intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực đọc hiểu các tác phẩm Thơ mới cho học sinh THPT qua hình thức dạy học trực tuyến

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:78

10
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm tìm ra các phương pháp, kĩ thuật ứng dụng vào quá trình dạy học môn Ngữ văn nói chung và Thơ mới nói riêng cho học sinh trung học phổ thông qua hình thức dạy học trực tuyến một cách chủ động hiệu quả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực đọc hiểu các tác phẩm Thơ mới cho học sinh THPT qua hình thức dạy học trực tuyến

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT THANH CHƯƠNG I SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI: Phát triển năng lực đọc hiểu các tác phẩm Thơ mới cho học sinh THPT qua hình thức dạy học trực tuyến Giáo viên: Nguyễn Thị Minh Nguyệt Lĩnh vực: Ngữ văn Tổ chuyên môn: Ngữ văn Số điện thoại: 0988863521 Thanh Chương, năm 2023 0
  2. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TT TỪ/CỤM TỪ VIẾT TẮT 1 Giáo viên GV 2 Học sinh HS 3 Trung học phổ thông THPT 4 Sách giáo khoa SGK 5 Năng lực NL 6 Năng lực đọc hiểu NLĐH 7 Dạy học trực tuyến DHTT 8 Công nghệ thông tin CNTT 9 Phương pháp dạy học PPDH 1
  3. MỤC LỤC TT NỘI DUNG TRANG 1 MỞ ĐẦU 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi địa bàn khảo sát 2 3. Mục đích nghiên cứu 2 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 2 5. Phương pháp nghiên cứu 3 6. Đóng góp của đềp tài 3 2 NỘI DUNG 1. Cơ sở khoa học của đề tài 4 1.1. Cơ sở lí luận 4 1.1.1. Dạy học đọc hiểu văn bản văn học và vấn đề phát 4 triển năng lực đọc hiểu cho học sinh THPT 1.1.2. Đặc điểm Thơ mới 1932 - 1945 7 1.1.3. Vấn đề dạy học trực tuyến 8 1.2. Cơ sở thực tiễn 10 1.2.1. Thực trạng nhận thức về sự cần thiết của dạy học trực tuyến và tấm quan trọng của việc phát triển năng lực 10 đọc hiểu các tác phẩm Thơ mới cho học sinh 1.2.2. Thực trạng hoạt động tổ chức dạy học các tác phẩm 11 Thơ mới qua hình thức trực tuyến 2. Biện pháp tổ chức dạy học các tác phẩm Thơ mới theo định hướng phát triển năng lực đọc hiểu qua hình thức 13 dạy học trực tuyến 2.1. Các định hướng chung 13 2.1.1. Dạy học trực tuyến nhằm phát triển năng lực đọc hiểu các tác phẩm Thơ mới phải tuân thủ quy trình tổ chức 13 dạy học đã quy định 2.1.2. Qua dạy học các tác phẩm Thơ mới phải hướng đến 15
  4. phát triển phẩm chất năng lực chung, năng lực đặc thù của môn Ngữ văn 2.1.3. Sử dụng đa dạng các phương pháp, phương tiện, kỹ 16 thuật dạy học 2.2. Các biện pháp tổ chức dạy học trực tuyến các tác phẩm Thơ mới trong chương trình Ngữ văn THPT 21 theo định hướng phát triển năng lực đọc hiểu 2.2.1. Thiết kế phiếu học tập qua ứng dụng Google form 21 nhằm phát triển năng lực đọc hiểu Thơ mới 2.2.2. Khai thác video ngâm/ hát Thơ mới chuyển thể 32 2.2.3. Khai thác các công cụ tương tác Padlet, Quizizz 36 3. Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề 39 xuất 4. Giáo án thể nghiệm 43 3 KẾT LUẬN 55 1. Quy trình nghiên cứu 55 2. Kết quả nghiên cứu 55 3. Kiến nghị, đề xuất 56 4 TÀI LIỆU THAM KHẢO 5 PHỤ LỤC
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Giáo dục luôn là vấn đề được Nhà nước Việt Nam ta quan tâm hàng đầu. Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đang trở thành một yêu cầu khách quan, cấp bách. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: “Không thể giảng bài theo lối đọc bài có sẵn từ năm ngoái đến năm kia hoặc của nước ngoài để rồi học trò cứ nghe, chữ được, chữ mất và ghi chép như máy. Làm như vậy liệu có ích gì?”. Trong xu hướng đó, nền giáo dục của nước ta đã có những bước đi mạnh mẽ và mang tính đột phá để phù hợp với tình hình chung. Đó cũng là lí do để Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Cụ thể, mục tiêu dạy học môn Ngữ văn đã xác định: “ chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức Ngữ văn sang chú trọng phát triển năng lực toàn diện cho người học, đặc biệt là năng lực đọc, viết, nói và nghe”. Như vậy, phát triển năng lực người học là yêu cầu tất yếu, cấp thiết của thời đại, xu hướng mang tính quốc tế, chiến lược giáo dục quốc gia của Việt Nam 1.2. Phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh là một vấn đề đòi hỏi được tiếp cận từ nhiều phương diện. Vấn đề phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh đã, đang và vẫn là mối quan tâm lớn mang tính thời sự. Tuy vậy, trong phạm vi các tài liệu được tiếp cận có thể nhận thấy nội dung nghiên cứu phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh phần lớn thể hiện ở những luận điểm lí luận định hướng chung cho tất cả mọi đối tượng bạn đọc mà chưa cụ thể. Vì vậy, kết quả dạy học môn Ngữ văn nhằm mục đích phát triển năng lực đọc hiểu chưa cao. 1.3. Dạy học Ngữ văn với mục đích để phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh theo hình thức trực tiếp tại lớp đã có những khó khăn nhất định. Nhưng khi ngành giáo dục chuyển dần hình thức dạy học trực tiếp sang trực tuyến, điều này càng gặp nhiều khó khăn hơn. Trong Hội nghị tổng kết, đánh giá dạy - học trực tuyến, truyền hình với các Sở Giáo dục và Đào tạo cùng các trường Đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì chiều ngày 3/6/2020, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ khẳng định: “Việc triển khai dạy - học trực tuyến trong thời gian giãn cách xã hội vì dịch Covid-19 bước đầu đã đạt được hiệu quả nhất định, vì vậy trong thời gian tới vẫn sẽ tiếp tục triển khai dạy - học trực tuyến và truyền hình như một phương thức cộng hưởng với dạy - học trực tiếp có hiệu quả… Bởi vậy, phương thức dạy - học trực tuyến không phải là giải pháp tạm thời trong mùa dịch mà còn là giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng từ mầm non đến đại học”. Chính vì thế, trong những năm qua việc triển khai dạy học trực tuyến là cần thiết và hình thức dạy học qua mạng đang ngày càng phát triển, phổ biến tại Việt Nam. Trong thời gian gần đây, dịch Covid tiềm ẩn những nguy cơ bùng phát trở lại. Số ca nhiễm Covid ngày càng tăng, một số trường ở Hà Nội đã đề nghị chuyển từ học trực tiếp sang trực tuyến. Đứng trước thách thức đó, giáo viên nói chung, giáo viên dạy Ngữ văn nói riêng phải chuẩn bị tinh thần, biết đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học để biến thách thức thành cơ hội. 1.4. Trong chương trình dạy học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông, các tác phẩm Thơ mới chiếm thời lượng không nhiều nhưng lại có vị trí quan trọng trong tiến 1
  6. trình lịch sử văn học. Đặc biệt để học sinh cảm nhận được giá trị nội dung, nghệ thuật của các tác phẩmThơ mới không phải là điều dễ dàng. Vì thơ ca là một thể loại văn chương đặc biệt, là tiếng nói tâm hồn của nhà thơ được sáng tác bằng một dạng ngôn ngữ “quái đản” cho nên gây khó hiểu và khó cảm nhận ở học sinh. Việc dạy các bài Thơ mới theo hình thức trực tiếp tại lớp đối với học sinh đã rất khó thì khi chuyển sang dạy học trực tuyến khiến cho sự tương tác giữa giáo viên và học sinh gặp không ít khó khăn. Đồng thời khi dạy học trực tuyến, giáo viên khó có thể giám sát quá trình tìm hiểu bài của học sinh và không thể áp dụng các phương pháp, kĩ thuật trong quá trình dạy học giúp phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh. Bản thân tôi đã có nhiều biện pháp, giải pháp nhằm phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh trong quá trình dạy học các tác phẩm Thơ mới bằng hình thức dạy học trực tuyến đem lại hiệu quả tích cực được đồng nghiệp ghi nhận và áp dụng. Từ thực tế đó, tôi quyết định chọn vấn đề: “Phát triển năng lực đọc hiểu các tác phẩm Thơ mới cho học sinh THPT qua hình thức dạy học trực tuyến” để đúc rút sáng kiến kinh nghiệm. 2. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi địa bàn khảo sát Đối tượng: Hình thành năng lực đọc hiểu tác phẩm Thơ mới cho học sinh trung học phổ thông qua hình thức dạy học trực tuyến bằng việc sử dụng phối hợp các PPDH tích cực kết hợp với sử dụng các phương tiện dạy học, đa dạng hóa các hình thức học tập của học sinh… Phạm vi của đề tài là chương trình Ngữ văn lớp 11 - bộ cơ bản (tập 2) được giảng dạy trong nhà trường Trung học phổ thông với địa bàn khảo sát thể nghiệm là Trường THPT Thanh Chương 1, THPT Nguyễn Cảnh Chân 3. Mục đích nghiên cứu Nhằm tìm ra các phương pháp, kĩ thuật ứng dụng vào quá trình dạy học môn Ngữ văn nói chung và Thơ mới nói riêng cho học sinh trung học phổ thông qua hình thức dạy học trực tuyến một cách chủ động hiệu quả. Vận dụng lí thuyết đọc hiểu văn bản vào nghiên cứu vấn đề phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh THPT, người viết đã chỉ ra một số PPDH tích cực cùng với việc sử dụng các phương tiện dạy học trực tuyến cụ thể, phù hợp trong giờ giảng dạy đồng thời đánh giá được thực tiễn phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh THPT qua giờ học tác phẩm Thơ mới. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài bao gồm: giới thuyết khái niệm năng lực, phát triển năng lực đọc hiểu và khảo sát thực tế dạy học Thơ mới qua hình thức trực tuyến tại các trường trên địa bàn huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. 4.2. Đề xuất những nguyên tắc, biện pháp nhằm phát triển năng lực đọc hiểu Thơ mới cho học sinh THPT qua hình thức dạy học trực tuyến 2
  7. 4.3. Tiến hành thực nghiệm sư phạm để xem xét khả năng ứng dụng của đề tài trong việc nâng cao hiệu quả dạy học Thơ mới 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích tổng hợp: Nhằm nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài bao gồm những vấn đề trọng tâm như khái niệm về năng lực, năng lực đọc hiểu,… - Phương pháp điều tra - khảo sát: Nhằm khảo sát, đánh giá về thực trạng dạy học đọc hiểu nói chung và vấn đề hình thành năng lực đọc hiểu cho học sinh qua giờ dạy học tác phẩm Thơ mới. - Phương pháp thống kê, phân loại: Nhằm thống kê lại kết quả khảo sát của quá trình khảo sát để có sự phân loại chính xác nhất trong quá trình đánh giá. - Phương pháp thực nghiệm: Nhằm kiểm chứng tính khả thi của các biện pháp đề xuất và áp dụng vào thực tế dạy học để kiểm chứng tính hiệu quả và tính khả thi của những biện pháp đề xuất. 6. Đóng góp của đề tài Đề tài nghiên cứu, đề xuất những biện pháp có tính cấp thiết, tính khả thi nhằm hình thành và phát triển năng lực đọc hiểu Thơ mới cho học sinh THPT qua hình thức dạy học trực tuyến. 3
  8. NỘI DUNG 1. Cơ sở khoa học của đề tài 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Dạy học đọc hiểu văn bản văn học và vấn đề phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh THPT 1.1.1.1. Đọc hiểu, dạy học đọc hiểu Thuật ngữ “đọc hiểu” xuất hiện ở Việt Nam và được đưa vào nhà trường phổ thông cho đến nay vừa qua hai thập kỉ. Thời gian qua, với sự đóng góp tích cực của nhiều nhà nghiên cứu đã xác định được rõ nét ở các quan niệm và định hướng lí thuyết cơ bản. Tư tưởng dạy văn trong nhà trường thực chất là môn học dạy cho HS đọc văn, đọc hiểu văn bản như thế nào. Trước hết có thể nhắc tới quan điểm của một số nhà giáo dục trực tiếp biên soạn nên SGK như GS. Nguyễn Khắc Phi, PGS. TS. Đỗ Ngọc Thống, GS. Trần Đình Sử. PGS.TS Phạm Thị Thu Hương đã chú ý đến các hoạt động của học sinh trong quá trình đọc hiểu và đưa ra khái niệm: “Đọc hiểu văn bản thực chất lŕ quá trình người đọc kiến tạo nghĩa của văn bản đó thông qua hệ thống các hoạt động, hành động, thao tác”. Trong số các định nghĩa về đọc - hiểu, phải kể tới định nghĩa của PISA. PISA cũng có cách hiểu riêng về vấn đề này: “Đọc hiểu là sự hiểu biết, sử dụng, phản hồi và chiếm lĩnh các văn bản viết nhằm đạt được những mục đích, phát triển tri thức và tiềm năng cũng như tham gia vào đời sống xã hội của mỗi cá nhân”. Khái niệm “đọc hiểu” có nội hàm khoa học phong phú, nhiều cấp độ gắn với lý luận dạy học văn học, lý luận nghệ thuật, tâm lý học tiếp nhận, lý thuyết thi pháp học, thông diễn học văn bản. Vì lý do này, người viết cho rằng “đọc hiểu” là một khái niệm bao gồm “hành động đọc” và “hành động hiểu”. Đây là một khái niệm bao hàm hai yếu tố liên quan là đọc và hiểu. Đọc là khởi nguồn quan trọng để hiểu vấn đề một cách hiệu quả. Đọc hiểu bao gồm quá trình phân tích, tiếp nhận và hiểu ngôn ngữ. Đây là quá trình nhận biết chất liệu lời nói được thể hiện bằng các từ, câu và âm vang cụ thể. Đồng thời, là quá trình hiểu nghĩa của từ và cách thức biểu đạt nghĩa đó. Chính vì vậy, có thể nói, hành động đọc đã chuyển hóa những kiểu ngôn ngữ, tư duy, câu chữ của người viết vào trong tâm trí người đọc. Vấn đề “hiểu” là phát hiện và nắm vững mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng, đối tượng nào đó và ý nghĩa của chúng. Hiểu còn là sự bao quát hết nội dung và có thể vận dụng vào đời sống. Hiểu là phải trả lời được các câu hỏi Cái gì? Như thế nào? Làm thế nào? Tóm lại, đọc hiểu là đọc kết hợp với sự hình thành năng lực giải thích, phân tích, khái quát, biện luận đúng - sai về logic, nghĩa là kết hợp với năng lực, tư duy và biểu đạt. Mục đích trong tác phẩm văn chương, đọc hiểu là phải thấy được: Nội dung của văn bản; mối quan hệ ý nghĩa của văn bản do tác giả tổ chức và xây dựng; ý đồ, mục đích. Như vậy, đọc là tiền đề của hiểu, hiểu là mục đích cuối cùng của đọc. Dựa trên những khái niệm, nhận định về vấn đề “đọc hiểu”, có thể xác định được khái niệm “dạy học đọc hiểu là gì?”. Dạy học đọc hiểu là việc giáo viên hướng dẫn học 4
  9. sinh sử dụng những kỹ năng để đọc hiểu văn bản thông qua các hoạt động, thao tác và theo một quy trình nhất định nào đó. Đọc hiểu văn bản đề cao vai trò của chủ thể tích cực, sáng tạo của học sinh trong hoạt động đọc. Giáo viên chỉ là người hỗ trợ, định hướng phương pháp, kĩ năng tìm hiểu cho học sinh. Trong dạy đọc hiểu văn bản, GV chỉ là người hướng dẫn, dìu dắt, nêu vấn đề để HS trao đổi, thảo luận; là người dạy về phương pháp đọc chứ không phải đọc thay, đọc giùm, biến HS thành thính giả thụ động của mình. Tuy nhiên, dù sử dụng phương pháp và phương tiện nào thì GV cũng cần thiết kế các hoạt động sao cho có thể giúp HS tự đọc văn bản và biết vận dụng các kỹ năng phân tích, suy luận để đưa ra được các dẫn chứng trong văn bản làm cơ sở cho các nhận định, phân tích của mình. Đồng thời có lúc phải để cho mỗi HS có quyền đọc hiểu theo kinh nghiệm cảm xúc của mình. Từ đó hình thành cho các em khả năng phân tích và tổng hợp văn bản. 1.1.1.2. Năng lực, năng lực đọc hiểu Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, khoa học giáo dục, sự cạnh tranh mạnh mẽ quyết liệt của các quốc gia trên tất cả các lĩnh vực đang diễn ra hằng ngày. Đây vừa là thách thức nhưng vừa là cơ hội để phát triển giáo dục nước nhà. Để bắt kịp sự đổi thay mạnh mẽ ấy, nền giáo dục của đất nước chúng ta đã có những bước đi mạnh mẽ và mang tính đột phá để phù hợp với tình hình chung. Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (09/10/2013) đã nhất trí ban hành Nghị quyết số 29 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”. Nội dung quan trọng được chú ý tới đó là: cần phải chuyển đổi căn bản nền giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực người học. Đó cũng là lí do để có sự xuất hiện của Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Cụ thể, môn Ngữ văn trong chương trình 2018, đã xác định: “đang chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức Ngữ văn sang chú trọng phát triển năng lực toàn diện cho người học, đặc biệt là năng lực đọc, viết, nói và nghe”. Về khái niệm năng lực đã xuất hiện từ rất sớm, nhưng chỉ mới được tập trung nghiên cứu từ những năm 70 của thế kỉ XX với nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Theo quan điểm của những nhà Tâm lý học thì: “Năng lực là tổ hợp các đặc điểm, thuộc tính của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Năng lực của con người không hoàn toàn tự nhiên mà có, phần lớn do quá trình học tập, tập luyện mà nên”. Còn trong cuốn Từ điển tiếng Việt do GS. Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: “Năng lực (1) là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó; (2) Là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng” [9]. Định nghĩa về năng lực được nêu trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 như sau: “Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ vào các tố chất và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kinh nghiệm, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,...thực hiện đạt kết quả các hoạt động trong những điều kiện cụ thể” [2]. 5
  10. Trong khi tiếp cận Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 thì chúng ta có thể thấy chương trình thiết kế theo hướng tiếp cận năng lực và năng lực được chia thành 2 loại chính: đó là những năng lực chung và năng lực đặc thù. Bản dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể quốc gia cũng viết “Năng lực chung là năng lực cơ bản, thiết yếu mà bất kỳ một người nào cũng cần có để sống, học tập và làm việc”; “Năng lực đặc thù môn học (của môn học nào) là năng lực mà môn học (đó) có ưu thế hình thành và phát triển (do đặc điểm của môn học đó). Một năng lực có thể là năng lực đặc thù của nhiều môn học khác”. Riêng đối với bộ môn Ngữ văn nhìn từ xu hướng tiếp cận phát triển năng lực trong xây dựng chương trình 2018 thì năng lực quan trọng và đặc thù nhất của bộ môn cần phát triển cho HS THPT chính là năng lực đọc hiểu. Định nghĩa về năng lực đọc hiểu PISA như sau: Năng lực đọc hiểu là hiểu, sử dụng, phản ánh và liên kết vào các văn bản viết, nhằm đạt được các mục tiêu cá nhân, phát triển kiến thức và tiềm năng cá nhân, và tham gia vào xã hội. Thuật ngữ “đọc hiểu” thiên về “khả năng đọc hiểu” bởi vì nó có thể truyền đạt chính xác hơn cho đối tượng người đọc những thông tin trong văn bản. “Đọc hiểu” thường được hiểu đơn giản là giải mã hoặc thậm chí đọc to những vấn đề mà người đọc cần hiểu rộng hơn và sâu hơn. Đọc hiểu bao gồm một loạt các kĩ năng nhận thức, từ giải mã cơ bản đến thành thạo ngữ pháp và các từ vựng, cấu trúc ngôn ngữ và văn bản. Từ những nhận định khác nhau về năng lực đọc hiểu có thể khái quát nên một số biểu hiện của năng lực đọc hiểu văn bản văn học như sau: - Nắm được tri thức lý luận văn học: Bản chất, chức năng, đặc trưng loại hình của văn học; tác phẩm và thể loại; sáng tác và tiếp nhận; nhà văn và phong cách sáng tác, tiến trình văn học…) - Có kiến thức về văn học Việt Nam và văn học nước ngoài. - Biết kết hợp các phương pháp, các biện pháp, các kĩ thuật, chiến thuật đọc hiểu và cách thức vận dụng chúng vào quá trình tiếp nhận văn học của bản thân - Chọn tri thức mang tính ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống qua các hành động, ứng xử, thái độ sống, qua các văn bản nói, viết… Người học cần tư duy trong tiếp nhận văn bản văn học. Để phát triển năng lực đọc - hiểu văn bản văn học, người đọc không chỉ thường xuyên đọc nhiều tác phẩm văn học mà còn phải biết tìm tòi, học hỏi, suy ngẫm và phân tích tạo thành thói quen thưởng thức văn học. Đọc - hiểu là một kỹ năng của mỗi cá nhân, bên cạnh sự tác động của các yếu tố bên ngoài thì cơ sở chính vẫn là sự nỗ lực và ý thức rèn luyện của mỗi cá nhân. Làm chủ văn bản với sự hướng dẫn của GV là một hoạt động quan trọng và cần thiết để học sinh có cơ sở đọc - hiểu những tác phẩm văn học phong phú, vì khi không đọc mà để người khác truyền đạt lại thì sẽ không bao giờ biết cách tự mình khám phá và cảm nhận tác phẩm. 6
  11. 1.1.2. Đặc điểm Thơ mới 1932 - 1945 Vào những năm 30 của thế kỉ XX ở nước ta xuất hiện một khuynh hướng, trường phái thơ ca đi ra ngoài khuôn khổ của văn chương đạo lý, duy lý của nho gia trong nền văn học trung đại. Và ngay khi vừa ra đời, nó đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc - đó chính là sự ra đời của Thơ mới. Thơ mới trước hết là tên gọi của một phong trào thơ Việt Nam hiện đại xuất hiện vào đầu thế kỉ XX. Phong trào Thơ mới là một trong những giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của thơ ca Việt Nam, đánh dấu sự trỗi dậy mạnh mẽ của “cái tôi” cá nhân. Phong trào Thơ mới đã mở ra một thời đại trong thi ca, mở đầu cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ mới là gì? Trước hết đó là tên gọi của một phong trào thơ xuất hiện trong những năm 1932 - 1945. Khi dùng từ “Thơ mới” với nghĩa này, người dùng thường viết hoa chữ “Thơ”. Và trong nhiều hoàn cảnh khác, “thơ mới” cũng được dùng để mệnh danh cho một tác giả, một tập thơ, một bài thơ cụ thể thì lúc này chữ “thơ” không cần thiết phải viết hoa. Phan Khôi, người đề xướng ra nó, cũng chưa biết gọi tên là gì, chỉ giới thiệu sơ lược trên Phụ nữ Tân văn số 122 (1932) như sau: “... Tôi sắp toan bày ra một lối Thơ mới. Vì nó chưa thành thục nên chưa có thể đặt tên là lối gì được, song có thể cứ cái đại ý của lối Thơ mới này ra, là: đem ý có thật trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu, có vận mà không phải bó buộc bởi niêm luật gì hết”. Khái niệm về Thơ mới đã được nhiều nhà nghiên cứu đặt đối sách với thơ hiện đại như nhà thơ Huy Cận cho rằng: “Thơ mới đã tạo ra cảm xúc thi ca chung cho cả thời đại và những bài thơ ca đương thời có giá trị đều sáng tác với luồng cảm xúc mới ấy cho dù các đề tài mà tác giả lựa chọn có thể khác nhau…Thơ mới đã tiếp tục sống, tiếp tục phát triển, nở nhiều hoa, kết nhiều trái qua các giai đoạn phát triển của thơ ca dân tộc”. Nhìn chung về khái niệm Thơ mới có rất nhiều ý kiến, quan niệm được nhiều nhà nghiên cứu đưa ra. Tuy nhiên mỗi quan điểm, suy nghĩ của các nhà nghiên cứu về khái niệm Thơ mới đều có chung những đặc trưng sau: “Thơ mới là cách gọi trào lưu sáng tác thơ phi cổ điển, chịu ảnh hưởng các phép tắc tu từ, thanh vận của thơ hiện đại phương Tây. Trở thành một hiện tượng trong khu vực các nước đồng văn châu Á, thơ mới ra đời, phát triển dựa trên yêu cầu cấp thiết hiện đại hóa thi ca truyền thống.” Đặc điểm nổi bật nhất của Thơ mới là những vần thơ thuộc phong trào này đã giúp cho thi nhân bộc lộ, thể hiện được ý thức cá nhân, cái “Tôi” cá nhân của mình. Nếu như trong nền văn học trung đại, các nhà thơ bị gò ép trong khuôn khổ của lễ giáo phong kiến, họ không thể bộc lộ cái Tôi của bản thân. Thì đến với giai đoạn phát triển của phong trào Thơ mới, cái Tôi cá nhân đã được giải phóng, những ý thức hệ đã thoát khỏi khuôn khổ đạo lý phong kiến, các nhà thơ mới khao khát được bộc lộ cảm xúc của mình một cách trọn vẹn. Đặc điểm tiếp theo của Thơ mới là thể hiện nỗi buồn cô đơn trước thời đại. Thơ mới cũng mang trong mình âm vang của thời đại, nỗi niềm của một thế hệ yêu nước nhưng bất lực trước thực tại. Cái tôi trong Thơ mới ẩn chứa nhiều cung bậc khác nhau, đâu đâu cũng thấy buồn, cô đơn. Các nhà Thơ mới không chấp nhận được cuộc sống tầm 7
  12. thường, tẻ nhạt như mọi người xung quanh. Do đó, họ cảm thấy lạc lõng, bơ vơ giữa xã hội. Đặc điểm Thơ mới được viết theo khuynh hướng lãng mạn, với cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu đã tạo nên bộ mặt riêng cho Thơ mới. Đó là vẻ đẹp tươi mới, đầy hương sắc, âm thanh, tràn trề sự sống. Bên cạnh nét nổi bật về nội dung của dòng Thơ mới, nghệ thuật của trào lưu này cũng có nhiều sự thay đổi. Đầu tiên phải nói tới sự thoát ra khỏi khuôn khổ thi pháp trung đại: niêm - luật - vần - đối. Thơ mới hầu hết đều được viết khá tự do. Tự do hiểu theo nghĩa là không bị ràng buộc khắt khe về niêm, luật như thơ cũ, nhà thơ mới có thể linh hoạt hơn trong cách gieo vần, hiệp vần, sử dụng thanh điệu, thay đổi nhịp. Điều này khiến cho Thơ mới uyển chuyển, linh hoạt, mềm mại, dễ tiếp nhận hơn thơ cũ. Phong trào Thơ mới đã phát triển một cách rực rỡ và tính đến thời điểm hiện tại chưa có một trào lưu thơ nào có thể vượt qua đỉnh cao của Thơ mới. Vì vậy Thơ mới đã chiếm một vị thế vô cùng quan trọng và đã được đưa vào trong chương trình SGK Ngữ văn lớp 11 để nhằm đánh giá năng lực văn học của HS trong nhà trường phổ thông. Do vậy, việc dạy đọc - hiểu loại văn bản này rất xứng đáng có được một sự đầu tư, tìm hiểu kĩ lưỡng hơn. Những tìm tòi, nghiên cứu về phương pháp dạy đọc - hiểu các tác phẩm Thơ mới sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học văn trong nhà trường phổ thông hiện nay. 1.1.3. Vấn đề dạy học trực tuyến (Online) 1.1.3.1. Khái niệm dạy học trực tuyến Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển, DHTT không còn xa lạ với ngành giáo dục và việc DHTT càng trở nên phát triển trong bối cảnh thế giới đang chống chọi với dịch bệnh Covid - 19. Ở Việt Nam, DHTT được biết đến như một phương pháp giáo dục mới, chỉ thật sự bắt đầu phát triển trong vài năm gần đây nhằm duy trì ổn định tình hình học tập của HS trước dịch bệnh. Hình thức dạy học này cho thấy nhiều lợi ích và được nhiều người lựa chọn. Dạy học trực tuyến về bản chất cũng giống với dạy học trực tiếp, đều cung cấp kiến thức cho HS dưới sự truyền thụ không giáp mặt của GV. Dạy học trực tuyến (hay còn gọi là e-learning) là phương thức học ảo thông qua một thiết bị nối mạng đối với một máy chủ ở nơi khác có lưu giữ sẵn bài giảng điện tử và phần mềm cần thiết để có thể hỏi/yêu cầu/ra đề cho học sinh học trực tuyến từ xa. Giáo viên có thể truyền tải hình ảnh và âm thanh qua đường truyền băng thông rộng hoặc kết nối không dây (WiFi, WiMAX), mạng nội bộ (LAN). Mở rộng ra, các cá nhân hay các tổ chức đều có thể tự lập ra một trường học trực tuyến (e-school) mà nơi đó vẫn nhận đào tạo học viên, đóng học phí và có các bài kiểm tra như các trường học khác. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), dạy học trực tuyến là hoạt động nhằm hỗ trợ hoặc thay thế dạy học trực tiếp tại cơ sở giáo dục phổ thông thực hiện một phần hoặc toàn bộ nội dung bài học hoặc chủ đề trong chương trình giáo dục phổ thông để hỗ trợ hoặc thay thế dạy học trực tiếp bài học hoặc chủ đề đó tại cơ sở giáo dục phổ thông [3]. 8
  13. Nói một cách dễ hiểu là DHTT là một hình thức giảng dạy không giáp mặt. Thay vì dạy học tại lớp như truyền thống thì GV vẫn truyền thụ kiến thức như bình thường và HS vẫn có thể đặt câu hỏi và được giải đáp như bình thường qua các ứng dụng được sử dụng trên máy tính hoặc điện thoại có kết nối internet. Trong quá trình DHTT, người dạy cung cấp nội dung khóa học nhờ những công cụ tạo bài giảng chuyên biệt và thông qua những phần mềm quản lí học tập, các nguồn tài nguyên Multimedia, mạng Internet, hội thảo trực tuyến…Người học nhận nội dung khóa học và tương tác với người dạy qua các phương tiện kể trên. Như vậy, có thể thấy dạy học trực tuyến (E- learning) là một hình thức học tập không diễn ra tại các lớp học truyền thống, mà học tập được tiến hành thông qua các thiết bị, phương tiện, thông tin truyền thông. 1.1.3.2. Đặc điểm dạy học trực tuyến Dạy học trực tuyến được xem là hình thức đào tạo qua mạng đang dần chiếm ưu thế và có nhiều bước đổi mới hơn so với dạy học truyền thống. Dạy học trực tuyến đòi hỏi đầu tiên là phải dựa vào CNTT và truyền thông. Vấn đề dạy học này đòi hỏi cả GV và HS phải có trang thiết bị kết nối internet để hỗ trợ quá trình dạy - học. Người dạy có thể tiến hành lên lớp theo đúng lịch giảng dạy và người học cũng có thể tiến hành quá trình học tập như bình thường ngày tại nhà mà không cần tới cơ sở giáo dục. Điều này đã giúp duy trì nề nếp học tập, ôn tập, củng cố kiến thức cũ và tiếp thu kiến thức mới của HS đảm bảo nội dung chương trình giáo dục của năm học trước nhiều tình hình khó khăn của xã hội. Khi tiến hành dạy học bằng hình thức DHTT, người dạy cần biết vận dụng các ứng dụng, công cụ hiện đại để tiến hành quá trình dạy của mình. Điều này cũng trở nên khó khăn đối với một số GV lớn tuổi khi họ không bắt kịp tiến độ của CNTT. Trong một số trường hợp mạng internet không ổn định, việc truyền tải sẽ bị gián đoạn và bị ngắt quãng. Khi DHTT như vậy người học có thể tiến hành học mọi lúc, mọi nơi bất kỳ ở đâu chỉ cần có một chiếc máy tính hoặc điện thoại có kết nối internet. Việc DHTT cũng rất phù hợp với hoàn cảnh dịch Covid 19 đang diễn biến phức tạp trên toàn thế giới và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Do đó, từ cấp tiểu học đến đại học, thì dạy học trực tuyến trong giai đoạn này là phương pháp duy nhất để có thể đảm bảo được kế hoạch học tập mà vẫn giữ mức độ an toàn về sức khỏe. Hình thức DHTT cũng góp một phần hiệu quả trong quá trình học tập tại nhà của HS. DHTT cung cấp cho người học khả năng tự kết hợp giữa nhìn, nghe và sự chủ động tích cực trong quá trình học tập. Quá trình học tập trực tuyến đã giúp HS tăng tính tương tác cao hơn, tạo điều kiện cho người học trao đổi thông tin dễ dàng hơn, cũng như đưa ra nội dung học tập phù hợp với khả năng và sở thích của từng người. Giáo viên cũng có thể thuận lợi giao cho học sinh một số nội dung tự học ở nhà để tăng thời gian luyện tập, thực hành, trải nghiệm làm việc nhóm, thảo luận như khi học sinh ở trường. Do giới hạn về không gian học tập, nên việc học trực tuyến cần có sự hỗ trợ tối đa của các ứng dụng CNTT giúp tăng tương tác giữa GV và HS. 9
  14. Mô hình lớp học trong dạy học trực tuyến cũng đem lại cho GV và HS những thuận lợi nhưng cũng gặp khó khăn: Lợi ích Bất cập  Không khoảng cách, không giới hạn  Dễ mất tập trung trong lúc học thời gian  Phải phụ thuộc vào công nghệ (đường  Tăng tính độc lập trong việc dạy và học truyền internet, thiết bị học)  Tăng khả năng đọc và phân tích, tổng  Khả năng tương tác ít nhiều bị hạn chế hợp của HS  Nhận được sự hỗ trợ từ GV ít hơn  Tăng khả năng tương tác nhóm  Thời gian học có thể bị dàn trải Trước tình hình thế giới đang gặp nhiều vấn đề khó khăn do dịch bệnh hay thiên tai thì việc DHTT đang dần trở thành xu thế tất yếu. Học tập trực tuyến tại nhà sẽ hỗ trợ việc tiếp thu kiến thức mới cho HS hạn chế việc chậm chương trình giáo dục của năm học. Bộ trưởng bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn đã trả lời chất vấn tại phiên họp thứ 2 Quốc hội khóa XV ngày 11/11 đã phát biểu “việc dạy học trực tuyến tại nhà thực chất để duy trì cảm giác còn đang đi học của học sinh”. Chính vì thế mà việc DHTT đang dần trở thành một đề tài nóng bỏng được nhiều người trong và cả ngoài ngành giáo dục quan tâm tới. 1.2. Cơ sở thực tiễn Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng nhận thức và hoạt động tổ chức dạy học các tác phẩm Thơ mới bằng hình thức trực tuyến. Đối tượng khảo sát là 30 giáo viên bộ môn Ngữ văn và 150 học sinh THPT trên địa bàn huyện Thanh Chương. Qua việc lấy thông tin thực tế bằng phương pháp khảo sát ở các trường, tôi đã có một cái nhìn bao quát về thực trạng phát triển năng lực đọc hiểu các các phẩm Thơ mới cho học sinh qua hình thức dạy học trực tuyến 1.2.1. Thực trạng nhận thức về sự cần thiết dạy học trực tuyến và tầm quan trọng của việc phát triển năng lực đọc hiểu các tác phẩm Thơ mới cho học sinh. * Về phía giáo viên Trước yêu cầu của bối cảnh xã hội, xu thế của thời đại, đặc biệt trước diễn biến phức tạp của đại dịch covid, hoạt động dạy học phải chuyển từ trực tiếp sang trực tuyến. Khi chúng tôi đặt câu hỏi cho các giáo viên: Trong tình hình dịch bệnh, thầy (cô) cho rằng chuyển từ day học trực tiếp sang trực tuyến có cần thiết không? Trong 30 GV được hỏi thì có 18 người chọn phương án “rất cần thiết” chiếm tỷ lệ 60%, có 8 người chọn phương án “cần thiết” chiếm tỷ lệ 26.3%, chỉ có 4 GV cho rằng “ít cần thiết” và “không cần thiết”. Qua số liệu thống kê cho thấy, phần lớn các GV đã hiểu được việc cần làm để phòng chống dịch bệnh là ngừng đến trường và áp dụng hình thức dạy học trực tuyến. Đồng thời, GV cũng đã nhận thức được vấn đề đổi mới trong giáo dục là chuyển từ dạy học cung cấp tri thức sang dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho HS. Mục 10
  15. đích của đổi mới là nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Có 22/30 (tỷ lệ 73.3%) GV khi được khảo sát cho rằng trong dạy học các tác phẩm Thơ mới hình thành năng lực đọc hiểu là “rất quan trọng” và “quan trọng”. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận 8/30 (tỷ lệ 26.7 %) GV nhận thức mơ hồ và quan tâm chưa đúng mức đến phát triển và rèn luyện năng lực đọc hiểu nên cho rằng “bình thường” hay “không quan trọng”. Họ thỉnh thoảng mới để ý đến biện pháp hình thành và phát triển năng lực đọc hiểu cho HS trong dạy học Ngữ văn nói chung, các tác phẩm Thơ mới nói riêng. * Về phía học sinh: Chúng tôi đã tiến hành khảo sát về nhận thức học tập trực tuyến trong giai đoạn dịch bệnh. Khi được hỏi: Theo em, trong tình hình dịch bệnh có cần thiết chuyển từ dạy học trực tiếp sang trực tuyến không?. Kết quả thu được như sau: có 105 em chọn phương án “rất cần thiết” chiếm tỷ lệ 70%, có 22 em chọn phương án “cần thiết” chiếm tỷ ê 14.6%. Số còn lại 23 em lựa chọn phương án “ít cần thiết” và “không cần thiết” chiếm tỷ lệ 15.4%. Qua số liệu thống kê, chúng tôi nhận thấy dù chịu ảnh hưởng của dịch bệnh nhưng phần lớn các em HS đều mong muốn được học tập theo đúng tiến độ của năm học. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng muốn biết được nhận thức của HS trong việc phát triển năng lực đọc hiểu nên đã đặt ra câu hỏi: Theo em, việc hình thành và phát triển năng lực đọc hiểu cho HS THPT qua dạy học các tác phẩm Thơ mới có tầm quan trọng như thế nào?. Kết quả cho thấy có 115/150 (tỷ lệ 76.7%) HS nhận thức mức độ “rất quan trọng” và “quan trọng” của việc hình thành và phát triển năng lực đọc hiểu qua dạy học các tác phẩm Thơ mới. Trong 150 HS tham gia khảo sát chỉ có 35 em (tỷ lệ 23.3%) cho rằng việc h́ nh thành năng lực đọc hiểu là “bình thường” và “không quan trọng”. Như vậy, phần lớn các em đều thống nhất rằng năng lực đọc hiểu là năng lực đặc thù của môn Ngữ văn. Khi người học phát triển được năng lực đọc hiểu thì sẽ biết cách tìm tòi, học hỏi, suy ngẫm và thưởng thức văn học. 1.2.2. Thực trạng hoạt động tổ chức dạy học các tác phẩm Thơ mới qua hình thức trực tuyến Thơ mới Việt Nam được đưa vào giảng dạy trong trình Ngữ văn lớp 11 có vai trò quan trọng để đánh giá năng lực đọc hiểu của HS trong nhà trường phổ thông. Để có thể hiểu một cách chính xác nhất về thực trạng việc dạy học các tác phẩm Thơ mới theo định hướng phát triển năng lực đọc hiểu cho HS, chúng tôi đã tiến hành khảo sát ở học sinh khối 11. Phiếu khảo sát chính là công cụ đắc lực để thu thập thông tin và ý kiến phản hồi về vấn đề mà chúng tôi đang nghiên cứu. Trong phiếu khảo sát này, sẽ giúp chúng tôi biết được tâm lý, hứng thú của học sinh đối với giờ học đọc hiểu tác phẩm Thơ mới. Trước hết, chúng tôi đã tiến hành khảo sát phương pháp dạy học mà GV sử dụng trong quá trình dạy học các tác phẩm Thơ mới bằng hình thức trực tuyến. Chúng tôi đã đặt câu hỏi cho GV: Trong quá trình dạy học tác phẩm Thơ mới bằng hình thức trực tuyến thầy (cô) chủ yếu sử dụng phương pháp dạy học nào sau đây?. Kết quả cho thấy, trong quá trình giảng dạy có 14 GV (chiếm tỷ lệ 46.7%) chủ yếu sử dụng phương pháp thuyết trình – một phương pháp dạy học truyền thống. Số GV khai thác các ứng dụng, 11
  16. phầm mềm của công nghệ thông tin rất ít. Việc sử dụng phương pháp dạy học thuyết trình trong quá trình dạy học trực tuyến đã làm cho cả GV lẫn HS mất hứng thú trong các giờ lên lớp. Như vậy, nếu như phần lớn GV đều nhận thức được tầm quan trọng của việc hình thành năng lực đọc hiểu nhưng thực tế giảng dạy họ không chịu đầu tư, thay đổi về phương pháp dạy học. Chúng tôi đã có câu hỏi cho các em học sinh như sau: Theo em, điều gì ảnh hưởng nhất đến quá trình tiếp thu tri thức của bản thân khi học Thơ mới bằng hình thức trực tuyến?. Có 33 em (tỷ lệ 22%) trả lời là do “chất lượng đường truyền mạng kém” nhưng lại có đến 75 em (tỷ lệ 50%) các em chọn phương án do “Phương pháp giảng dạy của thầy cô không phù hợp”. Như vậy, việc lựa chọn phương pháp dạy học của thầy cô đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của các em. Chúng tôi đặt câu hỏi cho HS về sự hứng thú khi tham gia học các tác phẩm Thơ mới bằng hình thức trực tuyến. Kết quả như sau: Có 32 em (tỷ lệ 21.3%) trả lời “rất hứng thú”, 35 em (tỷ lệ 23.3) trả lời “hứng thú” nhưng thật bất ngờ khi có 68 em (tỷ lệ 45.4%) lại cho rằng “không hứng thú”. Qua kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ HS gặp khó khăn trong quá trình dạy học trực tuyến còn cao, việc học từ trực tiếp sang trực tuyến đã tạo ra những áp lực không nhỏ. Các em phải ngồi hằng giờ trước điện thoại, máy tính để học tập thật là căng thẳng. Yếu tố đường truyền không ổn định, phương pháp giảng dạy của GV nhàm chán không phát huy được tính tích cực, chủ động của người học, kiểm tra đánh giá chưa đúng năng lực…Tất cả đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả giờ dạy, đặc biệt tạo tâm lý không hứng thú đối với người học sẽ làm cho kết quả giờ học không cao. Tóm lại, qua hình thức khảo sát 30 GV và 150 HS của các trường THPT trên địa bàn huyện Thanh Chương tôi đã nắm được nhận thức, thực trạng của việc hình thành và phát triển năng lực đọc hiểu các tác phẩm Thơ mới bằng hình thức dạy học trực tuyến. Tôi đã tiến hành tìm hiểu nguyên nhân cho thực trạng trên: - Kết nối mạng Iternet không ổn định, việc truyền tải sẽ bị gián đoạn và bị ngắt quãng làm cho HS mất cảm hứng, thậm chán nản rồi từ bỏ - Về đội ngũ GV, phần lớn chưa có kinh nghiệm dạy học trực tuyến, những GV lớn tuổi không bắt kịp tiến độ của CNTT, không bắt nhịp được với phương pháp dạy học mới, ứng dụng các phần mềm hiện đại - Giáo viên chưa chịu khó tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học. GV bê nguyên phương pháp truyền thống vào dạy online với những bài giảng dài lê thê khiến HS nhàm chán, mất hứng thú, thiếu động lực học tập. - Về phía HS, phần lớn chưa quen với cách dạy học trực tuyến. Đặc biệt ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa việc HS tiếp cận và sử dụng các thiết bị điện tử thông minh cồn ít. Nhiều gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn chưa có máy tính, smarphon, chưa kết nối mạng internet - Học sinh thiếu ý thức trong học tập, các em cho rằng việc học trực tuyến GV không kiểm soát được vì vậy học không tập trung, thiếu sự tích cực, chủ động, xem việc học chỉ là hình thức đối phó 12
  17. Từ thực tế đó, tôi đưa ra một số biện pháp tổ chức dạy học các tác phẩm Thơ mới theo định hướng phát triển năng lực đọc hiểu qua hình thức dạy học trực tuyến. 2. Biện pháp tổ chức dạy học các tác phẩm Thơ mới theo định hướng phát triển năng lực đọc hiểu qua hình thức dạy học trực tuyến (online) 2.1. Các định hướng chung 2.1.1. Dạy học trực tuyến phát triển năng lực đọc hiểu các tác phẩm Thơ mới phải tuân thủ quy trình tổ chức dạy học đã quy định Dạy học đọc hiểu văn bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành tri thức cho học sinh, nó còn giúp giáo viên chủ động hơn trong các hoạt động dạy học. Dù hình thức tổ chức dạy học bằng những phương pháp nào thì việc đầu tiên cần phải tuân thủ theo quy trình tổ chức dạy học đã được quy định. Quy trình này đảm bảo việc hình thành và chiếm lĩnh tri thức của thầy và trò trọn vẹn hơn, khoa học hơn. Một quy trình dạy học phù hợp với mục tiêu, nội dung không chỉ đạt hiệu quả về tri thức mà còn phát huy tốt vai trò chủ thể của người học. Cụ thể thông qua 5 hoạt động như sau: Hoạt động 1: Khởi động. Hoạt động 2: Hình thành kiến thức. Hoạt động 3: Luyện tập, thực hành. Hoạt động 4: Vận dụng. Hoạt động 5: Tìm tòi, mở rộng. Do đặc thù môn học vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật nên bộ môn Ngữ văn còn gặp những khó riêng như: khó truyền cảm hứng cho học sinh qua ánh mắt, nụ cười, ngữ điệu lời giảng; bài giảng có thể bị ngắt quãng do học sinh (đôi khi là cả giáo viên) bị mất kết nối khiến thầy và trò giảm hứng thú đối với bài học. Đặc biệt, do đặc thù là môn tự luận, giáo viên không thể sử dụng các công cụ kiểm tra đánh giá trực tuyến như các môn thi trắc nghiệm, khó giao bài, chấm bài kiểm tra trên các trang trực tuyến... Để một giờ học trực tuyến thành công thì giáo viên cần vận dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học và giao bài cho học sinh cả trước, trong và sau giờ học và điểm đặc biệt khi tổ chức dạy học trực tuyến có thể khái quát trong ba bước: Bước 1: Chuẩn bị dạy học trực tuyến. * Soạn kế hoạch bài dạy và xây dựng tư liệu dạy học. So với việc dạy học trên lớp, việc biên soạn kế hoạch bài dạy khi thực hiện dạy học trực tuyến đòi hỏi một cách tiếp cận mới. Để đạt hiệu quả, GV cần lưu ý một số hoạt động sau: . Tăng cường đổi mới về phương pháp dạy học, biên soạn tiến trình dạy học phù hợp. 13
  18. • Tăng cường chỉ dẫn để học sinh sử dụng có hiệu quả SGK và môi trường xung quanh HS tại gia đình. • Chuyển thể các kiến thức cốt lõi lên màn hình chiếu PowerPoint; có thể quay màn hình máy tính để ghi hình trước một số nội dung cần giảng; ghi chú lại những chỉ dẫn cần thiết cho HS. * Lựa chọn nền tảng để tổ chức dạy học • GV có thể sử dụng các nền tảng dạy học trực tuyến khác nhau dựa theo điều kiện và ý đồ dạy học của mình (Video: Youtube, Google Drive, Google Forms, Kahoot,...). • Công cụ phải đơn giản đối với HS, nhưng vẫn hỗ trợ GV kiểm soát được quá trình học tập. • Hạn chế việc đặt các tư liệu dạy học một cách rời rạc, dẫn đến khó tổ chức dạy học hoặc tổ chức không hiệu quả. • Lựa chọn công cụ mạng xã hội để tổ chức nhóm thảo luận và giao tiếp với phụ huynh, với HS. Đảm bảo cho việc liên lạc thông suốt, chuẩn bị cho việc tổ chức tiến trình dạy học qua mạng. Ví dụ: lập nhóm Zalo cho từng lớp; thống nhất với phụ huynh về khung giờ nhất định để học sinh được sử dụng thiết bị và phối hợp giám sát HS. Bước 2: Tổ chức tiến trình dạy học trực tuyến. * Trước khi kết nối trực tiếp. GV giao nhiệm vụ cho HS trên LMS hoặc gửi đường link buổi học cho HS thông qua công cụ mạng xã hội (Zalo, Facebook, ...) để HS có thể thực hiện trước. * Kết nối trực tiếp. GV và HS kết nối qua nền tảng truyền tải hình ảnh thời gian thực (Microsoft Teams, Zoom, Google Meet, ...) ðể bắt ðầu thực hiện tiến trình dạy học. Trong quá trình dạy học, tuỳ vào nội dung bài học và thời lượng, GV có thể linh hoạt hướng dẫn nội dung và cách khai thác tài liệu SGK ở đầu tiết học và giành thời gian cho các bài tập vận dụng thực hành ở cuối tiết dạy bằng nhiều hình thức. Sau khi được hướng dẫn và nhận nhiệm vụ, HS tự chủ thực hiện với tư liệu đã được cung cấp. Thực hiện tiến trình dạy học qua mạng đòi hỏi GV cần có sự trau dồi về kĩ năng CNTT, nhất là ở giai đoạn đầu áp dụng. Kết quả học tập của HS phụ thuộc rất nhiều vào cách thức tổ chức tiến trình dạy học. Mà tiến trình đó có mối quan hệ với kĩ năng sử dụng CNTT của từng GV. Bước 3: Kiểm tra, đánh giá, ôn tập trực tuyến. *. Lựa chọn công cụ. Sau mỗi bài học hoặc một nhóm bài học, GV có thể tổ chức kiểm tra, ôn luyện qua mạng thông qua các phần mềm hoặc công cụ trực tuyến như Google Form, Kahoot, 14
  19. Microsoft Forms,… Trong đó có những công cụ thích hợp để tổ chức kiểm tra, đánh giá; có công cụ lại thích hợp để tổ chức cho HS làm trắc nghiệm trên nền tảng trò chơi. Như vậy, việc lựa chọn công cụ nào tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng của GV cũng như điều kiện thực tế của HS. * Tổ chức kiểm tra, ôn luyện qua mạng. • Soạn sẵn một số câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra kiến thức liên quan; sử dụng các phần mềm online để soạn nội dung kiểm tra, đánh giá và gửi yêu cầu cho HS. Giao cho HS một số bài tập tự luận để luyện tập, vận dụng và củng cố kiến thức sau mỗi bài học. • Hướng dẫn học sinh làm bài vào vở, chụp kết quả bài làm và nộp bài (qua LMS, Zalo, Email hoặc những công cụ thay thế khác mà nhà trường đang sử dụng). Mặc dù có thể được tổ chức trên nhiều công cụ khác nhau, nhưng nhìn chung quá trình kiểm tra, ôn luyện qua mạng đều trải qua quy trình sau:  Bước 1: Nhập nội dung kiểm tra vào hệ thống.  Bước 2: Giao nội dung kiểm tra cho HS.  Bước 3: Đánh giá và trả bài cho HS.  Bước 4: Thu thập kết quả, ôn luyện. 2.1.2. Dạy học các tác phẩm Thơ mới phải hướng đến phát triển phẩm chất, năng lực chung và năng lực đặc thù của môn Ngữ Văn Dạy học Ngữ văn theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường đều phải đáp ứng được mục tiêu dạy học được quy định trong chương trình giáo dục phổ thông 2018. Sự đổi mới đặc biệt trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 là hướng tới hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh. Vì thế trong mỗi giờ học nhất định yêu cầu GV phải có sự định hướng, hướng tới phát triển các phẩm chất chung, năng lực chung và năng lực chuyên biệt môn Ngữ văn của HS. Trong đó, các phẩm chất chung như: Yêu nước, Nhân ái, Chăm chỉ, Trung thực, Trách nhiệm; năng lực chung như: Tự chủ và tự học, Giao tiếp hợp tác, Giải quyết vấn đề và sáng tạo. Ví dụ khi dạy bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, GV cần định hướng, hướng dẫn học sinh hình thành các phẩm chất như: biết yêu thiên nhiên, cảnh đẹp quê hương đất nước; biết trân trọng, cảm thông, yêu thương cho hoàn cảnh của nhà thơ; và hình thành được các năng lực như cảm thụ, phân tích các tác phẩm thuộc thể loại thơ trữ tình. Đối với riêng môn Ngữ Văn góp phần giúp HS bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và phát triển cá tính. Khi dạy các tác phẩm Thơ mới, GV cần định hướng phát triển các năng lực chuyên biệt sau: 2.1.2.1. Năng lực cảm thụ thẩm mĩ Điều kiện đầu tiên của bất kỳ sự phân tích, đánh giá và thẩm định giá trị của một văn bản nghệ thuật là việc đọc nó làm cho người đọc cảm thấy thoải mái, hấp dẫn và thực sự hào hứng. Tức là khi đọc hiểu một văn bản, trước hết người đọc phải huy động tri giác, sau đó là liên tưởng và tưởng tượng, để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của văn 15
  20. bản, trải nghiệm các giá trị tinh thần và hứng thú với các giá trị thẩm mỹ. Nếu việc này không được người đọc thực hiện thì khi bắt đầu quá trình đọc hiểu vẫn sẽ gặp khó khăn để đào sâu, hiểu rõ nội dung. Quá trình tâm lý được đề cập trên chính là nhận thức thẩm mỹ cảm thụ văn học. 2.1.2.2. Năng lực sử dụng ngôn ngữ Dạy đọc hiểu bài Thơ mới phát triển kỹ năng ngôn ngữ của học sinh. Thông qua các bài tập lý thuyết và thực hành, giáo viên có thể tạo “diễn đàn” để học sinh bày tỏ ý kiến của mình. Trong những giờ thảo luận nhóm cũng có thể trở thành giờ đối thoại khi giáo viên không dạy một chiều, mà nêu vấn đề tình huống để học sinh thảo luận. Khi đã nhận thức được nhiệm vụ rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh, giáo viên có thể có nhiều sáng kiến hay khi dạy Thơ mới theo định hướng phát triển năng lực. 2.1.2.3. Năng lực nhận thức vấn đề Đề tài của Thơ mới rất đa dạng và phong phú, vì thế có khả năng phản ánh, bao quát nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống văn học. Do đó đòi hỏi học sinh phải có năng lực phân tích, nhìn nhận, nhận diện và phân loại. Dạy học Thơ mới phải phát triển tư duy nhanh và chính xác khi xác định vấn đề. Trong phần đọc - hiểu Thơ mới, học sinh cần dựa vào hình thức và nội dung để xác định các yêu cầu phù hợp. Ví dụ khi dạy học bài thơ Vội vàng, GV đặt câu hỏi: Em suy nghĩ gì về 4 câu thơ đầu của bài thơ? Qua 4 câu thơ đầu em có nhận xét gì về ước muốn của Xuân Diệu? Ước muốn đó thể hiện gì về vẻ đẹp tâm hồn của tác giả? Hoặc GV hướng dẫn HS tìm hiểu: Nỗi băn khoăn trăn trở về thời gian và quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu? (GV chia nhóm thảo luận, HS thuyết trình). HS trả lời các câu hỏi sau: - Nỗi băn khoăn trăn trở của Xuân Diệu về thời gian, về tuổi trẻ và cuộc đời được thể hiện như thế nào trong bài thơ? - Em quan niệm như thế nào về thời gian, tuổi trẻ và cuộc đời? - Qua những tác phẩm đã học, đã đọc và qua những hiểu biết về nhà thơ Xuân Diệu, theo em tác giả có quan niệm như thế nào về cuộc đời, thời gian và tuổi trẻ? 2.1.3. Sử dụng đa dạng các phương pháp, phương tiện, kĩ thuật dạy học Trong quá trình giảng dạy, để giúp HS tiếp nhận bài học một cách tốt nhất thì người GV cần phải thường xuyên thay đổi, đa dạng hóa các phương pháp, phương tiện và các kĩ thuật trong quá trình truyền thụ kiến thức cho HS. Song song với việc sử dụng đa dạng hóa các phương pháp, kĩ thuật, GV cũng cần gắn liền với việc phát triển phẩm chất và năng lực cho HS trong quá trình dạy học. Với việc đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học trong thời điểm dạy học trực tuyến vẫn đang còn gặp nhiều khó khăn và thách thức đối với mỗi giáo viên. Có nhiều phương pháp, kĩ thuật chỉ có thể tiến hành khi dạy học trực tiếp. Điều này càng khiến cho GV khi tiến hành dạy học trực tuyến đã phải nỗ lực tìm tòi, đổi mới cách dạy của mình để giúp học sinh tiếp thu kiến thức trong khi học trực tuyến tại nhà một cách hiệu quả. Một 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2