16 Xã hội học, số 3 - 2007<br />
<br />
<br />
<br />
Quan niệm về gia đình của người Việt Nam:<br />
nghiên cứu trường hợp tại yên báI, tiền giang<br />
và Thừa Thiên - Huế<br />
<br />
Vũ Mạnh Lợi<br />
<br />
I. Giới thiệu<br />
Khái niệm “gia đình” thường được mặc nhiên coi là có ý nghĩa rõ ràng và ai cũng hiểu<br />
như ai. Từ "gia đình" có lẽ được dùng nhiều vào loại nhất trong ngôn ngữ hàng ngày và trong<br />
nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội cũng như trong các nghiên cứu về "gia đình", song hiếm khi<br />
nó được định nghĩa rõ ràng. Nhiều văn bản pháp quy của nhà nước cũng dùng từ này mà<br />
không có định nghĩa rõ ràng. Kể từ khi ra đời vào ngày 29 tháng 12 năm 1959, Luật Hôn nhân<br />
và Gia đình của nước ta đã hai lần sửa đổi vào các năm 1986 và 2000, song chỉ đến năm 2000<br />
Luật Hôn nhân và Gia đình mới có định nghĩa về gia đình:<br />
Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống<br />
hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy<br />
định của Luật này (Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000).<br />
Định nghĩa nêu trên không có ràng buộc nào về việc các thành viên của gia đình có<br />
phải sống cùng với nhau dưới một mái nhà hay không, hoặc họ có cần có ngân sách chi tiêu<br />
chung hay không.<br />
Nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về gia đình cho thấy khó có thể đưa ra<br />
một định nghĩa rõ ràng, được mọi người chấp nhận về gia đình (Mai Huy Bích 2003; Coltrane<br />
và Collins, 2001). Các hình thái gia đình quá đa dạng, và cách hiểu của mỗi người ở mỗi<br />
nước, mỗi vùng, thậm chí trong cùng một địa phương, cũng rất khác nhau khiến cho việc đưa<br />
ra một định nghĩa rõ ràng về gia đình là điều vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, đa số các nhà<br />
nghiên cứu trong và ngoài nước thống nhất với nhau về một số đặc điểm của quan hệ gia đình<br />
dựa trên quan hệ huyết thống, hôn nhân, hoặc nuôi dưỡng (cha/mẹ nuôi, con nuôi...). Coltrane<br />
và Collins (2001) cho rằng gia đình phản ánh các quan hệ xã hội nhiều hơn các quan hệ sinh<br />
học và nhấn mạnh ba đặc tính là quyền sở hữu về tình dục (rights of sexual possession), các<br />
quan hệ liên quan đến tài sản kinh tế (economic property), và các quan hệ liên quan đến quyền<br />
giữa các thế hệ (intergenerational property).<br />
Trong những nghiên cứu cụ thể, các tác giả thường không có định nghĩa rõ ràng về gia<br />
đình nhưng thảo luận của họ thường có hàm ý gia đình bao gồm các quan hệ huyết thống, hôn<br />
nhân, và nuôi dưỡng và kèm theo điều kiện sống cùng với nhau dưới một mái nhà. Theo Từ<br />
điển Bách khoa Toàn thư về Khoa học Xã hội do Adam Kuper và Jessica Kuper chủ biên<br />
(1996), từ "gia đình" chỉ những người có quan hệ huyết thống hay hôn nhân sống chung trong<br />
một hộ. Các tác giả Việt Nam như Trần Từ (1984), Lê Ngọc Văn (2004), Mai Huy Bích<br />
(2003), Vũ Tuấn Huy và cả chính tác giả của bài này (Vũ Tuấn Huy, Vũ Mạnh Lợi, Hoàng<br />
Đốp, Nguyễn Hồng Quang, Nguyễn Hồng Thái, và Nguyễn Khánh Bích Trâm, 2004) cũng có<br />
hàm ý như vậy khi thảo luận về gia đình và các hình thức gia đình trong nghiên cứu của mình.<br />
Vậy người dân Việt Nam hiểu "gia đình" gồm những ai và họ có quan hệ thế nào với<br />
nhau? Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu điều này. Trong khuôn khổ dự án<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
Vũ Mạnh Lợi 17<br />
<br />
nghiên cứu liên ngành "Gia đình Việt Nam trong chuyển đổi" do tổ chức SIDA của Thụy<br />
Điển tài trợ trong khuôn khổ Chương trình hợp tác nghiên cứu Việt Nam-Thụy Điển, tác giả<br />
tìm hiểu câu trả lời cho câu hỏi này. Nghiên cứu này là nghiên cứu chọn mẫu được thực hiện<br />
tại một xã thuộc tỉnh Yên Bái năm 2004 (300 mẫu), một xã ở Tiền Giang năm 2005 (300<br />
mẫu), và một xã ở Thừa Thiên - Huế năm 2006 (299 mẫu) (trong bài này các địa bàn được<br />
nêu một cách đơn giản theo tên tỉnh). Tác giả cũng phân tích một số yếu tố dân số, kinh tế, xã<br />
hội được coi có tính chất giả thuyết là có tác động nhất định đến quan niệm của người được<br />
hỏi về thành viên của gia đình. Trong nghiên cứu này, người dân được hỏi "Người ta có suy<br />
nghĩ khác nhau về “Gia đình”. Theo ông/bà từ “gia đình” bao gồm những người nào sau<br />
đây:..." và 18 loại người với các quan hệ cụ thể theo huyết thống hay hôn nhân, sống cùng nhà<br />
hay ở nơi khác được liệt kê để lấy ý kiến của người được hỏi 1 .<br />
II. Kết quả<br />
Gia đình gồm những ai?<br />
Biểu dưới đây cho thấy quan niệm của người được hỏi ở Tiền Giang và Thừa Thiên -<br />
Huế về ai được coi là thành viên gia đình họ (biểu cho Yên Bái cũng có kết quả tương tự).<br />
Người ta có quan niệm rất khác nhau về "gia đình", thể hiện ở sự biến thiên mạnh trong quan<br />
niệm ai là thành viên của gia đình. Có sự phân biệt khá phổ biến giữa quan niệm "thành viên<br />
của gia đình" với quan niệm "hộ" thường được hiểu gồm những người sống chung dưới một<br />
mái nhà và chia sẻ ngân sách chi tiêu chung. Điều này thể hiện ở chỗ rất nhiều người không<br />
coi một số người đang sống cùng nhà với mình là người của "gia đình", mà nếu xét từ góc độ<br />
"hộ" thì họ phải là thành viên của hộ. Đồng thời, rất nhiều người coi những người đang không<br />
sống cùng nhà (không thuộc hộ) là người của "gia đình".<br />
Mặc dù người ta phân biệt "hộ" khác "gia đình", yếu tố sống cùng cũng là một cân nhắc<br />
nặng ký khi xem xét liệu một người cụ thể có phải thành viên gia đình hay không. Hầu hết<br />
người được hỏi ở Tiền Giang và Thừa Thiên - Huế (99% nam và 96% nữ) cho rằng bố mẹ<br />
chồng ở cùng nhà là thành viên của gia đình, và chỉ có khoảng hai phần ba số người được hỏi<br />
(65% nam và 62% nữ) cho rằng bố mẹ chồng không sống cùng nhà cũng là thành viên của gia<br />
đình. Có sự khác biệt ở mức độ tương tự đối với việc coi những người có mức độ quan hệ theo<br />
huyết thống hay hôn nhân khác có phải là thành viên gia đình hay không, phụ thuộc vào việc họ<br />
sống cùng nhà hay không sống cùng nhà với người được hỏi. Như vậy, yếu tố "sống cùng nhà"<br />
tỏ ra là yếu tố quan trọng trong việc coi người đó có phải là thành viên của gia đình hay không.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
Câu hỏi ở Yên Bái không nêu rõ ông/bà và cha/mẹ là ông/bà và cha/mẹ của người chồng hay người vợ. Điều<br />
này đã được sửa đổi trong câu hỏi dùng ở điểm nghiên cứu Tiền Giang và Thừa Thiên - Huế.<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
18 Quan niệm về gia đình của người Việt Nam: nghiên cứu trường hợp tại Yên Bái…<br />
<br />
<br />
<br />
Gia đình gồm những ai?<br />
(% ý kiến đồng ý, Tiền Giang N=300, Huế N=299)<br />
<br />
<br />
<br />
120%<br />
100%<br />
80%<br />
60%<br />
40%<br />
20%<br />
0%<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nam Nữ<br />
<br />
Yếu tố quan trọng khác là mức độ gần về họ tộc. Bố mẹ, ông/bà, anh chị em, con cái<br />
nói chung được coi là thành viên của gia đình nhiều hơn, đặc biệt nếu họ sống cùng nhà. Số<br />
liệu ở cả 3 nơi cho thấy người trả lời nam và nữ không khác nhau đáng kể về các quan niệm<br />
này. ở Thừa Thiên - Huế và Tiền Giang, nơi có số liệu phân rõ theo quan hệ về đằng vợ và<br />
đằng chồng, ta thấy cũng không có sự khác nhau nhiều giữa ý kiến về người thuộc họ bên vợ<br />
và người thuộc họ bên chồng. Tỷ lệ người được hỏi coi người có quan hệ thân tộc về đằng vợ<br />
là thành viên của gia đình thấp hơn đôi chút so với người có quan hệ thân tộc về đằng chồng;<br />
điều này đúng cả đối với quan niệm của nam và nữ (lưu ý là quan hệ đằng vợ đối với nữ là<br />
quan hệ trực hệ). Điều này cho thấy tính chất phụ hệ của gia đình Việt Nam có nhưng không<br />
mạnh lắm.<br />
Anh/chị/em<br />
Trong những loại quan hệ nêu trong câu hỏi nói trên, anh/chị/em của người vợ hay<br />
người chồng là vị trí nhạy cảm về khoảng cách trong quan hệ với người được hỏi. Những người<br />
có quan hệ xa hơn có nhiều khả năng không được coi là người của gia đình hơn. Điều này thể<br />
hiện ở chỗ tỷ lệ phần trăm ý kiến coi họ là người của gia đình chỉ đứng sau bố/mẹ hai bên và<br />
cao hơn hẳn những loại quan hệ khác. Nếu các yếu tố dân số, kinh tế và xã hội như giới tính,<br />
tuổi, học vấn và mức sống có tác động đến quan niệm về thành viên gia đình, thì tác động này<br />
sẽ thể hiện rõ nhất đối với anh/chị/em người chồng hoặc người vợ. Phân tích sâu hơn loại quan<br />
hệ này sẽ cho ta thấy những yếu tố quan trọng quyết định quan niệm của một người về ai là<br />
người của gia đình họ.<br />
Phân tích nhị biến cho thấy đại bộ phận người được hỏi coi anh/chị/em chồng sống<br />
cùng nhà là thành viên gia đình. Không có khác biệt đáng kể giữa quan niệm của nam và nữ ở<br />
cả 3 nơi. Đối với anh/chị/em vợ sống cùng nhà, ở Tiền Giang và Thừa Thiên - Huế, tỷ lệ nam<br />
và nữ coi anh chị em vợ sống cùng nhà là thành viên gia đình thấp hơn đôi chút so với anh chị<br />
em chồng sống cùng nhà. Tình hình ở Yên Bái có khác. Nếu sống cùng nhà, phụ nữ ở Yên<br />
Bái dường như cho rằng anh chị em của họ là thành viên gia đình nhiều hơn anh chị em của<br />
chồng họ.<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
Vũ Mạnh Lợi 19<br />
<br />
<br />
Tỷ lệ phần trăm nam và nữ coi anh/chị/em là thành viên gia<br />
đình<br />
<br />
100%<br />
90%<br />
80%<br />
70%<br />
60%<br />
50%<br />
40%<br />
30%<br />
20%<br />
10%<br />
0%<br />
YB nam YB nữ TG nam TG nữ H nam H nữ<br />
<br />
Anh/chị/em chồng cùng nhà Anh/chị/em vợ cùng nhà<br />
Anh/chị/em chồng ở nơi khác Anh/chị/em vợ ở nơi khác<br />
<br />
<br />
Đối với anh/chị/em sống nơi khác, hơn một nửa người được hỏi cho rằng họ là thành<br />
viên gia đình. Điều này đúng cả với nam và nữ, cả với anh/chị/em của chồng và vợ (anh chị<br />
em chồng chỉ có tỷ lệ cao hơn chút ít so với anh chị em vợ).<br />
Hầu như không có khác biệt nào giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số ở Yên Bái,<br />
nam và nữ về tiêu chuẩn thành viên của anh/chị/em người chồng sống cùng nhà, trong khi có sự<br />
khác nhau đáng kể về quan niệm đối với anh/chị/em vợ sống cùng nhà. Người Kinh có tỷ lệ coi họ<br />
là thành viên gia đình cao hơn người dân tộc thiểu số. Cả phụ nữ Kinh và phụ nữ dân tộc thiểu số<br />
có xu hướng coi anh/chị/em của họ là thành viên gia đình nhiều hơn nam giới coi anh/chị/em<br />
mình là thành viên gia đình.<br />
Tuổi cũng có thể là yếu tố quan trọng tác động đến việc người ta coi một người có quan<br />
hệ nhất định có phải là thành viên của gia đình hay không. Tuổi phản ánh chu trình sống của con<br />
người và phần nhiều cũng phản ánh chu trình sống của một gia đình cụ thể. Người trẻ tuổi, mới<br />
lập gia đình, thường có quan hệ với anh/chị/em mình mật thiết hơn khi họ đã trung niên hay cao<br />
tuổi. Anh/chị/em của những người trẻ tuổi cũng có thể có nhiều người chưa lập gia đình riêng và<br />
gắn bó hơn với người được hỏi so với khi chính họ có gia đình riêng của mình. Điều này có thể<br />
khiến cho những người trẻ tuổi có xu hướng coi anh/chị/em mình là thành viên của gia đình cao<br />
hơn những người cao tuổi hơn. Điều khá bất ngờ là số liệu không hề cho thấy một khuôn mẫu rõ<br />
ràng nào theo tuổi, cả đối với anh/chị/em sống cùng nhà cũng như những người sống ở nơi khác,<br />
cả đối với anh/chị/em người chồng cũng như anh/chị/em người vợ.<br />
Học vấn có thể là yếu tố tác động đến quan niệm ai là thành viên của gia đình. Những<br />
người có học cao có thể có thái độ đối với những người có quan hệ huyết thống hay hôn nhân<br />
khác với những người có học vấn thấp. Phân tích nhị biến cho thấy nhìn chung, đối với<br />
anh/chị/em sống cùng nhà, chỉ có sự khác biệt tương đối đáng kể giữa những người chưa đi<br />
học (mù chữ hoặc biết đọc/biết viết) và những người đã cắp sách đến trường từ tiểu học trở<br />
lên. Không có sự khác biệt đáng kể trong số những người đã đi học. Đối với anh/chị/em<br />
không sống cùng nhà, những người đã học từ cấp trung học cơ sở trở lên có tỷ lệ coi<br />
anh/chị/em không sống cùng nhà là thành viên gia đình cao hơn những người có học vấn tiểu<br />
học hoặc không đi học đôi chút. Không có sự khác biệt đáng kể giữa anh/chị/em chồng và<br />
anh/chị/em vợ, cả đối với những người ở cùng nhà và ở nơi khác. Tỷ lệ người được hỏi coi<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
20 Quan niệm về gia đình của người Việt Nam: nghiên cứu trường hợp tại Yên Bái…<br />
<br />
<br />
anh/chị/em vợ là thành viên gia đình chỉ thấp hơn tỷ lệ đối với anh/chị/em chồng đôi chút.<br />
Mức sống cũng có thể có tác động đến cách người ta nghĩ về những người thân theo quan<br />
hệ huyết thống hay hôn nhân do việc duy trì các mối quan hệ cũng đòi hỏi điều kiện vật chất nhất<br />
định. Tuy nhiên, trái với giả thuyết nêu trên, dường như ta không thấy có mối liên hệ rõ ràng nào<br />
giữa việc coi anh/chị/em là thành viên gia đình và mức sống.<br />
Phân tích đa biến về vị trí của anh/chị/em<br />
Phân tích nhị biến như nêu trên không đem lại một bức tranh đáng tin cậy vì nó không<br />
tính đến cùng một lúc tác động qua lại của tất cả các biến số được nêu đối với quan niệm về<br />
thành viên gia đình. Phân tích đa biến sẽ cho ta hình ảnh đầy đủ hơn về tác động của từng<br />
biến số khi đã tính đến tác động của các biến số còn lại. Bảng 1 trình bày phân tích hồi quy<br />
logistic về quan niệm anh/chị/em có phải là thành viên hộ gia đình hay không.<br />
Tất cả các biến số độc lập được liệt kê theo các dòng với tên biến số độc lập được nêu<br />
ở cột đầu tiên. 4 cột tiếp theo là 4 mô hình hồi quy đối với anh/chị/em của người chồng và<br />
người vợ sống cùng nhà hay sống ở nơi khác. Các con số nêu trong bảng là (Exp(B)) là tỷ số<br />
chênh lệch giữa những người coi anh/chị/em là thành viên của gia đình so với giá trị tham<br />
chiếu (không phải thành viên hộ gia đình).<br />
Các giá trị bằng 1 là các giá trị tham chiếu hay các giá trị để so sánh đối với các biến<br />
số hạng (các biến số liên tục như tuổi hay học vấn không có giá trị tham chiếu). Các giá trị lớn<br />
hơn 1 có nghĩa là nhiều người ủng hộ ý kiến coi anh/chị/em là người của gia đình hơn ý kiến<br />
họ không phải thành viên gia đình, trong khi các biến số khác là như nhau. Ngược lại các giá<br />
trị nhỏ hơn 1 nghĩa là nhiều người cho rằng anh/chị/em không phải là thành viên gia đình hơn<br />
là ý kiến coi họ là thành viên gia đình, trong khi các biến số khác là như nhau. Giá trị của tỷ<br />
số chênh lệch càng cách xa 1 thì tác động càng lớn theo chiều này hay chiều ngược lại. Các<br />
con số có dấu "*" (dấu sao) chỉ mức độ có ý nghĩa về mặt thống kê của tỷ số chênh lệch (Exp<br />
B), với một dấu sao tương ứng với mức ý nghĩa thống kê bằng 0,05 (nghĩa là 95% khả năng<br />
quan hệ này là có thật chứ không phải ngẫu nhiên), hai dấu sao chỉ mức ý nghĩa về mặt thống<br />
kê là 0,01 (99% khả năng quan hệ này là có thật), và ba dấu sao chỉ mức ý nghĩa về thống kê<br />
là 0,001 (99 phần nghìn khả năng quan hệ này là có thật). Chẳng hạn, tỷ số chênh lệch Exp(B)<br />
đối với nam bằng 1,500 và mức ý nghĩa một sao có nghĩa là nếu người nam và người nữ cùng<br />
ở một địa bàn điều tra, có mức sống, tuổi, học vấn như nhau và cùng thuộc một nhóm dân tộc<br />
thì người nam có khả năng coi anh/chị/em chồng sống cùng nhà là thành viên gia đình cao<br />
gấp 1,5 lần so với người nữ, và 95% khả năng điều này là có thật chứ không phải vì lý do<br />
ngẫu nhiên của số liệu. Những tỷ số chênh lệch không có dấu sao có nghĩa là chúng ta chưa<br />
có đủ độ tin cậy về mặt thống kê để kết luận. Lưu ý là trong một biến số hạng, chỉ cần một<br />
trong các hạng của biến này có dấu sao là cả biến đó được coi là có ý nghĩa về mặt thống kê.<br />
Bảng 1: Hồi quy logistic về quan niệm anh/chị/em có phải là thành viên hộ gia đình hay<br />
không<br />
ACE chồng cùng ACE chồng nơi ACE vợ cùng ACE vợ nơi<br />
nhà khác nhà khác<br />
(Exp B) (Exp B) (Exp B) (Exp B)<br />
Giới tính<br />
Nữ 1 1 1 1<br />
Nam 1,500* 0,924 0,374*** 0,778<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
Vũ Mạnh Lợi 21<br />
<br />
ACE chồng cùng ACE chồng nơi ACE vợ cùng ACE vợ nơi<br />
nhà khác nhà khác<br />
(Exp B) (Exp B) (Exp B) (Exp B)<br />
Địa điểm<br />
Thừa Thiên - 1 1 1 1<br />
Huế<br />
Yên Bái 2,578** 1,584 0,461* 0,550*<br />
Tiền Giang 1,416 1,679** 0,791 0,574***<br />
Mức sống<br />
Nghèo 1 1 1 1<br />
Khá giả 0,996 0,872 1,067 1,163<br />
Trung bình 0,914 0,772 0,835 1,311<br />
Tuổi 1,010 1,003 0,991 1,000<br />
Học vấn 0,939* 0,971 1,062* 1,042<br />
Dân tộc<br />
Dân tộc thiểu số 1 1 1 1<br />
Kinh 0,885 0,853 1,586 1,368<br />
Hằng số 0,087 1,341 9,454 0,574<br />
Số liệu ở Bảng 1 cho thấy khi tất cả các biến số khác là như nhau, nam giới có xác<br />
suất cao hơn nữ 1,5 lần coi anh/chị/em chồng (anh/chị/em của chính họ) sống cùng nhà là<br />
thành viên gia đình, và có xác suất chỉ bằng 37% của nữ coi anh/chị/em vợ sống cùng nhà là<br />
thành viên gia đình. Nói cách khác, nam có xu hướng coi anh/chị/em mình sống cùng nhà là<br />
thành viên gia đình nhiều hơn nữ, và nữ có xu hướng coi anh/chị/em mình sống cùng nhà là<br />
thành viên gia đình nhiều hơn nam. Đối với anh/chị/em chồng và vợ sống nơi khác, không có<br />
khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê giữa ý kiến của nam và nữ.<br />
Về tác động của địa bàn điều tra, cần lưu ý là địa bàn điều tra chỉ là thang đo đơn giản<br />
nêu lên sự khác biệt về tiểu vùng văn hóa, kinh tế và xã hội. Số liệu trong bảng trên cho thấy khi<br />
tất cả các biến số khác là như nhau, không có sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê giữa Tiền<br />
Giang và Thừa Thiên - Huế đối với ý kiến về anh/chị/em chồng và vợ sống cùng nhà. Trong khi<br />
đó, có sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê giữa Thừa Thiên - Huế (và Tiền Giang) với Yên<br />
Bái. Nếu các biến số khác là như nhau, những người ở Yên Bái có xác suất coi anh/chị/em<br />
chồng là thành viên gia đình cao hơn những người ở Thừa Thiên - Huế (và Tiền Giang) đến 2,6<br />
lần, và họ có xác suất chỉ bằng 46% những người ở Thừa Thiên - Huế (và Tiền Giang) coi<br />
anh/chị/em vợ là thành viên gia đình. Có nghĩa là người được hỏi ở Thừa Thiên - Huế và Tiền<br />
Giang có xu hướng coi anh/chị/em bên vợ là thành viên gia đình cao hơn đáng kể so với những<br />
người được hỏi ở Yên Bái, và họ có xu hướng coi anh/chị/em bên chồng là thành viên gia đình<br />
ít hơn đáng kể so với Yên Bái. Nói cách khác, dường như ở Thừa Thiên - Huế và Tiền Giang<br />
người được hỏi coi trọng cả anh/chị/em bên chồng cũng như bên vợ, trong khi ở Yên Bái người<br />
ta coi trọng bên chồng nhiều hơn.<br />
Bức tranh có phần phức tạp hơn đối với anh/chị/em chồng và vợ không sống cùng<br />
nhà. Người được hỏi ở Thừa Thiên - Huế và Yên Bái không có sự khác nhau đáng kể về việc<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
22 Quan niệm về gia đình của người Việt Nam: nghiên cứu trường hợp tại Yên Bái…<br />
<br />
<br />
coi anh/chị/em chồng không sống cùng nhà là thành viên gia đình trong khi người được hỏi ở<br />
Tiền Giang có xu hướng coi anh/chị/em chồng không sống cùng nhà là thành viên gia đình<br />
cao hơn hẳn người được hỏi ở Thừa Thiên - Huế (và Yên Bái). Đối với anh/chị/em vợ không<br />
sống cùng nhà, cả Yên Bái và Tiền Giang đều có xu hướng coi họ là thành viên gia đình thấp<br />
hơn so với Thừa Thiên - Huế và điều này có ý nghĩa về thống kê. Như vậy, khuôn mẫu coi<br />
anh/chị/em không sống cùng nhà ở Tiền Giang tương đối khác biệt so với hai địa bàn còn lại,<br />
với việc đề cao anh/chị/em sống cùng nhà hơn nhiều so với anh/chị/em không sống cùng nhà.<br />
Mức sống và tuổi tỏ ra không có tác động đáng kể về mặt thống kê đối với việc coi<br />
anh/chị/em chồng và vợ có phải là thành viên gia đình hay không. Biến số học vấn có ý nghĩa<br />
về mặt thống kê đối với việc coi anh/chị/em chồng và vợ sống cùng nhà, nhưng hệ số rất gần<br />
1 cho thấy tác động này là nhỏ. Biến số dân tộc cũng không tỏ ra có ảnh hưởng đáng kể nào<br />
về mặt thống kê đối với quan niệm anh/chị/em có phải là thành viên của gia đình hay không.<br />
III. Kết luận và hàm ý của nghiên cứu<br />
Phân tích nêu trên cho thấy quan niệm của người được hỏi về ai là thành viên của gia<br />
đình không đồng nghĩa với quan niệm về hộ gia đình (cùng sống dưới một mái nhà và cùng chia<br />
sẻ ngân sách chi tiêu), và cũng không đồng nghĩa với quan niệm về họ tộc rộng. Quan niệm của<br />
họ rất khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó quan trọng nhất là việc người<br />
có quan hệ cụ thể nào đó có sống cùng nhà hay sống ở nơi khác và mức độ gần gũi về họ tộc.<br />
Những người sống cùng nhà rõ ràng dễ được coi là người của gia đình hơn nhiều so với những<br />
người họ hàng không sống cùng nhà. Những người có quan hệ gần gũi về mặt họ hàng cũng có<br />
nhiều khả năng được coi là người của gia đình hơn những người có mối quan hệ họ hàng xa<br />
hơn. Bố mẹ, ông/bà, anh chị em, con cái nói chung được coi là thành viên của gia đình nhiều<br />
hơn, đặc biệt nếu họ sống cùng nhà. Tỷ lệ người được hỏi coi người có quan hệ thân tộc về<br />
đằng vợ là thành viên của gia đình thấp hơn đôi chút so với người có quan hệ thân tộc về đằng<br />
chồng - điều này đúng cả đối với quan niệm của nam và nữ.<br />
Phân tích sâu về vị trí của anh/chị/em người chồng và người vợ cho thấy nam có xu<br />
hướng coi anh/chị/em mình sống cùng nhà là thành viên gia đình nhiều hơn nữ, và nữ có xu<br />
hướng coi anh/chị/em mình sống cùng nhà là thành viên gia đình nhiều hơn nam. Đối với<br />
anh/chị/em chồng và vợ sống nơi khác, không có khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê giữa ý<br />
kiến của nam và nữ. Người được hỏi ở ba địa bàn điều tra cũng có sự khác biệt trong quan<br />
niệm về tiêu chuẩn thành viên gia đình của anh/chị/em bên chồng và bên vợ. ở Thừa Thiên -<br />
Huế và Tiền giang người được hỏi coi trọng cả anh/chị/em bên chồng cũng như bên vợ, trong<br />
khi ở Yên Bái người ta coi trọng bên chồng nhiều hơn. ở Tiền Giang người ta đề cao<br />
anh/chị/em sống cùng nhà hơn nhiều so với anh/chị/em không sống cùng nhà so với hai nơi<br />
còn lại. Yếu tố học vấn cũng có tác động nhất định đến quan niệm về anh/chị/em chồng và vợ<br />
sống cùng nhà có phải thành viên gia đình không, nhưng tác động này không lớn. Các yếu tố<br />
như mức sống, tuổi, và dân tộc tỏ ra không có tác động đáng kể về mặt thống kê đối với việc<br />
coi anh/chị/em chồng và vợ có phải là thành viên gia đình hay không.<br />
Hàm ý quan trọng nhất của nghiên cứu này là từ "gia đình" không được mọi người hiểu<br />
giống nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố như nêu trên. Vì vậy, trong các nghiên cứu cũng như các<br />
văn bản pháp lý cần nêu rõ nội dung của khái niệm được áp dụng, cụ thể là "gia đình" gồm những<br />
người như thế nào. Khái niệm "gia đình văn hóa" như nêu trong Quy chế công nhận danh hiệu<br />
"gia đình văn hóa", "làng văn hóa", "tổ dân phố văn hóa" ban hành kèm theo Quyết định số<br />
62/2006/QĐ-BHVTT dựa trên khái niệm "gia đình" mà không nêu rõ gồm những ai là một khái<br />
niệm không rõ ràng. Nó không rõ ràng ngay cả khi sử dụng định nghĩa "gia đình" trong Luật Hôn<br />
nhân và Gia đình năm 2000 vì sẽ không đo lường được các tiêu chuẩn nêu trong Điều 4 của Quy<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />
Vũ Mạnh Lợi 23<br />
<br />
chế nói trên đối với các thành viên sống nơi khác nhưng người dân cho là thuộc "gia đình" họ.<br />
Trên thực tế, "gia đình văn hóa" thường căn cứ theo những người sống cùng dưới một mái nhà và<br />
cùng chia sẻ ngân sách chung, hay những người cùng "hộ". Tuy nhiên, "hộ" có thể bao gồm cả<br />
những hộ mà thành viên của nó không có quan hệ huyết thống hay hôn nhân, như các hộ tập thể<br />
của sinh viên hay người lao động. Để phân biệt với những hộ dạng này, ta có thể sử dụng khái<br />
niệm "hộ gia đình" bao gồm những người có quan hệ huyết thống hay hôn nhân, hay nuôi dưỡng<br />
như nêu trong Luật Hôn nhân và Gia đình và họ đang sống chung dưới một mái nhà và có ngân<br />
sách chi tiêu chung.<br />
Tài liệu tham khảo<br />
1. Coltrane, Scott and Randall Collins. 2001. Sociology of Marriage and the Family. Canada<br />
Wadsworth.<br />
2. Kuper, Adam and Jessica Kuper. 1996. The Social Science Encyclopedia. London and New<br />
York: Routledge.<br />
3. Lê Ngọc Văn. 2004. Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam hiện<br />
nay. Hà Nội ủy ban Dân số - Gia đình và Trẻ em.<br />
4. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.<br />
5. Mai Huy Bích. 2003. Xã hội học gia đình. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hôi.<br />
6. Trần Từ. 1984. Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ. Hà Nội NXB Khoa học<br />
xã hội.<br />
7. Vũ Tuấn Huy, Vũ Mạnh Lợi, Hoàng Đốp, Nguyễn Hồng Quang, Nguyễn Hồng Thái, và<br />
Nguyễn Khánh Bích Trâm. 2004. Xu hướng gia đình ngày nay. Hà Nội: Nxb Khoa học xã<br />
hôi.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org<br />