intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ DTTS

Chia sẻ: Hòa Phát | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

42
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của sáng kiến kinh nghiệm này nhằm đưa ra một số kinh nghiệm trong việc vận dụng phương pháp và các hình thức tổ chức cung cấp tiếng Việt cho trẻ độ tuổi mầm non tại trường Mầm non Hoa Sen nhằm tạo điều kiện giúp trẻ nghe và hiểu được lời hướng dẫn các hoạt động của giáo viên, thông qua việc cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ DTTS

  1. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số                                                           ĐỀ TÀI : MỘT VÀI KINH NGHIỆM CUNG CẤP VỐN TIẾNG VIỆT CHO TRẺ DTTS 5­6 TUỔI I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Việt Nam là một quốc gia gồm 54 dân tộc cùng chung sống. Mỗi dân   tộc có một tiếng nói riêng. Tiếng Việt không chỉ  là phương tiện giao tiếp   trong cộng đồng người Việt mà còn được dùng làm phương tiện giao tiếp   giữa người Việt với người thuộc các dân tộc khác và cả  giữa người các dân  tộc khác với nhau. Từ  sau năm 1945, tiếng Việt không chỉ  là tiếng nói phổ  thông của các dân tộc mà đã trở thành ngôn ngữ quốc gia chính thức và được  sử dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong giáo dục, tiếng Việt là   công cụ  dạy học  ở  tất cả  các cấp học từ  Giáo dục Mầm non đến đào tạo  thạc sĩ, tiến sĩ…ở tất cả các vùng miền và đối với tất cả các dân tộc. Một trong những thành tựu lớn lao nhất của Giáo dục Mầm non là làm  cho trẻ  sử  dụng được một cách thành thạo tiếng Việt trong đời sống hằng   ngày. Tiếng Việt là phương tiện quan trọng nhất để lĩnh hội nền văn hóa dân   tộc, để  giao lưu với những người xung quanh, để  tư  duy, để  tiếp thu khoa  học, để bồi dưỡng tâm hồn… Trẻ em “Tốt nghiệp” xong trường Mẫu giáo là  đứng trước một nền văn hóa đồ sộ của dân tộc và nhân loại mà nó có nhiệm  vụ phải lĩnh hội những kinh nghiệm của cha ông để lại đồng thời có sứ mạng  xây dựng nền văn hóa đó trong tương lai. Cho nên việc phát triển tiếng Việt   cho trẻ  em lứa tuổi Mẫu giáo là một nhiệm vụ cực kì quan trọng, mà ở  tuổi  Mẫu giáo lớn nhiệm vụ đó phải được hoàn thành. Đặc biệt đối với trẻ là con  em đồng bào dân tộc thiểu số  thì nhiệm vụ  này là hết sức cần thiết. Bởi vì   các cháu dân tộc thiểu số thường hay dùng tiếng mẹ đẻ của trẻ, nên khó khăn  trong việc tiếp nhận tiếng Việt, dẫn đến cháu khó tiếp thu lời giảng của cô.  Chính vì vậy việc cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là vấn đề  cần được quan tâm, nhằm hình thành và phát triển những kỹ  năng cần thiết  cho việc học tiếng Việt ở các bậc học cao hơn. Bản thân là một giáo viên, được phân công chủ  nhiệm lớp Lá 3 ­ buôn  Ea Kruế đa phần học sinh là người đồng bào dân tộc, tôi thấy rằng kỹ  năng   giao tiếp bằng tiếng Việt của trẻ còn rất hạn chế, trẻ thường phát âm không  chuẩn và vốn từ, câu văn khi trẻ nói còn chưa đúng ngữ pháp… Tôi đã rất băn  khoăn, luôn tìm tòi những biện pháp để  phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ,   khuyến khích trẻ sử dụng tiếng Việt để học và giao tiếp với cô và bạn bè để  giúp trẻ hoàn thiện tiếng Việt trước khi bước vào lớp Một. Chính vì vậy tôi   đã lựa chọn đề tài “Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ dân   tộc thiểu số”     Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang 1
  2. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài ­ Đưa ra một số kinh nghiệm trong việc vận dụng phương pháp và các   hình thức tổ  chức cung cấp tiếng Việt cho trẻ  độ  tuổi mầm non tại trường  Mầm non Hoa Sen nhằm tạo điều kiện giúp trẻ nghe và hiểu được lời hướng  dẫn các hoạt động của giáo viên, thông qua việc cung cấp vốn tiếng Việt cho   trẻ dân tộc thiểu số. ­ Tổ chức các hoạt động trong lớp đạt kết quả như: trò chuyện với trẻ  bằng tiếng Việt và thể  hiện các hành động tương  ứng với lời nói giúp trẻ  dần thích ứng với ngôn ngữ thứ hai. ­ Đưa ra một số kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ mầm non   nói chung và trẻ dân tộc thiểu số ở trường Mầm non Hoa Sen nói riêng. ­ Cần nắm được tâm lý và nguyện vọng của trẻ để từ đó xây dựng các   phương pháp, hình thức, biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ  dân tộc  thiểu số ngay ở độ tuổi mầm non. 3. Đối tượng nghiên cứu Một số kinh nghiệm cung cấp vốn từ tiếng Việt cho trẻ DTTS 5­6 tuổi  4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu trong khuôn khổ: Một số  kinh nghiệm cung cấp vốn từ  tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5­6 tuổi trường Mầm non Hoa Sen.  Đối tượng khảo sát: Trẻ  5­6 tuổi Lớp Lá 3 – Buôn Ea Kruế  trường  Mầm non Hoa Sen. 5. Phương pháp nghiên cứu Sáng kiến này được thực hiện với những phương pháp sau: ­ Phương pháp nghiên cứu lý luận  ­ Phương pháp quan sát ­ Phương pháp phỏng vấn trò chuyện ­ Phương pháp điều tra II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận: Trong cuộc sống xã hội con người luôn luôn phải giao tiếp với nhau, có  nhiều cách để  giao tiếp song cách giao tiếp chủ  yếu là sử  dụng ngôn ngữ.  Nhờ ngôn ngữ con người có thể trò chuyện, trao đổi tin tức, bày tỏ tư  tưởng   tình cảm, học tập tri thức khoa học .... Đối với người Việt Nam, tiếng Việt là   ngôn ngữ  chính, đặc biệt đối với trẻ  dân tộc thiểu số  việc giúp các cháu sử  dụng thành thạo tiếng Việt là việc làm cần thiết đối với mỗi giáo viên. Tuy      Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang 2
  3. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số nhiên trong thực tế hiện nay đa số  trẻ  vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu   số, trước khi đến trường trẻ  chỉ  sống trong gia đình,  ở  các thôn bản nhỏ,   trong môi trường tiếng mẹ đẻ do vậy trẻ chỉ nắm được tiếng mẹ đẻ  ở dạng  khẩu ngữ. Trẻ biết rất ít hoặc thậm chí không biết tiếng Việt. Trong khi đó  tiếng Việt là ngôn ngữ  được dùng chính thức trong trường học và các cơ  sở  giáo dục khác. Trên thực tế tiếng nói các dân tộc thiểu số, hầu như  chưa có   vai trò rõ rệt trong việc hỗ trợ tiếng Việt trong giáo dục vì vậy, cho đến nay  việc dạy và học tiếng Việt ở các vùng dân tộc thiểu số chỉ đạt kết quả thấp.   Đặc biệt ở lớp chúng tôi đa số các cháu là người dân tộc Êđê việc nghe và nói  tiếng Việt rất kém, mặc dù cô giáo có kèm cặp nhiệt tình thì trẻ vẫn nói bằng  hai thứ tiếng mà chủ yếu là tiếng mẹ đẻ, nhất là khi trẻ ra khỏi lớp học. Sở  dĩ như vậy là do tiếng Việt không phải là một phương tiện sử dụng dễ dàng   đối với học sinh dân tộc thiểu số. Ở trường, lớp học sinh chỉ dùng tiếng Việt   nói với giáo viên khi cần thiết còn ngoài ra trẻ  vẫn thường xuyên sử  dụng  ngôn ngữ  riêng của dân tộc mình, dẫn đến tình trạng cô và trò không hiểu  nhau, chính vì vậy dẫn đến chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ  không thể  đạt  được kết quả như mong muốn. Vì vậy việc cung cấp tiếng Việt cho trẻ dân  tộc thiểu số là hoạt động cần thiết nhằm giúp học sinh chưa biết hoặc biết ít  tiếng Việt có thể học tập và sử  dụng tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức một   cách đơn giản hơn. 2. Thực trạng Xuất phát từ thực tế, bản thân tôi nhận thấy đa số  trẻ  là con em đồng   bào dân tộc thiểu số  ít được tiếp xúc, giao tiếp với mọi người để  trao dồi   vốn tiếng Việt cho mình 2.1. Thuận lợi và khó khăn + Thuận lợi: Lớp luôn được sự  quan tâm của Nhà trường, hội cha mẹ  học sinh về  tinh thần cũng như vật chất Lớp có 2 cô trẻ  khỏe, năng động, đoàn kết, thống nhất, vươn lên, vất  vả  đến đâu cũng bám lớp, bám trường thực hiện nhiệm vụ  của người giáo  viên nhân dân, có trình độ chuyên môn vững vàng, yêu nghề mến trẻ. Tình hình an ninh chính trị tương đối ổn định. + Khó khăn: Phần đông học sinh là con em đồng bào dân tộc Êđê nên việc giao tiếp,  truyền thụ kiến thức giữa cô và trẻ bằng tiếng Việt còn nhiều khó khăn. Phụ  huynh học sinh chưa thực sự quan tâm và tạo điều kiện cho việc  học tập của chính con em mình học tập.     Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang 3
  4. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số Trình độ dân trí thấp làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác xã hội hóa   giáo dục và phối kết hợp trong quá trình chăm sóc giáo dục và rèn luyện cho   trẻ Cơ sở vật chất còn thiếu, công trình vệ sinh chưa có, ít thiết bị đồ chơi   ngoài trời Các trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy và học vẫn còn thiếu 2.2. Thành công và hạn chế + Thành công: Giúp giáo viên nhận thức đúng đắn hoạt động dạy tiếng Việt cho trẻ  dân tộc thiểu số bậc học mầm non. Trẻ đến trường chuyên cần hơn và hứng thú hơn trong các hoạt động. 100% trẻ  dân tộc thiểu số  đã nghe hiểu được từ  về  gọi tên đặc điểm   của các đồ  vật, con vật và sự  hiện tượng gần gũi quen thuộc, biết sử  dụng  các từ và câu đơn giản trong sinh hoạt hàng ngày, biết thể hiện hành vi trong   giao tiếp và mạnh dạn hơn trong giao tiếp với cô và bạn. Trẻ  biết thêm được một ngôn ngữ  mới sẽ  giúp trẻ  tự  tin hơn khi giao   tiếp với mọi người xung quanh, từ  đó trẻ  tham gia vào các hoạt động một  cách hứng thú. Tạo cơ hội mở rộng được tầm nhìn và kiến thức cho trẻ bước   vào bậc học tiếp theo đạt kết quả tốt hơn. + Hạn chế: Đa số giáo viên là người kinh nên việc tiếp xúc với trẻ người đồng bào  còn hạn chế do chưa thành thạo tiếng Ê đê. Phần lớn trẻ  dân tộc thiểu số  trước khi tới trường, lớp mầm non đều  sống trong môi trường tiếng mẹ đẻ, vì vậy trẻ dân tộc thiểu số không có vốn   tiếng Việt ban đầu để  học tập  ở  trường phổ  thông nếu như  không được  chuẩn bị tốt tiếng Việt. Một số phụ huynh chưa hợp tác chặt chẽ với nhà trường. 2.3. Mặt mạnh ­ mặt yếu + Mặt mạnh: Hầu hết giáo viên nhận thức rõ về  việc cung cấp vốn tiếng Việt cho   trẻ dân tộc thiểu số là vô cùng quan trọng, bởi vì ngôn ngữ có chức năng làm  công cụ tư duy, công cụ  biểu đạt tư  tưởng, tình cảm và là phương tiện giao  tiếp của các thành viên trong xã hội. Giáo viên đã tạo cho trẻ môi trường làm quen với tiếng Việt một cách   nhẹ nhàng mà chất lượng.     Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang 4
  5. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số Trẻ đi học thường xuyên có điều kiện giáo dục trẻ mọi lúc mọi nơi và   tích hợp vào các môn học khác + Mặt yếu: Một số  giáo viên lớn tuổi tiếp cận và đổi mới phương pháp, chương   trình dạy cho trẻ làm quen tiếng Việt còn hạn chế, chưa sáng tạo trong việc   thực hiện chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ   Mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số, trong  quá trình tổ chức thực hiện chương trình giáo dục Mầm non, tiếp nhận công  nghệ thông tin còn chậm. Phần lớn phụ huynh còn quá bận rộn với công việc nên ít quan tâm đến   việc chăm sóc và giáo dục trẻ. Nhận thức của một số phụ huynh về vấn đề  giáo dục trẻ còn thấp. Tiếng dân tộc của giáo viên dân tộc Kinh còn hạn chế. Giáo viên dân tộc thiểu số  ít sử  dụng tiếng Việt do có thói quen nói   tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp với trẻ 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Hầu hết trẻ là con em đồng bào dân tộc thiểu số, phụ huynh chưa hiểu  hết tầm quan trọng của việc đưa con em đến trường, trẻ thường phải tự đến   lớp 1 mình, không có sự  đưa đón của bố  mẹ, dẫn đến việc lớp không đảm   bảo sĩ số, giáo viên không có cơ  hội gặp gỡ  các phụ  huynh để  trao đổi tình  hình của các cháu ở lớp cũng như ở nhà. Các cháu 100% là người đồng bào dân tộc thiểu số, các cháu giao tiếp   với nhau chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ, các cháu ít có cơ hội giao tiếp tiếng việt   vì  ở  Thôn buôn các cháu ít có người kinh sinh sống… chính vì vậy mà việc   các cháu tiếp thu tiếng việt còn gặp rất nhiều hạn chế. Cảnh quan nhà trường còn hạn hẹp, chưa được thoáng mát, ít cây xanh,   gây trở ngại khi cho trẻ hoạt động tích hợp vào các môn khác. Điều kiện sử dụng, cập nhật công nghệ thông tin của giáo viên còn hạn   chế, nên sự cuốn hút sáng tạo của trẻ khi hoạt động còn hạn chế. 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt  ra Với thực trạng địa bàn còn nhiều khó khăn và bất cập, trẻ đến trường  không biết nói tiếng phổ  thông, e ngại, nhút nhát, sợ  hãi trong giao tiếp với   bạn bè cùng trang lứa. Nhân dân trên địa bàn còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ  dân trí thấp, đa số họ chưa quan tâm đến việc học tập của con em. 3. Giải pháp, biện pháp 3.1. Mục tiêu của giải pháp và biện pháp     Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang 5
  6. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số Trước tình hình thực tế ở lớp tôi, tôi nghĩ việc cung cấp cho trẻ dân tộc  thiểu số vốn tiếng Việt là một việc hết sức quan trọng cần thiết và cấp bách.   Khi mới nghĩ đến điều này thì tưởng chừng như đơn giản nhưng trên thực tế  lại không đơn giản tí nào, tôi đã tự  hỏi phải làm thế  nào để  cho trẻ  tiếp thu   tiếng việt một cách hiệu quả  và với 1 số  kinh nghiệm nhỏ  tôi đã mạnh dạn  áp dụng cho trẻ  ở lớp tôi với muc đích giúp cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ  dân tộc thiểu số. 3.2.Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Để  góp phần đưa các biện pháp dạy tiếng Việt cho trẻ mầm non. Tôi  đã tuyên truyền phụ  huynh tích cực hợp tác với nhà trường, cùng thống nhất  dạy tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Đặc biệt khi trẻ ở nhà các thành viên  trong gia đình cần dùng tiếng Việt giao lưu với trẻ thường xuyên. Mỗi giáo   viên cần phải có trách nhiệm gần gũi trò chuyện với trẻ kết hợp với cử chỉ,   hành động để trẻ dần được làm quen với tiếng Việt một cách tự nhiên không   gò bó. Ví dụ: Thông qua biện pháp trực quan hành động giúp cho người học   tiếp thu có hiệu quả và học ngôn ngữ  mới một cách tự  nhiên hứng thú. Mục  đích của phương pháp này nhằm giúp cho người học đạt được các mục đích   như: Hiểu và sử  dụng ngôn ngữ mới trong giao tiếp, hình thành và rèn luyện   kỹ  năng nghe, nói một ngôn ngữ  mới. Không cho trẻ  nói khi chưa thực hiện   thành thạo được các hành động, để có thể tập trung lắng nghe chuẩn xác. Khi  đã nghe rõ, hiểu, thuộc và tự  tin làm đúng, trẻ  sẽ  tự  muốn nói và có thể  tự  thực hành với bạn của mình, giáo viên cần cho trẻ đều được thực hành ở mỗi   lần học. Chỉ  sử  dụng ngôn ngữ  đơn giản, ngắn gon, không dẫn dắt, giảng  giải nhiều vì trẻ chưa hiểu tiếng Việt. Khi dạy trẻ, giáo viên cần xác định trước những loại từ, câu nào sẽ  sử  dụng khi hướng dẫn trẻ. Nên sử  dụng các điệu bộ  cử  chỉ  để  ra hiệu cho trẻ  hiểu ý đồ của mình, thay cho việc nói nhiều của người dạy. Lúc đầu dạy từ  1­2 từ dễ hiểu kết hợp với hành động như: Đứng lên, ngồi xuống... đến ngày  hôm sau cô giáo cần cho trẻ  ôn lại những gì được học ngày hôm trước, để  khắc sâu sự ghi nhớ bằng hình thức chơi mà  không cần phải giữ nguyên thứ  tự  từ các bước ngày hôm trước dạy nữa ví dụ: Đứng lên ­ ngồi xuống, ngồi  xuống ­ đứng lên, rửa tay ­ rửa chân… Dạy tiếng Việt với biện pháp trực   quan hành động với đồ  vật, biện pháp này dạy trẻ  các từ  mới như: Cái bàn,  cái ghế, quyển vở… Ngoài ra còn sử  dụng các biện pháp dạy trẻ  học tiếng Việt qua kể  chuyện, đóng vai, đối với mỗi câu chuyện, làm các đồ  chơi minh hoạ, đơn  giản tượng trương cho các nhân vật chính, sử  dụng các nhân vật có sẵn để  làm đồ dùng minh hoạ. Hoặc trẻ học tiếng Việt thông qua việc dạy trẻ nhận  biết và phát âm đúng 29 chữ cái tiếng Việt.     Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang 6
  7. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số Biện pháp 1. Tuyên truyền huy động trẻ  đi học chuyên cần, cung   cấp vốn  tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi * Tuyên truyền huy động trẻ đi học chuyên cần ­ Tuyên truyền với các bậc phụ  huynh về  tầm quan trọng của tiếng  Việt đối với trẻ và nhờ họ khuyến khích con cháu mình giao tiếp bằng tiếng   phổ thông… ­ Khi đến lớp tôi luôn tạo sự gần gũi với trẻ, tìm hiểu về hoàn cảnh gia   đình của từng trẻ, thường xuyên gặp gỡ nói chuyện và trao đổi với phụ huynh  của trẻ, cho họ biết việc đưa con mình đến lớp mẫu giáo là một vấn đề quan  trọng, nó giúp ích cho trẻ  rất nhiều, cháu đến trường sẽ  được học chương   trình mầm non, cháu được học múa, học hát, được làm quen với các bài thơ,  được nghe kể  chuyện, học vẽ, tập tô… giúp hình thành  ở  các cháu các kỹ  năng cần thiết, đồng thời qua đó sẽ  giúp cho các cháu mạnh dạn hơn, tự  tin   hơn, giao tiếp tốt hơn và cháu không còn bỡ  ngỡ  khi bước vào lớp 1. Bên   cạnh việc tuyên truyền với phụ huynh tôi luôn tạo sự gần gũi thương yêu trẻ,   luôn tìm tòi học hỏi những kinh nghiệm cũng như  “nghệ  thuật lên lớp” làm   cho trẻ hứng thú hơn mỗi khi đến trường, để trẻ cảm nhận được “Mỗi ngày   đến trường là 1 niềm vui” ­ Luôn tìm và tổ chức những hoạt động vui chơi hấp dẫn, sưu tầm đồ  dùng, đồ chơi phục vụ cho các hoạt động của trẻ nhằm thu hút trẻ đến lớp. ­ Nhờ phụ huynh ở nhà có thể trò chuyện với trẻ bằng tiếng phổ thông,  cho trẻ tiếp cận với thông tin đại chúng như mở tivi cho các cháu xem những   chương trình thiếu nhi, ca nhạc, phim hoạt hình… để giúp các cháu phát triển  kĩ năng nghe và hiểu tiếng Việt tốt hơn * Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động đầu giờ Ví dụ: Khi trẻ  đến lớp trẻ  chào cô thì cô động viên khen bé ngoan, có  thể hỏi trẻ : “Hôm nay ai đưa con đi học?” “Con đã ăn sáng chưa?” hay “Sáng  nay mẹ cho con ăn gì?”… ­ Trong giờ hoạt động ngoài trời tôi thường tổ chức cho các cháu đi dạo   trong sân trường, khi thì tôi cho trẻ tưởng tưởng mình đang được đi du lịch lúc   thi như  đang được đi tham quan … trẻ  rất vui và rất thích. Mỗi ngày khi đi   dạo trong sân trường tôi thường đặt câu hỏi theo chủ  đề  đang thực hiện để  trẻ trả lời Ví dụ: Chủ đề Thế giới động vật ­ Tôi tổ chức cho trẻ tham quan mô hình “Trang trại nhà bé”, tôi đặt câu   hỏi gợi ý để trẻ trả lời “ Đây là con gì?”, “Nó sống ở đâu?”, “Thức ăn của nó  là gì?”...     Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang 7
  8. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số ­ Đa số  trẻ  đều dùng tiếng mẹ  đẻ  trả  lời, trước tình huống đó tôi đã   cho cháu biết tên của con vật đó đồng thời khuyến khích các cháu gọi tên con  vật bằng tiếng Việt. ­ Những lúc tổ chức cho các cháu chơi trò chơi dân gian hay chơi tự do  tôi luôn tìm sẵn những bài thơ, bài vè, ngắn dễ đọc, dễ  nhớ có trong chương  trình, phù hợp với chủ đề để dạy cho các cháu, tôi luôn khuyến khích các cháu  đọc, sửa sai cho những cháu đọc chưa đúng, đối với các cháu đọc chưa rõ ràng  thì tôi dạy cho các cháu đọc từng câu. ­ Trong những lúc rảnh tôi chải tóc hay sửa sang quần áo cho các cháu  tôi thường đặt những câu hỏi để các cháu trả lời. Ví dụ: Ai mua kẹp tóc cho con mà đẹp vậy? Nhà con có mấy anh em?   Có em bé không?... qua những lúc trò chuyện với các cháu như vậy đã giúp tôi   biết được cháu nào còn rụt rè nhút nhát, cháu nào còn sử  dụng câu cụt hay   cháu nào chưa phát âm rõ… từ đó tôi dành nhiều thời gian gần gũi trò chuyện   và tập cho cháu phát âm nhiều hơn, đồng thời giúp các cháu mạnh dạn hơn Biện pháp 2: Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ thông qua các giờ  học Trong tất cả  các giờ  học tôi đều trò chuyện và đặt câu hỏi tôi luôn   khuyến khích trẻ nói và trả lời cô bằng tiếng Việt. * Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động khám phá khoa   học: ­ Đây là một môn học mà đòi hỏi người giáo viên phải tìm ra những   “nghệ thuật lên lớp” hấp dẫn vì môn học này sử dụng phương pháp quan sát   và đàm thoại, mà trẻ  người dân tôc thiểu số  thì rất hạn chế  về  ngôn ngữ  tiếng việt. Trẻ  chỉ có thể trả  lời theo sự  gợi ý của cô hoặc trả  lời bằng câu  cụt… ­ Môn khám phá khoa học là một trong những môn học giúp trẻ  phát   triển nhận thức và ngôn ngữ  tích cực nhất, vì vậy tôi nghĩ cần phát huy hết   tác dụng của môn học này để dạy trẻ. Ví dụ: Chủ đề Thế giới động vật Đề tài: Những con vật đáng yêu. ­ Khi cho trẻ quan sát tranh con chó và tôi đố  cả  lớp đây là con gì? Thì  trẻ trả lời “Asâo” (tiếng Việt có nghĩa là con chó) Trước tình huống đó tôi nói  với các cháu: “cô và các con cùng thi xem ai nói giỏi nhé cô sẽ nói tiếng của   các con và các con nói tiếng của cô các con có đồng ý không?” và tiết học của   chúng tôi đã trở  thành một “cuộc thi tài” trẻ  nào cũng muốn mình là người  chiến thắng, và tình huống trên đã được thay đổi các cháu đã cố  gắng nói  bằng tiếng Việt mỗi khi cô đưa tranh ra.     Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang 8
  9. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số Ví dụ: Trẻ Cô Con Mèo Miêu Con Vịt Bip Con Heo Ũn ­ Một hạn chế mà trẻ người đồng bào thường mắc phải, đó là nói thiếu   dấu Ví dụ: “ Con vịt ” thì trẻ đọc là  “ Con vit” ­ Tôi hướng dẫn các cháu cách phát âm đồng thời sửa sai kịp thời cho   các cháu, khuyến khích, tuyên dương những trẻ  phát  âm  đúng, sửa sai và   hướng dẫn cho các cháu phát âm chưa đúng, giúp các cháu khắc phục cũng  như hạn chế được lỗi mất dấu khi phát âm. ­ Với hình thức “Thi tài” hay “Đố  vui có thưởng”… giữa cô và trẻ  thì  trẻ đã có thể nghe và hiểu được câu hỏi của cô ­ Ví dụ : Chương trình “Đố vui có thưởng” cô bốc thăm và đọc câu hỏi:   Con chó là động vật sống  ở đâu? Trẻ nào biết thì lắc xắc xô và được quyền   trả lời: Thưa cô con chó là động vật sống trong nhà… * Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ  qua ho ạt  động làm quen với   toán ­ Tôi luôn chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học phù hợp với chủ đề với đề  tài. Điều này theo tôi nghĩ là rất cần thiết vì nó tạo cho trẻ sự  hứng thú hơn   khi được nhìn ngắm những đồ dùng đẹp, mới lạ đối với các cháu Ví dụ: Chủ đề Gia đình Đề tài: Đếm đến 6 ­ nhận biêt nhóm đồ dùng có 6 đối tượng ­ chữ số 6   Với đề tài này tôi chuẩn bị rất nhiều đồ dùng gia đình như ly, chén, đũa… tôi  cho các cháu gọi tên và nói công  dụng của từng đồ dùng, trẻ  rất thích thú và  rất vui khi mình nói đúng tên và công dụng của những đồ  dùng đó. Mặc dù  bên cạnh đó vẫn còn một số cháu dùng tiếng mẹ đẻ để gọi tên đồ dùng đó và  với tình huống đó tôi đã khuyến khích các cháu bằng cách: Ai gọi đúng tên đồ  dùng thì được tham gia trò chơi cùng với cô và trẻ nào cũng muốn mình được  tham gia cuộc chơi, trẻ  đã cố  gắng gọi tên đồ  dùng bằng tiếng Việt, và khi  các cháu phát âm được các cháu rất vui. * Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ  qua   hoạt động làm quen văn  học:     Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang 9
  10. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số ­ Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và biết sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt   trong mọi hoạt động  ở  trường cũng như  trong cuộc sống hàng ngày và qua  môn làm quen văn học tôi đã tích cực đưa ngôn ngữ  tiếng Việt vào cung cấp  cho các cháu. ­ Thông qua tổ khối, chuyên môn chúng tôi đã thống nhất lựa chọn bài  thơ, câu chuyện phù hợp với từng độ  tuổi của trẻ, có nội dung dể  hiểu và  hấp dẫn đối với trẻ. Vì sự  tập trung chú ý của trẻ  chưa cao, chưa có ý thức   trong hoạt động học tập.  Nắm được nhược điểm này tôi đã luôn tìm tòi và  sưu tầm những “nghệ thuật lên lớp” tạo ra mọi tình huống bất ngờ, hồi hộp,   hay vui nhộn…để  lôi cuốn sự  tập trung chú ý của trẻ  vào tiết học, khơi gợi  tính tò mò, thích tìm hiểu và khám phá ở trẻ. Ví dụ: Cốc ! cốc! cốc ! Dê con ngoan ngoãn mau mở  cửa ra mẹ đã về  rồi cho các con bú (cô giả  giọng chó sói hung ác…) và muốn biết đó có   phải là Dê mẹ  không thì chúng mình hãy thật im lặng và lắng nghe xem Dê  con có mở cửa không qua câu chuyện “Dê con nhanh trí” nhé. ­ Với giọng điệu lúc trầm lúc bổng, lúc hồi hộp, lúc gây cấn của cô đã  lôi cuốn được trẻ vào giờ học và từ đó trẻ chăm chú lắng nghe cô kể và tiếp  thu được lời kể của cô giáo. Cô giảng nội dung câu chuyện ngắn gọn dể hiểu   nhằm giúp trẻ nắm được nội dung câu chuyện. ­ Để  cháu nhớ  và hiểu câu chuyện sâu hơn, cô có thể  kể  nhiều lần   bằng nhiều hình thức, khi kể  cô thể  hiện cử  chỉ, điệu bộ, giọng nói, hành   động của từng nhân vật một cách rỏ  ràng, phù hợp với tính cách của từng   nhân vật để trẻ có thể hiểu và cảm nhận được đâu là nhân vật hiền lành, đâu   là nhân vật hung dữ… Ví dụ: Nhân vật Dê mẹ thì ta thể hiện giọng nhẹ nhàng, hiền lành… Nhân vật Dê con khi nói chuyện với mẹ thì giọng ngây thơ  trong sáng,   còn khi nói chuyện với  Chó sói thì giọng cứng rắn, gan dạ… Nhân vật Chó sói thì ta thể hiện giọng gian dối, xảo quyệt… ­ Tiếp theo cô tiến hành đàm thoại với trẻ, để tạo cho không khí sôi nổi   hơn cô có thể dẫn dắt cuộc đàm thoại trở thành cuộc thi tài “các con thấy Dê   con có thông minh không? Vậy bây giờ chúng mình hãy thi xem ai thông minh  giống như  bạn Dê con nhé”. Và cô đặt câu hỏi khuyến khích trẻ  trả  lời…cô  có thể  mời các cháu lên kể  chuyện theo tranh hay kể  chuyện sáng tạo, đóng   kịch…(Cô có thể trang bị những chiếc mũ hoặc những đồ  dùng của nhân vật  để  tạo sự  lôi cuốn và thích thú cho trẻ  hơn…) và cô tuyên dương , khen trẻ  kịp thời để  khuyến khích trẻ, cô có thể   thay lời nhân vật như  “Dê mẹ  thấy  bạn A kể  chuyện hay nên Dê mẹ  đã thưởng cho bạn một món quà…” và   những trẻ khác chắc chắn sẽ cố gắng giống như bạn đó để được nhận quà.     Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang   10
  11. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số ­ Đối với đọc thơ  tôi luôn tạo cho trẻ  sự  chú ý tập trung bằng giọng   đọc diễn cảm và không quên thể hiện cử chỉ điệu bộ…tiến hành cho trẻ đọc  thơ  bằng nhiều hình thức như (cả lớp đọc, thi tài giữa các tổ, các nhóm, các   nhân, đọc nối đuôi…) ­ Với những hình thức như  vậy vốn từ  tiếng Việt của trẻ  lớp tôi đã  tăng len một cách rỏ  rệt và đó cũng là một động lực to lớn thúc đẩy tôi tiếp  tục tìm tòi các biện pháp khác để áp dụng vào dạy trẻ nhằm giúp trẻ tiếp thu   và tăng vốn từ tiếng Việt. ­ Mỗi khi vào đầu giờ học tôi thường trò chuyện với các cháu, tạo cho   các cháu sự  thoải mái, không áp lực, gây cho cháu sự  hứng thú, sự  tập trung  khi nghe cô trò chuyện hoặc đọc thơ. Tôi luôn luôn tập cho mình có một   giọng kể  cũng như  lời dẫn dắt phù hợp với các tính cách của các nhân vật  trong truyện tạo sự  tập trung, lôi cuốn trẻ  vào lời kể  của cô, hay trong giờ  đọc thơ  tôi thường xuyên tập cho mình giọng đọc truyền cảm, lời đọc phù  hợp với nội dung bài thơ  lúc trầm, lúc bổng … nhằm tạo sự  hứng thú cuốn  hút các cháu tập trung hơn vì trẻ mẫu giáo một khi đã thích thì chú ý một cách  say mê. Bên cạnh đó tôi luôn khuyến khích cho các cháu đọc lại bài thơ  hay   kể lại câu chuyện đã được nghe cô kể, không dừng lại ở đó trong những giờ  kể  chuyện tôi tập cho các cháu đóng kịch và điều này đã làm cho các cháu  thích thú vô cùng, và đây cũng là một hình thức giúp các cháu phát triển ngôn   ngữ tốt hơn. * Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động âm nhạc ­ Các cháu dân tộc thiểu số rất thích hát, múa, tận dụng được ưu điểm  đó mà trong giờ  hoạt động âm nhạc tôi đã đưa môn tiếng việt vào cung cấp   cho các cháu một cách triệt để, các cháu tham gia một cách rất say mê, tôi dạy  cho các cháu hát những bài hát theo chủ  điểm cũng như  những bài hát trong  chương trình mầm non …Tổ chức cho các cháu cuộc thi “ Đồ Rê Mí”, tập cho   các cháu đóng vai làm ca sĩ lên giới thiệu tên mình và  biểu diễn cho các bạn   xem cứ lần lượt như vậy và tất cả  các cháu đều được lên hát, bước đầu các   cháu chỉ thuộc lời của bài hát và càng sôi động hơn khi được nghe nhạc không  lời và  các cháu là những ca sĩ thể hiện bài hát, thông qua đó các cháu đã dần   dần cảm nhận được giai điệu của bài hát và hiểu được nội dung của bài hát   điều này cho tôi thấy các cháu có khả  năng nghe và hiểu tiếng việt và tôi đã   khuyến khích đồng thời tích hợp môn âm nhạc vào mọi hoạt động nhằm giúp  các cháu phát triển vốn tiếng việt tốt hơn nữa * Cung cấp vốn tiếng Việt qua hoạt động làm quen chữ cái ­ Nội dung của hoạt động này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29  chữ cái, bên cạnh đó còn giúp trẻ đọc đúng các từ, hiểu được nội dung các từ,  từ đó giúp trẻ sử dụng từ đã biết để diễn đạt ý mình muốn nói…     Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang   11
  12. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số ­ Để  việc rèn kỹ  năng phát âm cho trẻ  dân tộc thiểu số  đạt hiệu quả,   trước hết giáo viên phải chuẩn về phát âm tiếng Việt, nếu giáo viên phát âm   không chuẩn thì sẽ làm các em phát âm sai. ­ Trong lớp tôi cũng có một số  cháu nói được tiếng phổ  thông nhưng   không nhớ mặt chữ cái hay từ ngữ của tiếng Việt, các cháu thể hiện theo bản   năng bắt chước…chính vì vậy mà việc dạy trẻ làm quen với chữ cái sẽ  giúp  trẻ nhận biết được chính xác cấu tạo của các chữ cái cũng như cách phát âm,   để từ đó trẻ có thể nghe, cảm nhận, phát âm và tìm được chữ  cái tương ứng  trong từ… Ví dụ:  Chủ đề Gia đình Đề tài: Làm quen chữ cái e,ê. ­ Cô tạo tình huống cho trẻ đến thăm nhà 1 bạn, bạn đó ở nhà rất ngoan  và lớp mình có muốn ngoan giống bạn đó không, vậy bây giờ chúng mình hãy  ngồi thật ngoan để xem mẹ bạn ấy tặng cho chúng mình món quà gì nhé (và  tất nhiên trẻ nào cũng muốn mình ngoan giống như bạn…) ­ Cô có tranh “mẹ  bế  bé” dưới tranh cô có từ  “Mẹ  bế  bé” cô cho trẻ  đọc từ dưới tranh (Cả lớp cùng đọc) ­ Cô đặt những câu hỏi cho trẻ  trả  lời: Trong từ  “Mẹ  bế  bé có bao  nhiêu tiếng?” ­ Để  chỉ  từ  “Mẹ  bế  bé” cô cũng có thẻ  chữ  cái rời ghép lại, bạn nào  giỏi lên rút chữ đã học (trẻ lên rút chữ đã học và phát âm) ­ Cô dẫn dắt tạo tình huống và giới thiệu hôm nay cô sẽ  cùng với lớp  mình làm quen với “Những chữ  cái dễ  thương” hay “Những chữ  cái đáng  yêu”…nhằm lôi cuốn trẻ  hứng thú hơn vào hoạt động. Cô phân tích cấu tạo  của chữ cái e,ê, cô giới thiệu cách viết và cho trẻ phát âm chữ cái e, ê. Cô cho  trẻ  quan sát và so sánh đặt điểm của hai chữ  cái, cô gợi ý cho trẻ  nêu được  điểm giống và khác nhau để từ đó giúp trẻ nhớ lâu hơn…và để khắc sâu hơn  về đặc điểm, cấu tạo và nhận biết chính xác các chữ cái, ta phải luôn tìm tòi,   học hỏi và sưu tầm các trò chơi phù hợp với nội dung để  tổ  chức cho trẻ  nhằm giúp trẻ  nắm được các chữ  cái không những thế  mà còn giúp cho trẻ  phát âm các chữ cái một cách chính xác hơn. ­ Ví dụ: như  trò chơi “Chiếc nón kỳ  diệu” hay trò chơi “Bánh xe chữ  cái”… trẻ quay vào trúng chữ cái nào cho trẻ phát âm chữ cái đó… * Cung cấp vốn tiếng việt qua giờ hoạt động góc ­ Tất cả các góc chơi trong lớp tôi đều cho những ký hiệu riêng, khi trẻ  chơi trẻ nhận biết đó là góc gì… ­ Giờ hoạt động góc tôi chuẩn bị sẵn các thẻ đeo cho trẻ (Vd: Trẻ chơi  ở góc xây dựng thì đeo thẻ có hình chiếc bay của thợ xây, góc nghệ thuật thì       Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang   12
  13. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số thẻ có hình chiếc đàn…) nhằm lôi cuốn trẻ vào hoạt động hứng thú hơn, trẻ  tham gia chơi một cách tự  nhiên và sáng tạo, các cháu chơi với nhau, trò  chuyện với nhau bằng tiếng mẹ  đẻ, những lúc đó tôi đến bên các cháu trò  chuyện trao đổi, nhập vai và đặt câu hỏi để các cháu trả lời. Ví dụ: Chủ đề Ngành nghề ­ Góc phân vai: Bán một số sản phẩm của nghề nông. ­ Tôi hỏi trẻ  “ Cà phê bao nhiêu tiền 1kg” “Chị   ơi bán cho tôi 1kg đậu  xanh”… và tất nhiên trẻ thấy cô giáo cùng chơi với mình nên trẻ rất vui và đã   bắt chước làm giống cô. Đến góc nghệ  thuật, tôi đã gợi ý cho cháu chơi trò   chơi “Đồ  Rê Mí” và khuyến khích các cháu tự  giới thiệu tên của mình, bao  nhiêu tuổi và sở  thích … Điều đó đã làm cho các cháu thực sự  rất thích thú.  Tôi nhận thấy qua giờ hoạt động góc trẻ rất hiếu động, mạnh dạn, tự  tin và   đăc biệt các cháu rất thích được trò chuyện với cô. Từ  đó tôi luôn khuyến  khích cũng như  tạo cho trẻ những cuộc trò chuyện, đối thọai với nhau bằng   tiếng Việt giữa cô với trẻ và giữa trẻ với trẻ để giúp các cháu phát triển ngôn  ngữ đồng thời có thêm nhiều vốn từ tiếng Việt hơn nữa. và để hoạt động góc  luôn hấp dẫn trẻ tôi đã sưu tầm và chuẩn bị  nhiều đồ  chơi, nguyên vật liệu  mới lạ …để lôi cuốn trẻ vào hoạt động, và trẻ hứng thú hơn khi chơi, cô bao  quát trẻ  trong lúc trẻ  chơi, để  ý và động viên hướng dẫn kịp thời những trẻ  nhút nhát, chưa tự  tin trong hoạt động, hoặc chưa thành thạo trong giao tiếp  bằng tiếng Việt từ đó giúp trẻ tăng vốn từ tiếng Việt hơn. Biên pháp 3. Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi Để làm tăng hiệu quả trong việc cung cấp vốn từ tiếng Việt cho tr ẻ tôi   nghĩ việc cung cấp vốn từ cho trẻ mọi lúc, mọi nơi là điều hết sức cần thiết. Như  chúng ta đã biết trẻ  dân tộc thiểu số  vốn từ  tiếng Việt rất hạn   chế. Khả năng nhận thức và tiếp thu chậm, vì vậy trong quá trình cho trẻ làm  quen với tiếng Việt ta cần phải có sự kiên nhẫn, nhẹ  nhàng, tạo cho trẻ  tâm   thế thoải mái trong mọi hoạt động. ­ Giờ đón trẻ cô luôn vui vẻ, tạo sự gần gũi, yêu thương trẻ, nhắc nhở  trẻ cất đồ dùng đúng nơi qui định, chải tóc, lau mặt, sửa sang quần áo cho trẻ,   trò chuyện thân mật, tạo sự gần gũi giữa cô và trẻ bằng một số câu hỏi như:   “Hôm nay ai đưa con đi học ?” “Sáng nay mẹ  cho con ăn gì?” “Nhà con có  mấy anh em ?” “Ai mua áo cho con mà đẹp vậy ?” ­ Qua trò chuyện với trẻ tôi nắm được khả năng nhận thức và phát âm   của mỗi trẻ, trẻ nào còn sử dụng câu cụt, trẻ nào còn nhút nhát để từ đó tôi có  những biện pháp phù hợp cũng như  dành nhiều thời gian cho những trẻ  đó  hơn. ­ Giờ  trả  trẻ  cũng như  giờ  chơi tự  do tôi tạo mọi tình huống cho trẻ  tiếp xúc với tiếng Việt, như tổ chức một số trò chơi và cô cùng tham gia với       Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang   13
  14. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trẻ. Cho trẻ  hát hoặc đọc các bài thơ  có trong chương trình…không những  vậy tôi luôn tìm mọi cách để  thay đổi hình thức giúp trẻ  không thấy nhàm  chán khi tham gia các hoạt động. Cứ  như  vậy trẻ   ở  lớp tôi đã có sự  chuyển   biến tốt, trẻ  đã mạnh dạn hơn trong giao tiếp, không rụt rè mỗi khi cô gọi,  không nhút nhát khi chơi với bạn… Biện pháp 4. Kết hợp với phụ huynh giúp làm tăng vốn tiếng Việt   cho trẻ ­ Có thể nói thời gian của trẻ ở trường với cô giáo không nhiều, nhưng   nếu chúng ta biết phối hợp với gia đình của các cháu trong việc cung cấp vốn   tiếng việt cho trẻ thì tôi nghĩ chắc chắn sẽ đạt kết quả tốt hơn. Chúng ta có  thể  gặp phụ  huynh, trao đổi và phân tích cho phụ  huynh của các cháu hiểu  được những thuận lợi khi con của họ học nói, nghe và hiểu được tiếng Việt Ví dụ: Cháu nghe và hiểu được tiếng Việt thì khi vào lớp một cháu sẽ  tiếp thu bài một cách tốt hơn mà tiếp thu bài tốt thì cháu sẽ học giỏi hơn… ­  Tôi   thiết  nghĩ   là cha  mẹ   ai cũng  momg muốn con  cháu  của mình  ngoan, học giỏi vì vậy chúng ta có thể phối hợp với phụ huynh nhờ họ khi trẻ  về nhà phụ huynh có thể trò chuyện, trao đổi với các cháu bằng tiếng việt và   mong phụ  huynh của các cháu tạo điều kiện cho các cháu được xem những  chương trình dành cho thiếu nhi trên tivi cũng như để ý quan tâm đến các cháu  nhiều hơn và tập cho các cháu có những thói quen tốt trong học tập. 3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp Cung cấp vốn tiếng Việt tốt nhất khi và chỉ  khi trẻ  được nói bằng   tiếng Việt nhiều nhất. Do đó trong các hoạt động giáo dục, giáo viên tăng  cường hỏi trẻ, khuyến khích trẻ nói càng nhiều càng tốt. ­ Đồ  dùng học tập tốt nhất là: bộ  phận cơ  thể, đồ  vật, vật thật, động  tác, tranh  ảnh. Hạn chế  sử  dụng máy tính, bởi công nghệ  thông tin chỉ  giúp  trẻ  nhìn, khó có thể  cảm nhận được chính xác thế  giới xung quanh (nghe,   ngửi, nếm hoặc sờ trực tiếp) cũng như trẻ ít có cơ hội được nói tiếng Việt. ­ Giáo viên phải thật sự  yêu nghề, mến trẻ, luôn gần gũi yêu thương  trẻ, không có sự  phân biệt đối xử  và không ngừng học hỏi để  nâng cao trình   độ chuyên môn 3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp và biện pháp ­ Các giải pháp và biện pháp luôn tương trợ cho nhau, có mối quan hệ  chặt chẽ  với nhau cùng hướng về  một mục đích là gây hứng thú cho trẻ  và  đạt hiệu quả cao như mong muốn. Giúp trẻ phát triển mọi mặt chuẩn bị tâm   thế cho trẻ trước khi vào lớp Một ­ Ở lứa tuổi mẫu giáo trẻ “Học mà chơi, chơi mà học” ghi nhớ của trẻ  không có chủ định chóng quên do đó việc cung cấp tiếng Việt không dừng lại       Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang   14
  15. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số trên tiết học mà phải thường xuyên mọi lúc mọi nơi, mọi hoạt động trong  cuộc sống hằng ngày để củng cố thêm kiến thức kĩ năng đã học 3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu ­ Kết quả khảo nghiệm Qua một vài kinh nghiệm tôi tự  nghiên cứu và áp dụng cho các cháu ở  lớp tôi tuy chỉ trong một thời gian ngắn nhưng tôi thấy có sự chuyển biến một  cách rõ rệt và đạt kết quả như sau : Huy động trẻ Khả năng nghe, hiểu và nói và   duy   trì   sĩ  tiếng Việt của trẻ tại lớp số Tổng   số   trẻ  đi học chuyên  Tốt Khá Trung bình Kém Tcần SHS Tổng  Tỷ Tổng  Tỷ  Tổng Tỷ  Tổng  Tỷ  Tổng Tỷ  số lệ % số lệ % số lệ % số lệ % số lệ % 26 26 100% 13 50% 09 35% 4 15% ­ Giá trị khoa học: Đề tài nhằm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc  thiểu số trong trường mầm non, phù hợp với khả  năng nhận thức của trẻ và  thực tế tại  trường. 4. Kết quả  thu được qua khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn   đề nghiên cứu Việc cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số đã góp phần làm  cho chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ có những chuyển biến tích cực. Trẻ  thích đi học hơn và hứng thú hơn trong các hoạt động ở trường Vốn từ của trẻ ngày càng được mở rộng và phong phú, trẻ đã biết đặt   câu hỏi theo nội dung mà trẻ muốn hỏi bằng tiếng Việt. Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp với cô và các bạn, sử dụng ngôn  ngữ tiếng Việt mạch lạc hơn. Sự giao tiếp của cô và trẻ ngày càng thân thiện   hơn, quá trình truyền thụ  kiến thức của cô đến trẻ  nhẹ  nhàng và hấp dẫn   hơn. Phụ  huynh dần nhận thức được việc giao tiếp bằng tiếng Việt khi  ở  nhà sẽ giúp cho trẻ dễ dàng trong việc tiếp nhận kiến thức của giáo viên. Phụ  huynh thích thú khi thấy con mình giao tiếp với cô, bạn bè và bố  mẹ  bằng   tiếng Việt.     Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang   15
  16. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số Qua một vài kinh nghiệm tôi tự  tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng cho các  cháu ở lớp tôi tuy chỉ  trong một thời gian ngắn nhưng tôi thấy có sự  chuyển   biến một cách rõ rệt, có hiệu quả, và đạt được kết quả cao. III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Quá trình dạy tiếng Việt cho trẻ  em dân tộc thiểu số  phụ  thuộc rất  nhiều vào giáo viên, giáo viên là người quyết định dạy cái gì? Dạy như  thế  nào? Do đó giáo viên phải nắm được trình độ  nhận thức, điều kiện sống và   khả  năng ngôn ngữ  của trẻ  để  điều chỉnh số  lượng từ, các loại từ, câu cho  vừa phải và gần gủi với trẻ, tạo điều kiện để trẻ thực hành nhiều và củng cố  thường xuyên để trẻ có thể hiểu và ghi nhớ, nhằm giúp trẻ  diển đạt rõ ràng,   mạch lạc bằng tiếng Việt trong giao tiếp hàng ngày và chuẩn bị  một số  kỹ  năng, kiến thức cho trẻ vào lớp Một. Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ  dân tộc thiểu số  là một vấn đề  rất  khó đòi hỏi ở cô giáo phải thật sự yêu thương gần gũi trẻ. Bản thân giáo viên  phải là tấm gương về  cách  ứng xử  và tôn trọng tất cả  những quy định. Cô  giáo luôn tạo cho lớp học có không khí vui vẻ thỏa mái bằng cách tạo ra một   không khí đoàn kết, tránh so sánh trẻ  với những trẻ  khác, cư  xử  thật công   bằng và cho trẻ cơ hội sửa sai trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. 2. Kiến nghị Nhằm tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non dân tộc thiểu số ở Buôn  Ea Kruế trong thời gian tới, xin kiến nghị một số vấn đề sau: Tăng cường đầu tư  cơ  sở  vật chất, có chính sách hỗ  trợ  chế  độ  cho  giáo viên và học sinh để  tổ  chức “bán trú”   hoặc “bán trú dân nuôi”   nhằm  tăng thời gian cho trẻ  được học tập, sinh hoạt cả  ngày tại trường, tạo điều  kiện, cơ  hội cho trẻ  được tăng cường tiếng Việt, hình thành nề  nếp, thói  quen tốt trong học tập, sinh hoạt, giao tiếp...; Chuẩn b ị t ốt các điều kiện cần  thiết cho trẻ vào lớp 1 phổ thông. Đồng thời, cung cấp đầy đủ đồ dùng, thiết   bị tối thiểu dùng cho GDMN, đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5 tuổi dân tộc thiểu số.  Đây là một điều kiện rất quan trọng trong việc dạy và học tiếng Việt, đồng  thời là một tiêu chuẩn để công nhận phổ cập GDMN cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi. Tổ  chức bồi dưỡng tiếng dân tộc cho giáo viên dạy trẻ  người dân tộc  thiểu số; Có chính sách cho giáo viên học thêm ngôn ngữ  thứ  2 là tiếng dân  tộc; Tổ chức thi giao tiếp tiếng dân tộc cho giáo viên các huyện vùng cao. Tăng cường tổ chức các lễ hội của bé trong trường mầm non hoặc phối  hợp với các cấp học tổ  chức tại các thôn bản để  tăng cường giao tiếp, phát  triển ngôn ngữ cho trẻ.     Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang   16
  17. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số Tăng cường công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh và các đoàn  thể   ở  địa phương hỗ  trợ  các điều kiện để  tổ  chức tốt các hoạt động tăng   cường tiếng Việt cho trẻ. Trên đây là một vài kinh nghiệm áp dụng trong lớp tôi là dân tộc thiểu   số được thực hiện và đạt hiệu quả cao, những biện pháp trên tuy không có gì   mới lạ  đối với các bạn nhưng đối với trẻ  dân tộc thiểu số  thì vô cùng mới  mẽ  và có tác dụng. Tuy nhiên sẽ  không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất   mong được sự  đóng góp ý kiến của đồng nghiệp, các cấp Lãnh đạo để  tôi   hoàn thành tốt hơn những sáng kiến sau. Tôi xin chân thành cảm ơn! EaBông, ngày 15 tháng 02 năm 2016                            Người viết                        Võ Thị Xuân Nga NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................     Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang   17
  18. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN (Ký tên, đóng dấu) TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu thử nghiệm dạy trẻ làm quen với Tiếng việt 2. Giáo trình phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non 3. Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non trong lớp mẫu giáo 4. Tạp chí giáo dục Mầm non 5. Hướng dẫn chuẩn bị  Tiếng Việt cho trẻ  mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số  trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non 6. Tâm lí học trẻ em lứa tuổi Mầm non     Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang   18
  19. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số MỤC LỤC PHẦN   I   :   MỞ  ĐẦU………………………………………………………..1 1. Lý do chọn đề tài:………………………………………………………..1      Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang   19
  20. Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 2.   Mục   tiêu,   nhiệm   vụ   của   đề   tài   : ………………………………………….1      3.   Đối   tượng   nghiên   cứu: …………………………………………………...2        4.   Giới   hạn   phạm   vi   nghiên   cứu: …………………………………………...2     5. Phương pháp nghiên cứu:……………………………………………….2  PHẦN II: NỘI DUNG…………………………………………………….3 1.   Cơ   sở   lý   luận: …………………………………………………………….3      2. Thực trạng:………………………………………………………………3  2.1 Thuận lợi – Khó khăn……………………………………………….…3 2.2 Thành công – Hạn chế…………………………………………………4 2.3 Mặt mạnh – Mặt yếu…………………………………………………..4 2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động………………………………...5 2.5   Phân   tích,   đánh   giá   các   vấn   đề   về   thực   trạng   mà   đề   tài   đã   đặt   ra……...5 3. Giải pháp, biện pháp:   ………………………………………………….5 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp………………………………….…5 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp………….…5­ 13 3.3   Điều   kiện   thực   hiện   giải   pháp,   biện  pháp…………………………….13 3.4   Mối   quan   hệ   giữa   các   giải   pháp,   biện  pháp…………………………..13 3.5   Kết   quả   khảo   nghiệm,   giá   trị   khoa   học   của   vấn   đề   nghiên  cứu…........14 4. Kết quả  thu  được qua khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn  đề  nghiên   cứu…………………………………………………………………. …………..14 PHẦN IV: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………..….14 1. Kết luận:…………………………………………………………….. ...14 2. Kiến nghị:………………………………………………………….…..15      Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.       Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen               Trang   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2