Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Phương pháp của Các Mác<br />
trong việc phát hiện bản chất của cái đẹp<br />
<br />
Đỗ Thị Minh Thảo*<br />
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,<br />
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam<br />
<br />
Nhận ngày 16 tháng 11 năm 2013,<br />
Chỉnh sửa ngày 24 tháng 2 năm 2014; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 3 năm 2014<br />
<br />
<br />
<br />
Tóm tắt: Ngày nay khi tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì đã từ lâu tri<br />
thức về kinh tế được xem là nền tảng chung cho sự phát triển xã hội. Trong thực tế, tỷ lệ thành<br />
công của lớp tri thức đặc thù về kinh tế luôn đóng vai trò là nhân tố sáng tạo của vô số các thương<br />
hiệu hàng hóa trong đời sống xã hội hiện đại. Trong khi đó, tỷ lệ thất bại lại có thể nằm ngay trong<br />
chính lớp tri thức kinh tế chung, nếu nó không được vận hành để trở thành tri thức kinh tế đặc thù.<br />
Từ câu chuyện về tri thức đặc thù kinh tế, có thể rút ra những bài học từ di sản triết học - mỹ học<br />
của C. Mác, trong đó lịch sử của cái đẹp (thuộc về lớp tri thức đặc thù) đã được tiếp cận đồng hành<br />
với vấn đề kinh tế (nền tảng chung cho sự phát triển đời sống xã hội). Điều này có ý nghĩa phương<br />
pháp luận rõ rệt trong nhận thức duy vật về lịch sử chống lại những hạn chế trong nhận thức của<br />
chủ nghĩa duy vật kinh tế (khi coi kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất trong lịch sử xã hội). Đã<br />
từ lâu, cái đẹp được coi là thước đo chỉ phẩm chất con người, là thước đo của con người trong thế<br />
giới đối tượng, luôn đóng vai trò là sức bật mới của kinh tế. Bởi vì, tựu chung lại thì kinh tế sẽ<br />
chẳng là gì nếu không hướng tới mục tiêu vì con người, mục tiêu xây dựng xã hội loài người ngày<br />
một tốt đẹp hơn. C.Mác chính là một trong những bậc thầy vĩ đại nhất của nhân loại, đã sử dụng<br />
phương pháp luận của cái chung để phát hiện và tiếp cận đến phương pháp luận của cái đặc thù.<br />
Hơn nữa C.Mác còn xác lập cái đẹp như một phạm trù đòn bẩy của kinh tế qua luận điểm: “... con<br />
người cũng xây dựng theo các quy luật của cái đẹp” [1]. Qua phạm trù cái đẹp, chúng ta hoàn toàn<br />
có thể lý giải tốt bản chất con người, xã hội loài người từ cả hai nguồn gốc: xã hội và nhân văn.<br />
Từ khóa: Tri thức đặc thù về kinh tế, cái đẹp thuộc về lớp tri thức đặc thù, chủ nghĩa duy vật kinh<br />
tế, phương pháp luận của cái đặc thù, cái đẹp là sức bật mới của kinh tế.<br />
<br />
<br />
<br />
Dẫn nhập* khác trong việc nghiên cứu bản chất của các<br />
hiện tượng xã hội bằng phương pháp phát hiện<br />
Trong lĩnh vực của cái đẹp luôn tồn tại cái cái “logic đặc thù của đối tượng đặc thù” [2],<br />
logic đặc thù của bản thân nó như một đối xuất phát từ khởi điểm là một hành động,<br />
tượng đặc thù. Vượt qua tất cả các triết gia C.Mác đã đặt nền tảng cho nguyên lý mỹ học<br />
của chủ nghĩa Mác về nguồn gốc lao động của<br />
_______ cái đẹp. Theo Mác, chính lao động đã sáng<br />
* ĐT: 84-979344068<br />
Email: dominhthao508@gmail.com tạo ra bản thân cái đẹp.<br />
43<br />
44 Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53<br />
<br />
<br />
<br />
Trong toàn bộ mục đích cuối cùng mà bất người chỉ có xã hội loài người mới có thể một<br />
cứ một triết gia vĩ đại nào cũng đều hướng mình đứng giữa tất cả sự tồn tại trong vũ trụ<br />
đến, đó chính là tri thức về cái đặc thù. Nó đòi hướng đến lý tưởng hoàn mỹ.<br />
hỏi rằng, việc nhận thức cần hướng tới toàn bộ Ở Hêghen, tri thức về cái đặc thù là cả<br />
thực tiễn trong tất cả các mặt, các hình thái một sự vận động và phát triển của thực tiễn<br />
phong phú của nó. Cùng với I.Cantơ1 và tinh thần, của ý niệm tuyệt đối liên tục vượt<br />
Ph.Hêghen2, C.Mác là một trong số các triết bỏ chính bản thân mình để có thể đưa cái<br />
gia lớn của nhân loại có tư duy rất rõ ràng chung (ý niệm tuyệt đối) “hóa thân” trong cái<br />
trong đường hướng tìm kiếm tri thức đặc thù riêng (các hình thức vật chất, hay tính hình<br />
về cái đẹp. Để có được tri thức về cái đặc thù, tượng của nghệ thuật). Quá trình tự vượt bỏ<br />
thì tri thức về cái chung chính là điểm khởi này (phủ định của phủ định) là nhằm vươn<br />
đầu, là nền tảng. Ý tưởng của I.Cantơ hướng đến trình độ tối cao nhất của nó trong phạm<br />
đến là phạm vi của khoái cảm thẩm mỹ. Từ vi đặc thù - đó chính là tinh thần tuyệt đối,<br />
lĩnh vực của cái chủ quan, I.Cantơ tìm thấy tri hợp nhất tinh thần khách quan và tinh thần<br />
thức đặc thù của cái đẹp. Do đó, cái đẹp nằm chủ quan, hợp nhất cái chung và những cái<br />
gọn trong mối tương quan giữa quan năng giác riêng. Lĩnh vực tinh thần sẽ vận động thâm<br />
tính (nhận thức luận chung) với quan năng cảm nhập vào trong các lĩnh vực vật chất, để trở<br />
giác giác quan (năng lực chủ thể tính); giữa thành một thể thống nhất giữa nội dung (ý<br />
tính tất yếu chủ quan (cái chung) với nhân tố niệm tuyệt đối) và các hình thức vật chất<br />
cá nhân của thị hiếu thẩm mỹ (cái riêng). Ở truyền tải, thống nhất giữa cái tuyệt đối và<br />
I.Cantơ, tri thức về cái đặc thù cũng đạt đến sự cái tương đối ở giai đoạn nghệ thuật. Sau đó<br />
ý niệm tuyệt đối lại rời bỏ lĩnh vực vật chất<br />
thống nhất giữa lý tưởng thẩm mỹ và bản chất<br />
để vươn tới những hình thức phổ biến hơn.<br />
của chủ thể. Lý tưởng của cái đẹp chỉ có thể là<br />
một đối tượng duy nhất mà mục đích sự tồn tại Ở Mác, tri thức về cái đặc thù được xem<br />
của nó nằm ngay trong bản thân nó. Theo xét gắn liền với thực tiễn vật chất của đời sống<br />
Cantơ, bản chất ấy chỉ có thể có ở con người. xã hội. Tri thức về cái đặc thù là tri thức về bản<br />
Chỉ có con người mới tự mình xác định được chất xã hội của con người thông qua các đặc<br />
mục đích của mình qua lý trí. Nếu như con điểm hình thái của nó. Vì vậy, việc phân tích<br />
người có vay mượn mục đích từ tri giác bên lịch sử xã hội đơn thuần chỉ dựa trên phương<br />
ngoài, thì con người cũng có thể kết hợp chúng diện kinh tế là thể hiện hình thái cực đoan của<br />
chủ nghĩa duy vật kinh tế, và đó là một hệ<br />
với những mục đích của chính mình và trong<br />
thống đơn tử. Theo quan niệm duy vật về lịch<br />
sự phù hợp với chúng, để có thể đánh giá một<br />
sử, nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến<br />
cách thẩm mỹ. Vì vậy, Cantơ cho rằng chỉ có<br />
cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống<br />
con người mới có lý tưởng cái đẹp và qua con<br />
hiện thực. C.Mác và Ph.Ăngghen chưa bao giờ<br />
_______ bênh vực cho chủ nghĩa duy vật kinh tế, theo<br />
1<br />
Immanuen Cantơ (1724-1804) nhà triết học, mỹ học đó nhân tố kinh tế được coi là nhân tố quyết<br />
Đức thuộc đường hướng duy tâm chủ quan. Người đặt định duy nhất. Do đó, luận điểm trên không<br />
nền móng cho triết học cổ điển Đức và có ảnh hưởng<br />
nên được hiểu sai theo hướng này.<br />
mạnh mẽ tới các lý thuyết triết học, mỹ học phương Tây<br />
hiện đại. Để phát hiện cái “logic đặc thù của đối<br />
2<br />
G.V.Ph.Hêghen (1770-1831) là nhà triết học, mỹ học<br />
duy tâm khách quan, đại biểu vĩ đại của triết học cổ điển<br />
tượng đặc thù”, Mác đã tiến hành luận chứng<br />
Đức.<br />
Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 45<br />
<br />
<br />
thông qua một loạt quan điểm, được rút ra từ các lớp đối tượng xã hội đặc thù của các khoa<br />
phương pháp biện chứng duy vật như sau: học xã hội hiện đại như kinh tế - chính trị học,<br />
văn hóa học, xã hội học, tôn giáo học, hình thái<br />
Quan điểm hình thái học nghệ thuật, nghệ thuật học, mỹ học v.v...<br />
Có thể nhận thấy ngay như trong tác phẩm “Tư<br />
Phương pháp hình thái được C.Mác kế<br />
bản” của C.Mác, logic biện chứng của bộ “Tư<br />
thừa từ trong hạt nhân phép biện chứng của<br />
bản”, đã thể hiện điểm đặc sắc của nó - đó<br />
Hêghen. Do C.Mác không chỉ nhìn thấy trong<br />
chính là logic biện chứng của quan điểm<br />
phép biện chứng của Hêghen quan điểm lịch sử<br />
hình thái, khi Mác phân tích một loạt các vấn<br />
và quan điểm phát triển, mà còn kế thừa ở phép<br />
đề kinh tế, lao động và giá trị. Cũng trên quan<br />
biện chứng của Hêghen quan điểm hình thái3.<br />
điểm hình thái, Mác và Ăngghen đã muốn<br />
Tuy nhiên, nếu như ở Hêghen, quan điểm hình<br />
chấm dứt tình trạng mà các nhà triết học trước<br />
thái mới chỉ dừng lại ở cách hiểu về “hình<br />
Mác thường gặp phải, đó là coi triết học như là<br />
thức” và tập trung khảo sát trên ba giai đoạn<br />
khoa học của khoa học, do đó đem đối lập triết<br />
phát triển của hình thức nghệ thuật (hình thức<br />
học với khoa học tự nhiên và khoa học xã hội,<br />
nghệ thuật tượng trưng, hình thức nghệ thuật<br />
đối lập “triết học tự nhiên” với khoa học tự<br />
cổ điển và hình thức nghệ thuật lãng mạn) phù<br />
nhiên, “triết học về lịch sử” với khoa học lịch<br />
hợp với những hình thức đặc thù của cái đẹp,<br />
sử, “triết học về nghệ thuật” với nghệ thuật<br />
thì ở C.Mác quan điểm hình thái đã đạt đến độ<br />
học....<br />
chín muồi khi ông khảo sát trong toàn bộ lịch<br />
sử xã hội để từ đó xây dựng nên quan niệm duy Với việc tiếp cận đến bản chất của cái đẹp<br />
vật về lịch sử. Động thái này đã có thể mở ra theo quan điểm hình thái, C.Mác đã khái quát<br />
cả một đường hướng tiếp cận hình thái học trên một số khía cạnh phương pháp luận của việc<br />
nghiên cứu đối tượng đặc thù như sau:<br />
_______<br />
3<br />
Khác với Hêghen mới chỉ sử dụng tư duy hình thái của Thứ nhất, thực chất của việc phân tích các<br />
phép biện chứng ở cách hiểu về “hình thức”, C.Mác đã sử hiện tượng xã hội bằng nguyên lý về tính hệ<br />
dụng phương pháp hình thái như một ưu thế của phép<br />
biện chứng duy vật trong việc chỉ ra các lớp cấu tạo có thống lại luôn biểu hiện đặc điểm ở các hình thái<br />
tính hệ thống của xã hội (lao động, giá trị, kinh tế, cái chất lượng xã hội4. Ở phạm trù “Lao động”, có<br />
đẹp). Như vậy, quan điểm hình thái trong quan niệm duy<br />
vật về lịch sử là quan điểm cho phép nghiên cứu, tiếp cận<br />
hai biểu hiện đặc điểm của hình thái chất lượng<br />
đối tượng từ nhiều lớp, nhiều dạng thức, biểu hiện dưới xã hội đó là: hình thái kinh tế, tức là phương thức<br />
nhiều trạng thái hay sự biểu hiện của các mặt cấu tạo. tồn tại xã hội ở dạng đời sống sản xuất vật chất,<br />
“Hình thái” trước hết chính là các mặt “hình thức”. Tuy<br />
nhiên hình thái không đơn thuần chỉ là hình dạng, hình và hình thái thẩm mỹ, tức là cái đẹp như là<br />
thức. Nó còn có nghĩa là sự cấu tạo trong một tính chỉnh phương thức tồn tại của bản thể con người. Đây<br />
thể, tính hệ thống xã hội (formation). Xem cách dùng<br />
trong cụm từ “die ökonomische Gesellschaftsformation”<br />
thực chất là hai hình thái chất lượng xã hội lớn<br />
(hình thái kinh tế xã hội) hay formation socio- nhất của lao động (TG nhấn mạnh). Cả hình thái<br />
économique (hình thái kinh tế xã hội) (Từ điển thuật ngữ kinh tế và hình thái thẩm mỹ đều tồn tại dưới hai<br />
triết học - chính trị Nga - Việt (có chú thêm tiếng Pháp)<br />
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970, tr.87) dạng thức: quan hệ và đời sống. Quan hệ sở dĩ<br />
Theo V.P Cu-dơ-min, C.Mác đã nghiên cứu xã hội là được coi là một hình thái đời sống, vì nó thực<br />
một loại hệ thống hữu cơ xác định, phát triển theo những<br />
quy luật của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Với _______<br />
4<br />
ý nghĩa đó, hình thái là một kiểu hay một “loại” cơ chế xã Hình thái chất lượng xã hội là khái niệm dùng để chỉ<br />
hội có tính lịch sử. (xem V.P.Cu-dơ-min: Nguyên lý tính các lớp hình thái kết tinh giá trị của lao động xã hội.<br />
hệ thống trong lý luận và phương pháp luận của C.Mác, Hêghen cho rằng chất lượng là “cái đo lường nội tại”<br />
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.23). (Khoa học logic).<br />
46 Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53<br />
<br />
<br />
<br />
chất là những quan hệ sống, và đời sống sở dĩ thẩm mỹ nói chung và nghệ thuật nói riêng trở<br />
được coi là một tính thực tại, vì nó vận hành tổng thành hoạt động thụ động ngay trong tính nội<br />
hòa (toàn bộ) các hình thái quan hệ ở dạng chiều tại của lịch sử phát triển của tinh thần đã ôm<br />
sâu của kinh nghiệm sống của bản thể hay tồn tại trọn lấy lịch sử phát triển của các lực lượng vật<br />
con người. Khi đi sâu vào phân tích từng mặt, chất. Theo Mác, đó chính là “Phép biện chứng<br />
cũng như khi xem xét mối quan hệ giữa hai hình duy tâm lộn đầu ngược xuống đất”.<br />
thái kinh tế và cái đẹp, C.Mác đều nghiên cứu ở Phương pháp biện chứng duy vật của Mác<br />
cả hai dạng thức: quan hệ và đời sống. Ông chưa tỏ rõ tính ưu thế của nó trong việc xác lập vị trí<br />
bao giờ tách quan hệ ra khỏi phạm vi đời sống nền tảng của lao động cho mọi tiến trình hoạt<br />
nói chung, cũng như chưa bao giờ tách quan hệ động vật chất và hoạt động tinh thần được nảy<br />
sản xuất ra khỏi đời sống sản xuất nói riêng. Điều sinh từ trên cái cơ sở chung đó. Và như vậy,<br />
này cũng được thấy ở “người tiền nhiệm” trước lao động sáng tạo thẩm mỹ nói chung, nghệ<br />
Mác - Tsécnưsepxki. Nhà triết học - mỹ học duy thuật nói riêng, trở thành hoạt động tự do, chủ<br />
vật nhân bản Nga thế kỷ XIX này đã luôn đặt rõ động ngay trong tính nội tại và trên bình diện<br />
mối quan hệ giữa nghệ thuật với đời sống hiện phổ quát của lịch sử phát triển của các lực<br />
thực, cùng với việc đưa ra tuyên ngôn dưới dạng lượng vật chất, ôm trọn lấy cái lịch sử phát<br />
đời sống của cái đẹp: “Cái đẹp là cuộc sống”. triển của các lực lượng tinh thần. Ở Mác, chính<br />
Còn qua bộ “Tư bản”, C.Mác đã phát hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đã cải<br />
ra tính chất hai mặt hình thái trong hình thái biến phương pháp biện chứng duy tâm của<br />
của lao động ở quan hệ kinh tế, đó là: hình thái Hêghen.<br />
giá trị sử dụng và hình thái giá trị trao đổi. Trong lời tựa bộ “Tư bản”, C.Mác đã giải<br />
Trong bức thư gửi Ph.Ăngghen để thông báo thích về điểm này. Ông cho rằng phương pháp<br />
về việc đã hoàn tất công việc của tập 1 bộ “Tư biện chứng của mình chẳng những khác căn<br />
bản”, C.Mác đã viết như sau: “Điều hay nhất bản với phương pháp biện chứng của Hêghen,<br />
trong cuốn sách của tôi là 1. Tính chất hai mặt mà còn đối lập hẳn với phương pháp đó. Đối<br />
của lao động, được nhấn mạnh ngay trong với Hêghen, sự vận động của tư duy, mà<br />
chương đầu, tuỳ theo lao động được biểu hiện Hêghen coi là một chủ thể độc lập dưới cái tên<br />
ra trong giá trị sử dụng hay trong giá trị trao ý niệm, là đấng sáng tạo ra hiện thực, còn hiện<br />
đổi (toàn bộ nhận thức về các sự kiện đều dựa thực chỉ là hình thức biểu hiện của ý niệm. Đối<br />
trên điểm này...) [3]. với Mác thì trái lại, vận động của tư duy chẳng<br />
Giá trị của phương pháp phân tích tính chất qua chỉ là cái phản ánh của vận động hiện thực<br />
hai mặt về hình thái của lao động, ở Mác, đó được chuyển vào và biến đổi trong bộ óc của<br />
chính là thể hiện tính ưu việt, tính vượt trội của con người.<br />
phương pháp biện chứng duy vật trong việc Việc phân tích tính chất hai mặt của lao<br />
phân tích những cơ sở của hoạt động thực tiễn động trong hình thái hàng hóa cũng được Mác<br />
của con người khi tạo ra lịch sử của chính chỉ ra: “Thoạt tiên hàng hóa thể hiện ra trước<br />
mình. Điều này khác với Hêghen, ở phương mắt chúng ta như là một cái gì đó có hai mặt:<br />
pháp biện chứng duy tâm của Hêghen, hình giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Sau đó chúng<br />
thái thẩm mỹ chẳng qua cũng chỉ là một trạng ta lại phát hiện ra rằng, khi biểu hiện ra trong<br />
thái tha hóa của tinh thần tuyệt đối ở trình độ giá trị thì lao động không còn giữ những đặc<br />
phát triển của nghệ thuật. Lao động sáng tạo<br />
Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 47<br />
<br />
<br />
trưng mà nó có với tư cách là kẻ sáng tạo ra tiền, - thì lại là người lao động sản xuất, bởi vì<br />
giá trị sử dụng. Tôi là người đầu tiên đã chứng người nữ ca sĩ đó sản xuất ra tư bản” [5].<br />
minh một cách có phê phán tính chất hai mặt C.Mác là người đầu tiên đã chứng minh<br />
ấy của lao động chứa đựng trong hàng hóa” tính chất hai mặt thuộc đặc tính chất lượng của<br />
[4]5. lao động (mặt đời sống sản xuất vật chất như là<br />
Thứ hai, về mặt hình thái chất lượng xã hội phương thức tồn tại xã hội) và mặt thẩm mỹ<br />
lớn thứ hai của lao động sau mặt kinh tế đó trên phương diện sáng tạo cái đẹp như là<br />
chính là mặt thẩm mỹ, tức là cái đẹp và cũng là phương thức tồn tại con người viết hoa, mà<br />
phương thức tồn tại bản thể dưới dạng đặc thù Mác gọi là bản thể của con người [6].<br />
(cái bản thể của con người). C.Mác đã sớm Như vậy, bằng việc phân tích các mặt hình<br />
phát hiện ra tính chất xung đột từ hai mặt của thái chất lượng của một loạt các hiện tượng xã<br />
hình thái thẩm mỹ trong điều kiện phương thức hội như lao động, kinh tế, giá trị, và cái đẹp...,<br />
sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là: hình thái lao Mác đã thực hiện các thao tác phân tích khoa<br />
động tự do sáng tạo mang tính loài và hình thái học trên một tổng thể hệ thống. Thực chất, cái<br />
lao động sản xuất bị tha hóa. đẹp là một hình thái giá trị lao động thực tiễn.<br />
Lao động nhìn từ quan điểm hình thái bao Đây là một định nghĩa về cái đẹp mà chúng ta<br />
gồm hai mặt hay hai hình thái: lao động sản có thể rút ra thông qua phương pháp phát hiện<br />
xuất (mặt kinh tế) và lao động tự do sáng tạo bản chất cái đặc thù của Mác, là kết luận quan<br />
(mặt thẩm mỹ). Biểu hiện trong bản chất con trọng mà chúng ta có thể rút ra từ những phân<br />
người nằm ở phương thức tồn tại bản thể của tích khoa học của Mác. Kết luận này về bản<br />
con người đó là: hình thái lao động sản xuất chất của cái đẹp như là một hệ đặc điểm cấu<br />
(mặt kinh tế, phương thức tồn tại xã hội) và trúc tổng hòa của hệ thống, là một định nghĩa<br />
hình thái lao động tự do (sáng tạo theo các quy mang ý nghĩa phương pháp luận được rút ra,<br />
luật của cái đẹp). Tính chất hai mặt của cái đẹp chứ không phải là điểm xác định khởi đầu cho<br />
biểu hiện trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật việc nghiên cứu. Sự khác biệt ở đây là, từ điểm<br />
trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản khởi đầu của việc nghiên cứu, cái đẹp hiện ra<br />
chủ nghĩa cũng biểu hiện qua hai hình thái: như là một giá trị, một kết quả của lao động<br />
hình thái nghệ thuật sản xuất và hình thái nghệ (lao động sáng tạo ra cái đẹp). Còn ở kết luận<br />
thuật không sản xuất, thống nhất trên nền tảng mang ý nghĩa phương pháp luận được rút ra thì<br />
lao động sản xuất và lao động không sản xuất. cái đẹp chính là một dạng tổng thể của các<br />
“Người nữ ca sĩ - C.Mác viết - tự mình bán lấy hình thái giá trị lao động thực tiễn6.<br />
lời ca của mình là một người lao động không Về phương diện giá trị, C.Mác đã phân<br />
sản xuất. Nhưng cũng nữ nghệ sỹ ấy, được chủ tích một cách hợp đề giữa hai hình thái giá trị:<br />
gánh hát mời và bắt phải hát để cho hắn vơ giá trị kinh tế và giá trị cái đẹp của lao động.<br />
_______ Trong giá trị kinh tế, lao động lại biểu ra cụ<br />
5<br />
Theo tác giả bài viết thì ý hình thái của C.Mác ở đây là thể trong hình thái của hàng hóa ở hai hình<br />
ý ẩn, vì cần phải xét một cách tổng thể những phân tích<br />
có tính hình thái của C.Mác ở các tác phẩm tiêu biểu như: _______<br />
“Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844” và “Tư bản”. Ví 6<br />
Theo tác giả bài viết thì một cấu tạo tổng thể giá trị lao<br />
dụ như có chỗ Mác lại viết: “Những hình thái đầu tiên của động thực tiễn của cái đẹp có thể bao gồm nhiều lớp hình<br />
lao động, còn mang tính chất bản năng của một con vật” thái (vật chất - tinh thần - thân thể - cảm quan - lý trí -<br />
(C.Mác, Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, tình cảm) chứ không phải chỉ đơn thuần là giá trị tinh<br />
1980, t.III, tr.260). thần hay giá trị vật chất.<br />
48 Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53<br />
<br />
<br />
<br />
thái giá trị: giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Khi phân tích những đặc điểm hệ thống,<br />
Còn trong hình thái giá trị của cái đẹp, lao chỉ có thể phát hiện ra những chất lượng hệ<br />
động lại biểu hiện ra cụ thể ở hai hình thái giá thống nhờ sự phân tích khoa học. Bởi vì những<br />
trị: giá trị tự do sáng tạo (giá trị tạo lập cái chất lượng hệ thống là phức tạp nhất và thường<br />
bản thể của con người, tức tồn tại người, khó có thể quan sát trực tiếp được chúng. Hơn<br />
thước đo chỉ phẩm chất con người, bản chất thế nữa, sự phân tích khoa học phải bao trùm<br />
con người) và giá trị sản xuất vật phẩm đẹp. toàn bộ hệ thống nói chung. Mác đã đưa ra<br />
luận điểm về cơ sở chung của các hoạt động xã<br />
Quan điểm hệ thống hội. Sản xuất là khâu trọng tâm trong toàn bộ<br />
hoạt động của con người. Về mặt lịch sử, sản<br />
Ở Mác, quan điểm hình thái và quan điểm<br />
xuất luôn luôn là phương thức xã hội của tồn<br />
hệ thống lại luôn gắn kết chặt chẽ với nhau.<br />
tại vật chất của loài người. Đời sống sản xuất -<br />
Theo V.P Cu-dơ-min thì: “Như vậy, khái niệm<br />
như C.Mác từng khẳng định - cũng là đời sống<br />
differentia specifica được C.Mác sử dụng rộng<br />
rãi trong những điều kiện của các hệ thống xã có tính loài. Đó là đời sống đẻ ra đời sống.<br />
hội là sự diễn tả đồng thời cả tính hệ thống của Phương thức hoạt động sinh sống bao hàm toàn<br />
các hiện tượng xã hội lẫn những đặc điểm hình bộ đặc tính của một chủng nhất định, tính loài<br />
thái lịch sử - cụ thể của chúng. Khi bút chiến của nó, và hoạt động tự do, có ý thức là đặc tính<br />
với Hêghen về bản chất và đặc điểm của các loài của con người. Bản thân đời sống chỉ biểu<br />
hiện tượng xã hội, Mác viết: “... Sự giải thích hiện ra là phương tiện sinh sống. Vì vậy, chính<br />
mà trong đó không vạch ra được differentia trong khi cải biến thế giới vật thể mà con người<br />
specifica (sự khác biệt đặc thù - B.T) thì không lần đầu tiên đã thực sự tự khẳng định mình là một<br />
phải là sự giải thích”, bởi vì nếu việc xem xét sinh vật có tính loài. Sự sản xuất đó là đời sống<br />
chỉ dẫn tới chỗ nghiên cứu cái phổ biến trong các có tính loài tích cực của con người. Nhờ đời sống<br />
hiện tượng thì sự xem xét ấy chỉ mang lại cái vẻ sản xuất, giới tự nhiên biểu hiện ra là tác phẩm và<br />
bề ngoài của sự nhận thức thực sự; chừng nào ta là thực tại của con người.<br />
chưa nhận thức được bản chất đặc thù của những Nếu coi các nền tảng nhu cầu vật chất là vị<br />
đối tượng nghiên cứu thì nói chung ta chưa nhận trí chất lượng hàng một của lao động, thì loại<br />
thức được bản thân chúng” [7]. chất lượng hàng hai là chất lượng chức năng,<br />
Từ quan điểm hình thái và quan điểm hệ quy định sự chuyển dịch vị trí định danh hàng<br />
thống, C.Mác đã đồng thời chứng minh: một của bản thân sự vật - vật chất sang nhiệm<br />
Một là, bản chất của các hiện tượng xã hội, vụ chức năng của chúng.<br />
trong đó có cái đẹp được chứng minh bằng Dạng thức tồn tại vật chất thuộc bản tính<br />
nguyên lý tính hệ thống. Bản chất của cái đẹp vật thể tự nhiên không phải là bản chất ứng cho<br />
xã hội, và bản chất cái đẹp của chính con người toàn bộ cái đẹp. Cũng như vậy, sản xuất vật<br />
xã hội thuộc vị trí hàng ba của chất lượng cấu chất dù quyết định phương thức tồn tại của con<br />
tạo chung của hệ thống xã hội như là những<br />
người, nhưng những đặc điểm chất lượng vật<br />
chất lượng hệ thống tổng hòa (tổng hợp, toàn<br />
chất lại không thể quyết định đối với toàn bộ<br />
thể, toàn bộ và tổng thể thẩm mỹ).<br />
bản chất của cái đẹp. Bản chất thứ hai do con<br />
Hai là, bản chất xã hội của cái đẹp ở vị người cấp cho thế giới đối tượng một hoạt<br />
trí đặc thù của nó trong tính cặp với phạm trù động chức năng cũng không phải là bản chất<br />
kinh tế. ứng cho toàn bộ cái đẹp. Trong tính đặc thù<br />
Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 49<br />
<br />
<br />
của nó, bản chất của cái đẹp xã hội nằm ở vị trí vực xã hội. Con người biểu hiện tính loài của<br />
hàng ba của đặc điểm chất lượng hệ thống, mình ở hoạt động sản xuất vật chất, ở ý thức và<br />
thống nhất với bản chất xã hội của con người, sự hợp tác với nhau trong sản xuất xã hội. Mác<br />
tức là bản chất tổng hòa, tổng hợp, tổng thể, cho rằng con người muốn làm triết học, nghệ<br />
hình thái, quan hệ và dưới dạng đời sống của thuật... trước hết cần phải ăn, uống, ở, mặc.<br />
xã hội. Trên nền tảng của nền sản xuất xã hội là sự vận<br />
Như vậy, bản chất hàng ba trong tính đặc động của các hệ thống kinh tế chính trị, sự hình<br />
thù của cái đẹp có thể được xem xét một cách thành nhà nước pháp lý và hệ thống tiểu kiến<br />
tổng thể bởi các quan hệ sống với bản chất trúc thượng tầng trên một cơ sở hạ tầng tương<br />
hàng một và hàng hai, và được xem xét một ứng với nó.<br />
cách tổng thể bởi dạng thức đời sống bao gồm C.Mác đã nhìn thấy cái tiền đề đầu tiên của<br />
cả dạng thức cấu trúc vật thể, cả dạng thức quan điểm duy vật lịch sử về những quá trình<br />
chức năng và dạng thức bản thể sống của con xã hội ở sự phân biệt cái chung và cái đặc thù<br />
người trong lý tưởng thẩm mỹ về một bản trong các quá trình đó. Với Mác, tri thức về<br />
chất hợp nhất giữa cái khách quan và cái chủ thực tiễn vật chất của một nền sản xuất đời<br />
quan. sống vật chất xã hội mới chỉ là điểm khởi đầu<br />
cho việc nhận thức toàn bộ các vấn đề về bản<br />
Bản chất của cái đẹp, do đó, là sự thống<br />
chất con người, về lịch sử xã hội con người.<br />
nhất giữa cái cần thiết của cấu trúc dạng vật<br />
Hay nói một cách khác thì đó mới là tri thức về<br />
thể, vật chất tự nhiên hoặc cơ cấu vật chất xã<br />
cái chung, cái bản chất chung của xã hội loài<br />
hội với cái có ích ở dạng chức năng do con<br />
người, cái tính quy định chung đối với sự tồn<br />
người cấp cho vật thể, với bản thể người mang tại con người. Nằm trong nền tảng của tri thức<br />
đặc trưng tính hệ thống, tính tổng hòa và tính chung về đặc tính “loài” chung của con người<br />
tổng thể thẩm mỹ của hệ thống xã hội (đó là xã hội. Tuy nhiên, Mác hiểu cái tính quy định<br />
các dạng cấu trúc tổng thể phổ quát của cái đẹp chung của bản thân nền sản xuất vật chất<br />
xã hội như: “Chân - Thiện - Mỹ”). không phải là một trạng thái phi lịch sử (như<br />
Quan điểm hệ thống từ đó đưa đến quan những gì Mác đã phê phán nhà kinh tế học<br />
điểm cấu trúc - chức năng, quan điểm tổng thể Hăng-ri Stoóc-sơ (1766 - 1835) [5]. Đứng từ<br />
về bản chất của cái đẹp xã hội và vẻ đẹp của quan điểm hình thái, Mác khẳng định việc sản<br />
con người xã hội. xuất ra của cải vật chất luôn có một hình thái<br />
phát triển nhất định trong lịch sử, và là một<br />
Quan điểm phát triển hình thái đặc thù của nền sản xuất vật chất.<br />
Điều này làm nên cái cơ sở mà trên đó mới có<br />
Cái đẹp là một phạm trù lịch sử là kết luận thể hiểu được các yếu tố tư tưởng của giai cấp<br />
được rút ra từ quan điểm phát triển. Tính quy thống trị, cũng như việc sản xuất tinh thần tự<br />
định của thực tiễn vật chất đối với toàn bộ các do của hình thái xã hội ấy. Ví dụ như luận<br />
hoạt động của con người đó là tạo ra bước điểm của C.Mác về nền sản xuất tư bản chủ<br />
chuyển từ tính “loài” động vật sang tính “loài” nghĩa là thù địch với một số ngành sản xuất<br />
của con người xã hội. Con người hoạt động có tinh thần như nghệ thuật và thơ ca [6]. Bên<br />
tính loài chính là biểu hiện đặc thù và phổ quát. cạnh đó, Mác còn nhiều lần nhấn mạnh đến<br />
Đặc thù là so với bản thân giới tự nhiên nói tri thức về cái riêng, về cái tính quy định<br />
chung và đặc thù phổ quát là trong toàn bộ lĩnh riêng, và về đặc tính “loài” nói riêng của lịch<br />
50 Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53<br />
<br />
<br />
<br />
sử xã hội được lao động tác thành nơi con người thực hiện chính cái bản thể của mình<br />
người, nơi bản thể của con người được biểu trong đó.<br />
hiện ra với tất cả sự phong phú, sinh động và Bàn về bản chất riêng của con người, Mác<br />
cụ thể của nó. Đây là một loạt các đặc trưng đưa ra luận điểm: “Đặc điểm sức mạnh của bất<br />
cố kết nên con người xã hội, và cả trên phương<br />
cứ con người nào cũng chính là cái bản chất<br />
diện cá nhân của nó (tính cảm giác chủ quan<br />
riêng của họ... không phải chỉ ở trong tư duy<br />
của con người, tính nhân loại của cảm giác,<br />
mà bằng tất cả các giác quan, con người do đó<br />
tính cá nhân, phong cách tồn tại cá nhân, bản<br />
đã tồn tại rõ rệt trong thế giới khách quan”9.<br />
chất riêng của con người, bản thể người,<br />
Mác đã rất sâu sắc khi phân tích rằng ở bản<br />
phương thức tồn tại của đời sống cá nhân, bản<br />
chất con người có cả bản chất chung (bản chất<br />
chất tự do của lao động con người khi đứng đối<br />
xã hội) và có cả cái bản chất riêng có ở mỗi<br />
diện với sản phẩm lao động, các lực lượng bản<br />
chất của con người...) được C.Mác trình bày con người. Chúng ta biết được đặc điểm sức<br />
thông qua một loạt các luận điểm quan trọng: mạnh ở bất cứ con người nào (tức là mỗi cá<br />
nhân) là thông qua chính cái bản chất riêng của<br />
Khi bàn về bản thể của con người, Mác có<br />
họ, căn cứ vào năng lực tư duy và cả vào năng<br />
các luận điểm sau: “Ý thức không bao giờ lại có<br />
lực của tất cả các giác quan, nhờ đó mà một cá<br />
thể là cái gì khác hơn là bản thể có ý thức cả<br />
nhân trở nên một tồn tại cụ thể, rõ rệt trong thế<br />
(das bewusste Sein), mà bản thể của con người<br />
giới khách quan.<br />
(TG nhấn mạnh) lại là quá trình sinh hoạt thực<br />
tế của họ”7. Trong phần phân tích này có thể Bàn về lịch sử phát triển nghệ thuật từ quan<br />
thấy rõ Mác hiểu bản thể của con người là một niệm hình thái, Mác viết: “Đối với nghệ thuật,<br />
bản thể có ý thức, có tư duy và phản ánh chính người ta biết rằng những thời kỳ hưng thịnh<br />
điều kiện sinh hoạt thực tế của con người. nhất định của nghệ thuật hoàn toàn không<br />
tương ứng (TG nhấn mạnh) với sự phát triển<br />
“... đối với con người, hiện thực khách<br />
chung của xã hội, do đó cũng không tương ứng<br />
quan cũng đều trở thành hiện thực của những<br />
với sự phát triển của cơ sở vật chất của xã<br />
lực lượng của con người, tức là hiện thực của<br />
hội”10. Luận điểm này cho thấy hình thái ý thức<br />
con người và do đó là hiện thực của những lực<br />
nghệ thuật phản ánh tồn tại xã hội, song quy<br />
lượng của chính họ, cho nên đối với họ, hết<br />
luật phát triển của nghệ thuật lại không phải là<br />
thảy mọi đối tượng đều trở thành sự khách<br />
một trạng thái chung với cơ sở vật chất của xã<br />
quan hóa của bản thân mình, trở thành những<br />
hội, mà nghệ thuật còn tuân theo các quy luật<br />
đối tượng đang thể hiện và thực hiện cái bản<br />
phát triển hình thái của các loại hình, loại thể<br />
thể của mình (TG nhấn mạnh), những đối<br />
của chính nó (tính đặc thù của hình thái nghệ<br />
tượng của mình, nghĩa là đối tượng của chính<br />
thuật).<br />
bản thân mình”8. Ở đây, C.Mác cho rằng con<br />
người đã đối tượng hóa chính mình trong thế Khi bàn về phương thức tồn tại của đời<br />
giới hiện thực và nhận lại được về mình bản sống cá nhân, Mác còn đưa ra nhận xét: “Xét<br />
thân thế giới hiện thực khách quan như là về tính tất yếu, phương thức tồn tại của đời<br />
những lực lượng, những đối tượng để con sống cá nhân thường là sự biểu hiện hoặc đặc<br />
thù hơn hoặc phổ biến hơn của đời sống chủng<br />
_______ _______<br />
7 9<br />
Sđd, tr43 - 44. Sđd, tr 24<br />
8 10<br />
Sđd, tr 23. Sđd, tr33.<br />
Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 51<br />
<br />
<br />
loại” [7]. Theo đó thì phương thức tồn tại của Mối quan hệ giữa tha hóa lao động và chế<br />
đời sống cá nhân có thể là một tấm gương phản độ tư hữu tư sản được thể hiện thông qua mối<br />
chiếu của đời sống chủng loại song lại biểu quan hệ giữa người công nhân bỏ ra sức lao<br />
hiện ra không cùng cấp độ chung với đời sống động bị bóc lột qua lao động làm công ăn<br />
chủng loại ở đặc điểm hoặc là điển hình hơn, lương và nhà tư bản. Chế độ tiền công là biểu<br />
hoặc là phổ biến hơn. hiện bên ngoài của sức lao động của người<br />
Bản về tính cảm giác chủ quan của con công nhân bị nhà tư bản chiếm đoạt về giá trị<br />
người và lịch sử hình thành của năm giác quan, thặng dư. Đây là bản chất của quá trình phân<br />
Mác lập luận: “Chỉ có thông qua sự phong phú, hóa giàu nghèo, bần cùng hóa lao động trong<br />
đã được phát triển về mặt vật chất, của bản quá trình tích lũy tư bản và là nguồn gốc tích tụ<br />
chất con người, thì sự phong phú về tính cảm giá trị thặng dư trong sử dụng và bóc lột sức<br />
giác chủ quan của con người mới phát triển và lao động làm thuê. Sự tha hóa cái đẹp làm suy<br />
một phần thậm chí lần đầu tiên mới được sản yếu các chức năng xã hội tổng thể của cái đẹp,<br />
sinh ra: lỗ tai thính âm nhạc, con mắt cảm thấy nhất là ở bản chất hàng ba - bản chất tổng hòa<br />
cái đẹp của hình thức, nói tóm lại là những cảm (tổng thể, hài hòa) của con người xã hội. Sự tha<br />
giác có khả năng về sự hưởng thụ có tính chất hóa cái đẹp sẽ dẫn đến tình trạng các hoạt động<br />
người và sự khẳng định mình như những lực thẩm mỹ, sáng tạo cái đẹp sẽ rơi xuống vị trí<br />
lượng bản chất của con người (TG nhấn hàng một, bị đồng nhất trực tiếp với các nhu<br />
mạnh)” [6]. Mác coi phương thức tồn tại của cầu vật chất.<br />
đời sống mỗi cá nhân đó chính là quá trình Tha hóa lao động, theo C.Mác, là hiện<br />
hình thành các năng lực chủ quan, là khả năng tượng xã hội xuất hiện trong điều kiện chế độ<br />
hưởng thụ mang tính chất người, được Mác tư hữu. Hoạt động lao động vốn là bản chất của<br />
xem như là những lực lượng bản chất của con con người xã hội, là biểu hiện tự do của đời<br />
người. sống con người, là sự khẳng định đời sống cá<br />
“Sự hình thành năm giác quan là công việc nhân, và là phương tiện sinh sống của con<br />
của toàn bộ lịch sử toàn thế giới đã diễn ra từ người, thì nay trở thành hoạt động bất đắc dĩ<br />
trước đến nay”11. Trong hình thức của xã hội, đối với con người. Dưới áp lực của hoạt động<br />
các khí quan xã hội đã hình thành trong vai trò lao động nay không còn nảy sinh như là hoạt<br />
của năm giác quan và trở thành một phương động do nhu cầu tất yếu nội tại bên trong con<br />
thức thể hiện sự sống của con người xã hội. người, con người bị hiện tượng tha hóa bủa<br />
vây: một mặt, tính cá biệt của con người bị tha<br />
Lịch sử cụ thể của các quan hệ người bóc<br />
hóa khỏi chính chủ thể người; mặt khác, con<br />
lột người qua các chế độ xã hội, các phương<br />
người trở nên xa lạ với chính những sản phẩm<br />
thức sản xuất xã hội, biểu hiện tập trung ở<br />
lao động của chính mình. Như vậy, tha hóa lao<br />
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mác đã<br />
động dẫn đến tha hóa cái đẹp (điều kiện cho sự<br />
chỉ ra nguồn gốc của chế độ tư hữu về tư liệu<br />
khẳng định cái độc đáo riêng của tính cá biệt<br />
sản xuất chính là nguyên nhân dẫn đến sự tha<br />
con người, của bản thể của con người). Cái đẹp<br />
hóa lao động, sự tha hóa của cái đẹp. Sự tha<br />
chính là mặt hiện thân của bản thể xã hội của<br />
hóa của con người lao động cũng bao gồm cả<br />
con người nay bị tha hóa ra khỏi con người.<br />
sự tha hóa của cái đẹp trong lao động.<br />
Con người lao động sáng tạo ra các vật phẩm<br />
_______ đẹp song họ lại không được hưởng thụ những<br />
11<br />
Sđd, tr20<br />
52 Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53<br />
<br />
<br />
<br />
giá trị ấy của đời sống. Đây chính là những nghĩa Mác trên phương diện thẩm mỹ đã thống<br />
biểu hiện của tấn bi kịch của con người bị tha nhất quá trình phân tích bản chất tổng hòa (tổng<br />
hóa khỏi bản chất xã hội của chính mình (tha thể, hài hòa) của cái đẹp với bản chất tổng hòa<br />
hóa cái đẹp). Do chỗ, cái đẹp chính là một hình (toàn bộ) các quan hệ xã hội của con người.<br />
thái giá trị kết tinh của lao động tự do sáng tạo Quan niệm duy vật về lịch sử được C.Mác<br />
mang bản chất xã hội. Lao động chính là thực xây dựng trên cơ sở học thuyết về hình thái kinh<br />
thể của mọi giá trị. tế - xã hội, trên cơ sở quan điểm hình thái. C.Mác<br />
Sự tha hóa của cái đẹp, do đó là sự tha hóa đã luận chứng cho quá trình phát triển lịch sử của<br />
của chính con người trong lao động về phương loài người như là một quá trình lịch sử tự nhiên.<br />
diện bản thể của con người. Những giá trị, Lịch sử loài người là lịch sử của các chế độ xã<br />
những khả năng hưởng thụ có tính chất người, hội thay thế lẫn nhau. Nhờ có học thuyết về các<br />
những lực lượng bản chất của con người bị suy hình thái mà những hình thức lịch sử của đời<br />
thoái cùng với tha hóa lao động. Tha hóa cái sống xã hội trở thành những hình thức mang tính<br />
đẹp cũng chính là sự suy yếu, suy giảm các hệ thống. Những cấu trúc chức năng của xã hội,<br />
chức năng hoạt động sáng tạo nói chung và và các hình thái lịch sử - cụ thể của các hiện<br />
sáng tạo thẩm mỹ nói riêng. Khái niệm “con tượng xã hội cũng đều trở thành có tính hệ<br />
người hàng hóa” là khái niệm đắt giá nhất mà thống12.<br />
C.Mác đã đưa ra để chứng minh cho sự tha hóa Phương pháp biện chứng duy vật của chủ<br />
của con người lao động trong điều kiện của nền nghĩa Mác khi đi vào phân tích lĩnh vực của cái<br />
sản xuất tư bản chủ nghĩa. “Nền sản xuất sản đặc thù (cái đẹp), đã được Mác triển khai bằng<br />
sinh ra con người - C.Mác viết - không những một loạt các phương pháp tiếp cận quan trọng,<br />
xuất phát từ sự phân tích bản chất các hiện<br />
chỉ với tính cách là hàng hóa, không những chỉ<br />
tượng xã hội một cách có hệ thống. Mác trước<br />
với tính cách là con người hàng hóa, con người hết đã phân tích mặt hình thái của lao động,<br />
với sự quy định của hàng hóa; nó sản xuất ra mặt chất lượng của hệ thống, mặt cấu trúc chức<br />
con người theo sự quy định ấy, như là một thực năng, trên quan điểm phát triển, lịch sử - cụ<br />
thể mất tính chất người cả về mặt tinh thần lẫn thể, về tính quy định của nền tảng sản xuất vật<br />
thể xác - Tính vô đạo đức, sự biến chất, sự đần chất đối với quá trình hình thành bản chất tổng<br />
độn của cả công nhân lẫn nhà tư bản. - Sản thể, tổng hòa của cái đẹp, của chính con người<br />
xã hội, và do đó đã phân tích bản chất của cái<br />
phẩm của nền sản xuất đó là hàng hóa có một ý<br />
đẹp ở những hệ thống hiện thực, thực tiễn. Giá<br />
thức và có một hoạt động độc lập... là con trị của phương pháp phân tích khoa học này<br />
người hàng hóa...” [6]. nằm trong ý nghĩa phương pháp luận về đối<br />
Như vậy, theo Mác nguồn gốc của sự tích tượng nghiên cứu là cái đặc thù, đến ngày nay<br />
tụ tư bản là bóc lột lao động làm thuê. Các quy vẫn còn nguyên vẹn giá trị của nó. Bản chất<br />
tổng hòa các giá trị xã hội và tự nhiên của cái<br />
luật giá trị và giá cả hàng hóa đã nhất loạt tác<br />
đẹp luôn thể hiện tính điển hình của nó trong<br />
động chi phối lên toàn bộ các lĩnh vực của đời sự hài hòa thống nhất và cả trong những xung<br />
sống tinh thần, đời sống thân thể của các cá nhân đột sâu xa nơi bản chất xã hội và cá nhân của<br />
và của toàn xã hội. Từ đó Mác đi đến tư tưởng con người xét trên toàn bộ cuộc vận động lịch<br />
giải phóng con người khỏi sự tha hóa lao động và sử của cái đẹp qua các hình thái kinh tế xã hội.<br />
tha hóa cái đẹp. Giá trị nhân văn, nhân đạo trong<br />
tư tưởng của Mác về giải phóng con người, giải<br />
_______<br />
phóng cái đẹp đã cho thấy lý luận xã hội của chủ 12<br />
Sđd, tr81.<br />
Đ.T.M. Thảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 1 (2014) 43-53 53<br />
<br />
<br />
Tài liệu tham khảo [5] C.Mác: Các học thuyết về giá trị thặng dư (quyển<br />
IV của bộ Tư bản) Nxb Sự thật, Hà Nội, 1965,<br />
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị ph.I, tr.385, 549.<br />
Quốc Gia, Hà Nội, 1995, t.42, tr.137. [6] C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin: Về văn học và<br />
[2] C.Mác, Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr 20, 23,<br />
Nội, 1978, t.1, tr.429. 24, 33, 43 - 44, 69, 70, 76, 81.<br />
[3] C.Mác, Ph.Ăngghen, Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà [7] V.P.Cu-dơ-min: Nguyên lý tính hệ thống trong lý<br />
Nội, 1982, tIII, tr.669. luận và phương pháp luận của C.Mác, Nxb Sự<br />
[4] C.Mác, Tư bản. Phê phán khoa học kinh tế chính trị, thật, Hà Nội, 1986, tr.23, 75, 165, 167.<br />
Nxb Sự thật, 1973, quyển thứ nhất, t.I, tr. 85-86.<br />
<br />
<br />
<br />
The Method of Karl Marx in Discovering<br />
the Nature of the Beauty<br />
<br />
Đỗ Thị Minh Thảo<br />
VNU University of Social Sciences and Humanities,<br />
336 Nguyễn Trãi Road, Thanh Xuân Dist., Hanoi, Vietnam<br />
<br />
Abstract: Nowadays, when scientific knowledge has become the direct productive forces,<br />
knowledge of economy has long been considered as the common foundation for social development.<br />
In fact, the rate of success of the intellectual elite of characteristic economy has always played the<br />
role as the creative factor of the countless trade names of commodities in the modern social life.<br />
Meanwhile, the rate of failure can be found right in the intellectual elite of general economy, if it is not<br />
to be operated to become the intellectual elite of characteristic economy. Therefore, from the story<br />
about the intellectual elite of characteristic economy, we can be able to withdraw the lessons from the<br />
philosophy-aethetics heritage of Karl Max in which the history of the beauty (belonging to<br />
the characteristic intellectual elite) has got access to the accompaniment with the economic issue (the<br />
general foundation for the development of social life).<br />
This is of clearly methodological significance in the awareness of historical materialism against the<br />
limitations in the awareness of economic materialism (When economy was considered to be the only<br />
decisive factor in social history). For a long time, the beauty has been considered the measurement of<br />
human quality, the measurement of the human beings in the world of objects. It always plays the role<br />
of new economic springboard, because after all, the economy is nothing if it does not aim towards the<br />
goal for human beings, the goal to build the ever more beautiful human society.<br />
Karl Marx is one of the greatest masters of mankind who used the methodology of the general to<br />
discover and access the methodology of the peculiarity. Moreover, Karl Marx also<br />
established the beauty as a category of economic leverage through the argument that human beings are<br />
also built according to the rules of the beauty.<br />
Through the category of the beauty, we can totally be able to explain better the human nature and<br />
human society from both origins; society and humanity.<br />
Keywords: The characteristic knowledge of economy, the beauty belongs to the characteristic<br />
intellectual elite, economic materialism, the methodology of the paculiarity, the beauty is the new<br />
springboard of economy.<br />