intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

PHƯƠNG PHÁP THĂM KHÁM MỘT NGƯỜI BỆNH MẮC BỆNH MÁU – PHẦN 4

Chia sẻ: Nguyen UYEN | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

75
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Theo định nghĩa, thiếu máu có hiện tượng giảm số lượng hồng cầu và số lượng huyết cầu tố gây giảm nồng độ oxy trong máu. Nhưng thiếu máu không làm giản mức độ tiêu thụ oxy trong cơ thể. Vì vậy để bù đắp lại hiện tượng thiếu oxy, cơ thể đã điều chỉnh lại bằng cách.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: PHƯƠNG PHÁP THĂM KHÁM MỘT NGƯỜI BỆNH MẮC BỆNH MÁU – PHẦN 4

  1. PHƯƠNG PHÁP THĂM KHÁM MỘT NGƯỜI BỆNH MẮC BỆNH MÁU – PHẦN 4 III. SINH LÝ BỆNH . Theo định nghĩa, thiếu máu có hiện t ượng giảm số lượng hồng cầu và số lượng huyết cầu tố gây giảm nồng độ oxy trong máu. Nhưng thiếu máu không làm giản mức độ tiêu thụ oxy trong cơ thể. Vì vậy để bù đắp lại hiện tượng thiếu oxy, cơ thể đã điều chỉnh lại bằng cách. 1. Tăng cung lượng tim. Tim đập nhanh hơn. Sự bù đắp này có thể đủ khi nghỉ ngơi, nhưng khi gắng sức, người bệnh sẽ thất trống ngực đập mạnh hơn, khó thở và rất mệt. Chính sự thích nghi của cơ thể do tăng cung lượng tim. Nên với một mức độ thiếu máu nhẹ, người bệnh và thầy thuốc nhiều khi không phát hiện được nếu không có xét nghiệm máu. 2. Tuỷ xương phản ứng tăng cường tạo hồng cầu:
  2. Quá trình tái tạo biểu hiện bởi sự xuất hiện nhiều hồng cầu lưới trong máu ngoại biên: nếu phản ứng quá mạnh (thí dụ trong bệnh thiếu máu Biermer đ ược điều trị sớm bằng vita min B12) ta có thể thấy cả những hồng cầu có nhân trong máu c ùng với các bạch cầu non. Ngoài hai cơ chế điều chỉnh trên, cơ thể còn tăng cường khả năng sử dụng tốt nhất oxy trong máu của tổ chức khi có thiếu máu. Nhắc lại sinh lý, sinh hoá tế bào máu và sinh lý bệnh tế bào máu cho phép ta có một phương pháp khám người bệnh thiếu màu đúng đắn, hiểu các dấu hiệu lâm sàng, xét nghiệm và nhất là có thể suy luận để tìm nguyên nhân thiếu máu. IV. TRIỆU CHỨNG THIẾU MÁU. Có một số triệu chứng chung cho mọi loại thiếu máu, bất kỳ do nguy ên nhân nào: - Xanh xao ở da và niêm mạc. Thường rõ nhất ở lòng bàn tay, mô móng các ngón, niêm mạc mắt, mồm, họng… - Các rối loạn thần kinh: dễ bị ngất, thoáng ngất. Thường ù tai, hoa mắt, chóng mặt,nhất là khi đang ngồi mà đứng lên, người rất hay mệt. - Cảm giác trống ngực đập mạnh, nhất là khi hơi gắng sức. Khám thấy tim đập nhanh, có thể nghe tiếng thổi tâm thu chức năng. Tuỳ theo mức độ và thời gian
  3. thiếu máu, diện tích tim to ra và có bệnh cảnh suy tim rõ rệt nhưng cần nhớ là ở đây ít khi thấy tim tái do tỷ lệ huyết cầu tố thấp. - Rối loạn tiêu hoá: chán ăn, nôn, ỉa chảy, hoặc táo bón. - Ở phụ nữ còn thấy bế kinh, nam giới bất lực. - Chuyển hoá cơ bản hơi tăng và nhiều khi ngừoi bệnh thấy sốt nhẹ. Trường hợp thiếu máu do tan máu hoặc do chảy máu trong nhiều lần ngoài các dấu hiệu trên, còn có thể thấy vàng da rõ hoặc nhẹ. Khi thăm khám lâm sàng cần chú ý đến hệ thống gan, lách và hạch. V. CÁC XÉT NGHIỆM CẦN LÀM. Lâm sàng khó quyết định được thiếu máu, nhất là xác định mức độ thiếu máu. Do vậy cần phải tiến hành đếm hồng cầu và làm một số xét nghiệm để xác nhận chẩn đoán, nhất là chẩn đoán căn nguyên. 1. Làm công thức máu: Cho biết mức độ chính xác của thiếu máu, ngoài ra còn biết được hình dáng, kích thước, màu sắc hồng cầu. Công thức màu còn cho biết số lượng bạch cầu, tỷ lệ bạch cầu các loại, tiểu cầu. 2. Đo số lượng huyết cần tố:
  4. Phương pháp Sabli thường dùng tính tỷ lệ phần trăm đơn giản, nhưng ít chính xác. Nếu có thể được đo số lượng (bình thường trong 100ml máu có 12-18 gHb). 3. Giá trị hồng cầu: Bình thường là 1. lúc đó gọi là thiếu máu đẳng sắc. Khi lớn hơn 1 gọi là thiếu máu ưu sắc, bé hơn 1 gọi là thiếu máu nhược sắc. 4. Hematocrit. Đó là thể tích hồng cầu. Bình thường là 43,5%. 5. Với các con số kết quả trên, ta có thể tính thêm được những chỉ số sau đây: 5.1. Thể tích trung bình của 1 hồng cầu: Bình thường thễ tích của một hồng cầu là 88 mm3. - Khi thể tích từ 80 đến 100 mm3 ta có thiếu máu hồng cầu trung bình (normocytaire). - Khi dưới 80 mm3: thiếu máu hồng cầu nhỏ (microcytaire). - Khi trên 100 mm3: thiếu máu hồng cầu to (macrocytaire). Thường thường trong thiếu máu, các kết quả giá trị hồng cầu và thể tích hồng cầu ăn khớp với nhau:
  5. - Thiếu máu hồng cầu to thường ưu sắc. - Thiếu máu hồng cầu trung bình thường đẳng sắc. - Thiếu máu hồng cầu nhỏ thường nhươc sắc. 5.2. Nồng độ trung bình về huyết cầu tố của hồng cầu Tức là tính số lượng huyết cầu tố chứa trong 100ml hồng cầu. Bình thường là 33- 35g. ki tỷ lệ này thấp, chứng tỏ bệnh thiếu máu nh ược sắc thực sự và lúc đó nguyên nhân chủ yếu là thiếu sắt. 6. Tuỷ đồ: Cho biết phản ứng của tuỷ về sự sinh sản hồng cầu và phát hiện được các tế bào lạ. 7. Xét nghiệm phân: Tìm ký sinh vật ruột, đặc biệt chú ý tới giun móc. Thường người ta làm phản ứng Weber Meyer để tìm hồng cầu trong phân. VI. CHẨN ĐOÁN NGUYÊN NHÂN THIẾU MÁU. Rất phức tạp, có rất nhiều phương pháp sắp xếp các loại nguyên nhân thiếu máu, cho đến nay chưa có cách sắp xếp loại này hoàn hảo. Dựa vào các kết quả các xét nghiệm đã làm và dựa vào các phần sinh lý, sinh hoá tế bào máu chúng tôi xin giới thiệu hai cách sắp xếp phân loại thiếu máu:
  6. - Dựa vào hình thái. - Dựa vào nguyên nhân. 1. Dựa vào hình thái, màu sắc hồng cầu. 1.1. Thiếu máu hồng cầu bình thường huyết cầu tố bình thường (đẳng sắc). Tất cả mọi tính chất của hồng cầu bình thường, hoặc hơi kém một ít. Chỉ có số lượng hồng cầu giảm nhiều. 1.2. Thiếu máu hồng cầu to, huyết cầu tố nhiều (ưu sắc). Đặc điểm của loại này là: - Hồng cầu to (d= 10-12 mm) - Thể tích hồng cầu tăng nhiều: 110 – 140 mm3 - Giá trị hồng cầu lớn hơn 1. 1.3. Thiếu máu hồng cầu nhỏ và huyết cầu tố ít (nhược sắc). Đặc điểm: - Hồng cầu nhỏ (d=5 – 6mm). - Thể tích hồng cầu bé: 70mm3
  7. - Giá trị hồng cầu bé hơn 1. 2. Theo nguyên nhân. Cách sắp xếp trên hoàn toàn phù hợp với việc sắp xếp theo nguyên nhân. 2.1. Loại thiếu máu hồng cầu to (ưu sắc). Căn bản loại này là thiếu vitamin B12 hay axit Folic.Trong loại này có: - Bệnh thiếu máu ác tính Biermer. - Các bệnh thiếu máu bàng Biermer (para-biermérience) do cắt đoạn dạ dày (mất yếu tố nội tại do vùng đáy dạ dày tiết ra nên có thể không hấp thụ được vitamin B12 là yếu tố ngoại. - Bệnh Spru: tiêu hoá bị rối loạn, làm cơ thể không hấp thụ được vitamin B12. 2.2. Loại thiếu máu hồng cầu nhỏ nhược sắc. Đa số loại này là do thiếu chất sắt. Trong loại này có: - Mất máu kinh diễn: mỗi ngày mất một ít nhưng rỉ rả nhiều năm như trong trĩ, ung thư dạ dày, ung thư trực tràng, u xơ tử cung, loét dạ dày tá tràng. - Các bệnh về dạ dày, ruột. Khả năng hấp thu sắt ở ruột kém.
  8. - Bệnh xanh lướt cũa thiếu nữ. Thường là những thiếu nữ trẻ, nguyên nhân có lẽ do nội tiết. 2.3. Thiếu máu hồng cầu bình thường, đẳng sắc: loại này chia làm ba nhóm: - Thiếu máu do thiểu năng cơ quan huyết trung ương: bệnh suy tuỷ, xơ tuỷ. - Thiếu máu do huỷ hoại quá mức hồng cầu của ngoại bi ên: các bệnh thiếu máu tan máu có thể do tiên thiên hay hậu phát: sốt rét, sốt vàng da có đái ra huyết cầu tố, nhiễm khuẩn, nhiễm độc, (H2S và chì). Khi có huyết cầu tố bất thường trong máu. - Thiếu máu do sau khi mất máu cấp. 2.4. Cuối cùng, còn một loại thiếu máu mà nguyên nhân rất khác nhau: Có mang, bệnh nội tiết như phù niêm, xơ gan, viêm thận mạn tính, hội chứng nhiễm khuẩn, ung thư và các bệnh máu ác tính. Loại thiếu máu này có thể đẳng sắc, ưu sắc, hoặc nhược sắc. Cũng thuộc trong loại này có loại thiếu máu với hồng cầu non: bệnh tăng nguyên hồng cầu (érythroblastose) hoặc cả bạch cầu non: bệnh tăng hồng tuỷ cầu cấp (érythromýelose) hoặc cả bạch cầu non: bệnh tăng hồng tuỷ cầu cấp (érythromyelose aigue). VII. KẾT LUẬN.
  9. Thiếu máu là một hội chứng gặp trong rất nhiều bệnh. Trong một số các trường hợp, nguyên nhân của thiếu máu rất dễ nhận thấy (mất máu kinh diễn, các bệnh máu ác tính…). Lúc đó thiếu máu chỉ là một triệu chứng nhỏ trong một bệnh cảnh khá rõ rệt của nguyên nhân. Nhưng nhiều khi thiếu máu là triệu chứng duy nhất đưa người bệnh đến khám. Cần dựa vào những hiểu biết về cơ sở sinh lý, sinh hoá tế bào máu mà phân tích để tìm nguyên nhân, nhiều khi phải tiến hành một số xét nghiệm tương đối hiện đại mới phát hiện được. HỘI CHỨNG CHẢY MÁU I. ĐẠI CƯƠNG VÀ ĐỊNH NGHĨA. Chảy máu là hiện tượng máu ra khỏi thành mạch vì vỡ mạch hay không vỡ mạch. Là một hội chứng rất hay gặp, có ở mọi khoa: người bệnh đến khoa sản vì rong kinh hay băng huyết, đến khoa tai mũi, họng vì chảy máu cam, đến khoa răng vì chảy máu chân răng. Có khi chảy máu kết hợp với các triệu chứng khác, nhưng cũng có khi chảy máu đơn thuần. II. CƠ CHẾ CẦM MÁU. Muốn phân loại các trường hợp chảy máu, do đó tìm nguyên do và hướng điều trị, cần nhắc lại quá trình cầm máu. Khi một mạch máu bị đứt, quá trình cầm máu sẽ qua 3 giai đoạn:
  10. 1. Giai đoạn 1: Vai trò của các mạch máu: mạch máu co lại làm hẹp chỗ bị đứt. 2. Giai đoạn 2: Vai trò tiểu cầu. Tiểu cầu dồn vào chỗ đứt, ngưng tụ lại thành một cái nút làm như cái đinh cầm máu. Nút này không bền, dễ vỡ gây chảy máu lại nên phải được củng cố. 3. Giai đoạn 3: Vai trò của huyết tương: huyết đông lại trên nút tiễu cầu và fibin trong huyết tương làm thành một mạng lưới đan cho nút tiểu cầu được vững chắc hơn. III. CHẨN ĐOÁN CHẢY MÁU. 1. Các hình thái chảy máu. 1.1. Chảy máu dưới da: Thường gặp nhất trong các người bệnh chảy máu: 1.1.1. Hình thái: Có những vết chấm đỏ dưới da. Có hai đặc tính: - Nổi lên một cách đột ngột, hoặc sau những va chạm rất nhẹ như gãi, cọ xát.
  11. - Lấy ngón tay hoặc miếng kính ấn vào không mất. Tuỳ theo kích thước các nốt ta có: - Vệt máu: là những vết chảy máu ở các nếp gấp của da như ở khuỷu tay, khoeo chân. - Nốt chấm máu: đường kính 1 – 10mm. - Đám máu do nhiều chấm hợp lại. - Mảng máu: đường kính từ 1 – 10cm. - Cục máu: to, nổi cục dưới da, ấn vào đau. 1.1.2. Chỗ mọc: Mọc bất cứ chỗ nào trong cơ thể, nhưng nhiều hơn ở các chi dưới và các nếp gấp. 1.1.3. Số lượng: Nhiều ít, tuỳ theo bệnh. 1.1.4. Màu sắc: Lúc đầu khi mới xuất hiện màu đỏ, sau chuyển dần thành tím, xanh đến vàng rồi biến mất. Trên cùng một vùng da, ta có thể thấy những nốt màu sắc khác nhau do xuất hiện thời gian khác nhau.
  12. 1.2. Chảy máu niêm mạc: - Rong huyết tử cung: kinh kéo dài ngày hoặc một tháng thấy kinh nhiều lần. - Chảy máu đường tiêu hoá gây nôn máu, ỉa ra phân đen hoặc máu tươi ít có. Ngoài ra còn có thể chảy máu đường tiết niệu (thận, bàng quang), lách, màng tim, màng phổi, màng bụng… 1.3. Chảy máu các khớp xương. Thường nhất ở khớp gối. 2. Chẩn đoán phân biệt. Các nốt chảy máu trên, có thể nhầm với: 2.1. Nốt muỗi đốt: Thường là những chỗ hở, không có quần áo che như mặt, cánh tay, đầu gối. Hơi nổi lên mặt da và khi ấn vào, nốt mất đi. 2.2. Phát ban: Trong một số bệnh như sởi, rubêôn hoặc dị ứng. Aán tay hoặc miếng kính, các nốt phát ban sẽ mất. Trong cùng một vùng, các màu sắc thường đồng đều.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2