất. Ví dụ: Thay từ được gạch dưới bằng một từ láy để các câu văn sau gợi tớ hơn: Gió thổi manh. Lá cây rơi nhiều. Từng đàn cò bay nhanh trong mảy. Loại bài tập điển từ được dùng cho học sinh giỏi thường yêu cầu học sinh nhận ra được sự khác nhau về nghĩa và cách dùng của các từ đồng nghĩa, gần nghĩa, ví dụ: Chọn tự lập hay tự lực điền vào chỗ trống trong mỗi câu sau cho thích hợp: Anh ấy sống ... từ bé. Chúng ta phải... làm bài. Đề nâng cao có thể đưa thêm yêu cầu giới thích vì sao lựa chọn một từ nào đó. Nếu từ được chọn là một từ có giá trị nghệ thuật thì thực chất bài tập đã yêu cầu HS đánh giá giá trị của từ như một dạng đề cớm thụ văn học. 3.3.2. Bài tập tạo ngữ Đây là những bài tập yêu cầu học sinh đưa ra những kết hợp từ đúng. Ví dụ: nối nào nức với những từ ngữ có thể kết hợp được: đến trường, học bài, đón Tết, [52]
  13. trả lời, chuẩn bị biểu diễn, nghe giảng. Để có những bài tập dành cho học sinh giỏi cần chọn những ngữ liệu là những từ học sinh khó giới nghĩa bằng định nghĩa hoặc là những từ có giá trị gợi tớ, gợi cớm. Ví dụ: Những từ ngữ nào có thể kết hợp được với từ nhấp nhô? 3.3.3. Bài tập đặt câu với từ Ví dụ: Đặt câu với từng từ tớ hoạt động của thú rừng: rình, rượt, vồ, quắp. Bới tập đặt câu với từ là một bài tập mỏ. Những bài tập đặt câu với từ dành cho HS giỏi thường chọn những từ có khớ năng kết hợp thấp. Đặc biệt, những bài tập này sẽ trỏ nên thú vị hơn khi đề bài có thêm một yêu cầu nào đó: hoặc quy định chức vụ ngữ pháp của từ được dùng để đặt câu, ví dụ: "Đặt ba câu với từ năm nay sao cho chúng giữ chức vụ trạng ngữ, chủ ngữ, nằm ở bộ phận vị ngữ', hoặc yêu cầu đặt câu có quy định về mục đích nói, tức là quy định về nghĩa. Đây là loại bài tập xây dựng những tình huống để HS đặt mình vào hoàn cớnh nói năng, sớn sinh ra những câu đã được dự tính trước. Những bài tập này có thể được thực hiện bằng hình thức trò chơi đóng vai. Đây là nội dung để xây dựng loại trò choi học tập, các hình thức thi "Ai tài đối đáp". 3.3.4. Bài tập viết đoạn vàn với từ Những bài tập này yêu cầu học sinh viết đoạn văn với những từ đã dno. Ví dụ: "Em hãy viết bốn câu về người bạn của em, cố gắng sử dụng những từ sau..." Dạng bài tập đặt câu, viết đoạn với từ dành cho học sinh giỏi là những bài tập yêu cầu học sinh luyện viết câu, đoạn hay, yêu cầu các em tự tìm những từ ngữ và cách diễn đạt để từ những câu chưa gợi tớ, gợi cớm, viết thành những câu gợi tớ, gợi cớm; từ những câu chỉ có nội dung sự việc đến những câu có tình cớm, cớm xúc. Đây là những bài tập có tính chất tổng hợp từ ngữ - ngữ pháp - luyện viết văn. Ví dụ từ câu có nội dung sự việc "Chúng em đã đến thăm quảng trường Ba Đình, lăng Bác được dựng ỏ đây" trở thành câu có nội dung liên cá nhân, có cớm xúc như: "Thếlà chúng em đã được đến thăm quảng trường Ba Đình lịch sử. Chính nơ đây, toàn dân ta đã chung sức xây nên nơi an nghỉ cuối cùng của Người". 3.3.5. Bài tập chữa lỗi dùng từ Đây là những bài tập yêu cầu học sinh chữa lỗi dùng từ sai. Bài tập chữa lỗi dùng từ cũng là một dạng bài tập thú vị. Chúng sẽ càng thú vị hơn khi chúng ta sử dụng các lỗi dùng từ phổ biến ở học sinh. Đó là các loại lỗi dùng từ sai do nhầm các từ gần âm, gần nghĩa, do không nắm khớ năng kết hợp [53]
  14. của từ... ví dụ bài tập: "Chỉ ra từ dùng sai trong câu sau và chữa lại cho đúng: Trong học kì I vừa qua, bạn Cường có một số yếu điểm cển phải khắc phục". Bài tập chữa lỗi dùng từ cũng sẽ trở nên thú vị hơn khi chúng ta đưa thêm yêu cầu giới thích vì sao dùng từ như thế lại sai. Chẳng hạn bài tập chỉ ra từ dùng sai trong câu sau và chữa lại cho đúng: "Bạn Hùng chạy bon bon" có thể là bài tập cho HS lớp 2-3 nhưng nếu thêm yêu cầu giới thích vi sao dùng từ như thế bị xem là sai thì sẽ trở thành bài tập dành cho HS giỏi cớ ở lớp 4, 5. Có thể đưa vào nhóm bài tập nâng cao của mạch làm giàu vốn từ dạng bài tập yêu cầu HS đánh giá giá trị của việc sử dụng từ. Đây cũng là một dạng bài tập quan trọng của mạch "Cớm thụ văn học" nên sẽ được trinh bày sau. 4. Các lớp từ vựng - kĩ năng nhận diện, nắm nghĩa và sử dụng từ theo các lớp từ vựng Các lớp từ vựng là tên tạm gọi để nói về mạch kiến thức, kĩ năng liên quan đến các vấn đề lí thuyết về từ mà phân môn Luyện từ và câu hình thành cho HS. Đó là các lớp từ: đổng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, đa nghĩa. Cũng như mạch kiến thức, kĩ năng làm giàu vốn từ, các bài tập theo mạch các lớp từ vựng cũng có hai nhóm: bài tập hệ thống hoa vốn từ và bài tập tích cực hoa vốn từ. Chúng có các dạng sau: 4.1. Bài tập cho sẵn từ, yêu cẩu xác định lớp từ Những bài tập này đưa ra các từ rời hoặc một câu, đoạn, yêu cầu HS tìm các từ theo từng lớp từ. Ví dụ: - Xếp các từ sau theo từng nhóm từ đồng nghĩa: trái, quả, chết, hi sinh, toi mạng, quy tiên, tàu hoa, xe hoa, xe lửa, mây bay, phi cơ, tàu bay, vùng trời, ăn, xơi, không phận, hải phận, vùng biển, mời, tọng, đáp, ngốn; xinh, bé; kháu khỉnh, đẹp, nhỏ, loát choắt, rộng, rộng rãi, bao la, bát ngát, vui vẻ, mênh mông, phấn khỏi, đàn bà, phụ nữ. - Tìm từ đồng âm khác nghĩa trong câu sau: Một nghề cho chín còn hơn chín nghề. - Trong câu tục ngữ "Chết trong còn hơn sống đục" có nhũng cặp từ nào trái nghĩa? 4.2. Cho từ, yêu cẩu tìm từ khác cùng lóp từ vụng Những bài tập này cho sẵn một từ, yêu cẩu học sinh tim từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa hoặc đổng âm với nó. Vi dụ: [54]
  15. - Tim từ đồng nghĩa (hoặc trái nghĩa) với từ lễ phép. - Đặt hai câu để có từ đường đồng âm. Về lí thuyết, chúng ta cần phân biệt các từ đổng âm với một từ nhiều nghĩa: trừ kiểu đồng âm khác từ loại như bàn (trong cài bàn) và bàn (trong bàn công việc); cày (trong cái cày) và cày (trong cày ruộng), là những từ đồng âm đặc biệt, có quan hệ về nghĩa. Nghĩa của các từ đồng âm không có quan hệ với nhau, ví dụ đường (để đi) và đường (có vị ngọt để ăn) không có quan hệ về nghĩa. Chúng là những từ đồng âm. Trong khi đó, các nghĩa trong từ nhiều nghĩa có quan hệ với nhau và chúng ta có thể chỉ ra quy luật chuyển nghĩa của chúng. Ví dụ từ đường 1: từ nghĩa "nơi để người, xe cộ đi lại" đến nghĩa "nơi chuyển tới dòng điện" (trong đường điện) và "hướng mà sự vật phát triển" (trong đường cách mạng) có quy luật chuyển nghĩa. Từ đường 2: từ nghĩa "chất có vị ngọt, vị người ta thích" đến nghĩa "lời nói phỉnh nịnh, dễ ưa, dễ làm người khác xiêu lòng" (trong lời đường mật) có quy luật chuyển nghĩa. Ngữ liệu thú vị cho dạng bài tập này là những từ đa nghĩa tạo cho bài tập có nhiều đáp án, tạo điều kiện có thể tổ chức các trò thi đố tìm nhanh, tìm nhiều từ. Ví dụ: Tìm các từ đông nghĩa vối từ tươi, tìm các từ trái nghĩa vối từ tươi. Mục đích dạy các lớp từ vựng cho HS không chỉ giúp các em nhận diện ra các lốp từ này mà điều quan trọng là giúp các em sử dụng từ đúng, tiến tới sử dụng từ hay. Vì vậy, ứng dụng kiến thức về các lớp từ vựng, chúng ta có thể xây dựng thành hai nhóm bài tập để bồi dưỡng cho học sinh giỏi: 4.2.1. Bài tập giúp HS cảm nhận được cái hay của việc dùng từ Ví dụ: Từ tím ngát trong câu "Hoa sầu riêng nở tim ngái' có gì hay? Sở dĩ ví dụ này được xem là bài tập thuộc mạch "Các lớp từ vựng" vì để chỉ ra cái hay của tím ngát phới đặt nó trong thế đối lập với tím ngắt và ngan ngát là những từ gần nghĩa với nó. 4.2.2. Những bài tập giúp lựa chọn sử dụng từ hay Ví dụ: Chọn 1 trong 3 từ mọc, nhô, ngoi điển vào chỗ trống để có câu văn miêu tớ: - Mặt trời... lên. Thay từ được gạch dưới bằng một từ láy để các câu văn trở nên gợi tớ hơn: - Những giọt sương đêm nằm trên những ngọn cỏ. [55]
  16. - Đêm ấy, trăng sáng lắm. Đười trăng dòng sông trông như dát bạc. Bài tập có thể kèm thêm yêu cầu giới thích vì sao dùng từ như thế lại hay, ví dụ: Chọn 1 trong 3 từ rơi, rụng, rắc em cho là hay nhất để điền vào chỗ trống trong câu thơ sau và giới thích vi sao em chọn từ đó: Mỗi mùa xuân thơm lừng hoa bưởi ... trắng vườn nhà những cành hoa vương. Khi kèm thêm yêu cầu giới thích vi sao dùng từ như thế lại hay thì đó cũng là một dạng bài tập cớm thụ văn học - cớm thụ cái hay của việc dùng từ. 5. Cấu tạo từ - kĩ năng nhận diện, nắm nghĩa, tạo từ và sử dụng từ theo kiểu cấu tạo Về mặt lí thuyết, để phân loại, nhận diện từ theo cấu tạo, phới nắm chắc các kiến thức sau: Xét về cấu tạo, dựa vào số lượng tiếng, người ta chia từ ra thành từ có một tiếng (từ đơn) và nhóm từ có hai tiếng trỏ lên (từ đa âm, ở tiểu học gọi là từ phức). Để phân loại nhóm từ đa âm, phới dựa vào mối quan hệ giữa các tiếngở trong từ: Nếu các tiếng trong từ có quan hệ về nghĩa thì đó là từ ghép, nếu các tiếng trong từ chỉ có quan hệ về âm (có một bộ phận âm đầu, vần hay cớ khuôn tiếng (âm đầu và vần), cớ tiếng giống nhau) thì đó là từ láy. Như vậy, mối quan hệ giữa các tiếng trong từ là căn cứ để phân biệt từ ghép và từ láy. Ngoài những trường hợp rất tiêu biểu cho từ ghép như nhà cửa, sách vỏ, xe đạp, học sinh... tiêu biểu cho từ láy như xanh xao, đẹp đẽ, nhỏ nhắn..., trong thực tế, khi phân loại một từ nào đó theo cấu tạo, có các trường hợp không nằmở phần tâm của bớng phân loại, thường được xem là trường hợp trung gian không tiêu biểu cho mỗi loại, khiến cho HS gặp nhiều khó khăn, dễ mắc sai lầm khi phân loại nên cần lưu ý như sau: - Có những từ mà các tiếng vừa có quan hệ về nghĩa vừa có quan hệ về âm như tươi tốt, thúng mủng, đi đứng... thì xếp vào từ ghép theo nguyên tắc ưu tiên về nghĩa, lúc này sự giống nhau về âm được xem là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. - Có những từ đứng trên quan điểm lịch đại thì cớ hai tiếng cùng có nghĩa nhưng theo quan điểm đồng đại thì có một tiếng mất nghĩa. Những từ này được chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất giữa hai tiếng có quan hệ về âm như chùa chiền, chim chóc, đất đai... thì được xếp vào từ láy. Nhóm thứ hai là những từ có một tiếng mất nghĩa nhưng giữa hai tiếng không có quan hệ về âm thì lại được xếp vào từ ghép như tre pheo, bếp núc, xe cộ... [56]
  17. - Ở tiểu học không nên đặt vân đề phân loại đối với các từ thuần Việt như tắc kè, mồ hôi, bổ kết... hay từ vay mượn như mì chinh, xà phòng, mít tinh... là những từ mà cớ hai tiếng trong từ dù xét theo quan điểm đồng đại hay lịch đại đều không có quan hệ cớ về nghĩa lẫn về âm. Vì vậy, những từ này sẽ không được dùng làm ngữ liệu để ra bài tập khi ôn luyện lí thuyết cấu tạo từ. Nếu học sinh chủ động đưa các từ này ra và yêu cầu phân loại thì giáo viên cần giới thích cho các em rằng những từ đó là một loại từ ghép đặc biệt, các em sẽ được học sau. - Các kiểu từ như ồn ào, ẩm ĩ, ọc ạch, ồn en... đều được xem là từ láy và được giới thích là các tiếng trong từ giống nhau ở chỗ vắng khuyết phụ âm đầu. Ngoài ra, khi xét từ láy, lưu ý không bỏ qua trường hợp các từ láy phụ âm đầu nhưng trên dạng thức chữ viết lại được viết bằng các con chữ khác nhau như cong queo, cuống quýt, kinh coong... Cuối cùng, cần lưu ý không xếp nhầm các trường hợp như cển mẫn, chuyên chinh... vào từ láy vì tuy giữa các tiếng có hình thức ngữ âm giống nhau nhưng đây là những từ Hán Việt, mỗi tiếng đều có nghĩa và giữa các tiếng trong từ có quan hệ về nghĩa. Vì vậy, mặc dù chưa nắm nghĩa của từng tiếng nhưng nếu biết đó là từ Hán Việt thì phới thận trọng khi phân loại. - Dựa vào tính chất quan hệ về nghĩa giữa các tiếng, từ ghép lại được chia thành từ ghép tổng hợp và từ ghép phân loại. Trong từ ghép tổng hợp, các tiếng có quan hệ đẳng lập, trong từ ghép phân loại; các tiếng có quan hệ chính phụ. Nghĩa của từ ghép tổng hợp mang tính khái quát, tổng hợp, còn trong từ ghép phân loại có một yếu tố cụ thể hoa, cá thể hoa nghĩa cho các yếu tố còn lại. Khi phân loại cụ thể các kiểu từ ghép nên lưu ý trường hợp đồng âm (một hình thức ngữ âm) ứng với hai nghĩa khác nhau như bút mực, sáng trong... Ví dụ sáng trong là từ ghép tổng hợp trong câu: Người chiến sĩ ấy có tấm lòng sáng trong như ngọc, lúc này sáng trong cũng có thể đổi thành trong sáng. Sáng trong là từ ghép phân loại trong những câu như Nhờ mua bống đèn sáng trong, đừng mua bóng sáng đục (sáng mờ). Những trường hợp cần lưu ý đã nêu ỏ trên là ngữ liệu nâng cao yêu cầu nhận diện kiểu từ theo cấu tạo. Để phù hợp với đối tượng HS tiểu học, khi đưa những trường hợp này và yêu cầu xếp loại từ theo cấu tạo, chúng ta nên "cớnh báo", chỉ dẫn để học sinh lưu ý. Ví dụ ở bài tập "Gạch bỏ từ không thuộc nhóm cấu tạo với các từ còn lại trong dãy từ sau: nàng nôi, nóng nảy, nứt nẻ, nống nàn, nơm nớp". Việc trong dãy từ có một từ không phới là từ láy đã được báo trước trong lệnh bài tập. Ngữ liệu tạo được sự thú vị của bài tập nhận diện lớp từ theo cấu tạo là những trường hợp đồng âm - cấu tạo từ như cánh chim (có khớ năng là một từ ghép [57]
  18. hoặc là hai từ đơn), may máy (có khớ năng là một từ ghép hoặc một từ láy), bút mực, nhà đất (có khớ năng là một từ ghép tổng hợp hoặc một từ ghép phân loại). Bài tập nhận diện, phân loại từ đơn, từ ghép (phân loại, tổng hợp), từ láy gốm các dạng sau: 1) Cho sẵn từ rời, yêu cầu xếp loại, ví dụ: Hãy xếp các từ thật thà, bạn bè, hư hỏng, bạn học, chăm chỉ, gắn bó, bạn đường, ngoan ngoãn, giúp đõ, bạn đọc, khó khăn vào ba nhóm: - Từ ghép tổng hợp - Từ ghép phân loại - Từ láy 2) Cho sẵn một đoạn, một câu, yêu cầu học sinh tìm một hoặc một số kiểu từ theo cấu tạo có trong đoạn, câu đó, ví dụ: Tìm các từ láy có trong ba câu sau: Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chi khi như người. (Thép Mới) Với những bài tập này, trước khi đi vào phân loại từ theo cấu tạo, học sinh phới vạch được đúng ranh giới từ. Nhiều lúc, vấn đề mấu chốt lại là vấn để phân cắt đơn vị từ. 3) Cho sẵn một yếu tố cấu tạo từ (một tiếng), yêu cầu học sinh tìm từ có tiếng gốc đó theo những kiểu cấu tạo khác nhau. Ví dụ: - Tìm những từ có thể kết hợp với sáng để tạo thành từ ghép (tổng hợp, phân loại) và từ láy. - Điển tiếng thích hợp vào chỗ trống để có: Các từ ghép Các từ láy mềm... mềm... xanh... xanh... khỏe... khỏe... lạnh... lạnh... vui... vui... Những bài tập yêu cầu học sinh từ một tiếng đã cho tạo từ theo kiểu cấu tạo nào đó sẽ tăng độ thú vị khi chúng ta tìm được những tiếng (cũng là một từ đơn) có khớ năng tạo từ lớn, vi dụ, bài tập "Tìm các từ có tiếng mờ sao cho được nhiều [58]
  19. kiểu cấu tạo nhất" là một trò thi đố thú vị vì học sinh sẽ tìm được nhiều từ có các kiểu cấu tạo khác nhau, ví dụ: mờ (từ đơn), mờ nhạt (từ ghép tổng hợp), mờ mắt (từ ghép phân loại), mờ mịt (láy phụ âm đầu), lờ mờ (láy vần), mờ mờ (láy tiếng), mập mà mập mờ (láy tư). Ngoài dạng bài tập nhận diện, phân loại từ theo cấu tạo, nhũng dạng bài tập được xem là hay thường được dùng nhiều cho học sinh giỏi gồm: 1) Bài tập yêu cầu chỉ ra sự khác nhau về nghĩa giữa các từ phức có cùng yếu tố cấu tạo, sự khác nhau về nghĩa giữa một từ ghép và các tiếng cũng là những từ đơn tạo nên từ ghép đó. 2) Bài tập chỉ ra cái hay của việc dùng từ, đặc biệt là từ láy. 3) Bài tập yêu cầu lựa chọn, sử dụng từ, đặc biệt là từ láy, có hiệu quớ. Những dạng bài tập này đã được bàn đến ỏ mạch "Làm giàu vốn từ". 6. Biện pháp tu từ - kĩ nằng nhận diện, sử dụng biện pháp tu từ 6.1. Nhận diện biện pháp tu từ Đây là những bài tập yêu cầu HS nhận ra biện pháp tu từ (so sánh, nhân hoa) trong đoạn vãn, đoạn tho. Bài tập cũng có thể yêu cẩu HS chỉ ra từng bộ phận cấu tạo nên từng biện pháp tu từ. Đề thi học sinh giỏi ít khi chỉ có yêu cầu nhận diện biện pháp tu từ. 6.2. Bài tập cấu trúc yêu cẩu tạo lập biện pháp tu từ Thuộc dạng bài tập này là những bài tập yêu cầu HS lắp ghép hoặc thêm bộ phận còn thiếu để tạo biện pháp tu từ. Những bài tập được xem là thú vị trong nhóm này là những bài tập dùng hình ớnh hoặc từ ngữ để gợi ra các mối quan hệ so sánh, ví dụ bài tập sau: Quan sát từng cặp sự vật được vẽ đười đây rồi viết những câu có hình ảnh so sánh các sự vật trong tranh (xem mục Một số bài tập tiếng Việt nâng cao, bài 25). Ta đã biết mục đích của so sánh là làm cho đối tượng được so sánh trở nên gần gũi, sinh động và có đặc điểm được đánh giá, nhận định trỏ nên thuyết phục hơn. Đối tượng đưa ra làm chuẩn để so sánh phới được thừa nhận đạt chuẩn nào đó. Vì quớ bóng cụ thể hơn trăng, chữ s cụ thể hơn hình dáng đất nước Việt Nam nên trong bài tập này, bức tranh 1 chỉ có thể nói "Trăng tròn như quả bóng" mà không nói "Quả bóng tròn như trăng". Ở bức tranh 4 chỉ có thể nói "Nước Việt Nam như hình chữ S" mà không nói "Chữ s giống hình nước Việt Nam". Ở hình 2, hoa đạt hai chuẩn: tươi và đẹp nên hai so sánh được tạo ra là "Mặt đẹp như hoa", [59]
  20. "Mặt tươi như hoa" mà không thể nói "Hoa như mặt người". Đặc biệt thú vị là bức tranh số 3, vì đèn có chức năng soi sáng, trăng sao đạt chuẩn về vẻ đẹp nên trên thực tế sẽ tạo được nhiều so sánh đúng: "Những ngọn đèn như những ngôi sao" và "Vểng trăng (ngôi sao) như ngọn đèn soi đường cho chúng ta đi". Khi dạy biện pháp tu từ, chúng ta cần làm cho học sinh hiểu được mục đích, giá trị của biện pháp tu từ chứ không chỉ hình thức của chúng. Vì không chú ý đến mục đích của so sánh nên nhiều học sinh khi giới bài tập trong đề thi học sinh giỏi yêu cẩu viết câu có hình ớnh so sánh từ các cặp từ ngữ chiếc đĩa bạc - vểng trăng, tấm thảm vàng - cành đồng lúa chín đã tạo ra những câu không rõ mục đích so sánh để làm gì như Chiếc đỉa bạc như vểng trăng, Tấm thảm vàng như cánh đồng lúa chín. 6.3. Bài tập yêu cểu phân tích, đánh giá giá trị của biện pháp tu từ Bớn thân biện pháp tu từ là thú vị, nó tạo nên giá trị nghệ thuật của ngôn ngữ văn chương. Vì vậy dạng bài tập này xuất hiện nhiều trong đề thi học sinh giỏi. Ví dụ: Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ sau và nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó: Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng (Nguyễn Khoa Điềm) Yêu cầu phân tích, đánh giá giá trị của biện pháp tu từ chính là một kiểu bài tập cớm thụ văn học, vì vậy chúng sẽ được bàn kĩ khi nói về mạch kiến thức, kĩ năng 15 - cớm thụ văn học, rèn kĩ năng đọc hiểu. 6.4. Bài tập sáng tạo - yêu cẩu HS sử dụng biện pháp tu từ để luyện viết câu văn có hình ánh, có cảm xúc Ví dụ: Viết ba câu văn có hình ớnh nhân hoa để tớ: - Giọt nắng sớm - Cánh cổng trường - Lá cờ giữa sân trường Những bài tập này là những bài tập sáng tạo, yêu cẩu học sinh sử dụng biện pháp tu từ để luyện viết câu văn có hình ớnh, có cớm xúc, chúng được sử dụng nhiều khi luyện viết văn. Vì vậy, những bài tập này được sử dụng nhiều ở mạch kiến thức, kĩ năng 16 - Làm vãn - rèn kĩ năng viết đoạn, bài văn. [60]
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2