intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh THPT qua dạy học bài Sức hấp dẫn của truyện kể trong chương trình Ngữ văn 10 bộ kết nối tri thức với cuộc sống

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:81

5
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến nhằm chứng minh sự cần thiết cũng như khả năng, ưu thế và hiệu quả to lớn của việc phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh THPT qua dạy học bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình Ngữ văn 10 (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh THPT qua dạy học bài Sức hấp dẫn của truyện kể trong chương trình Ngữ văn 10 bộ kết nối tri thức với cuộc sống

  1. BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ THPT: Trung học phổ thông GV: Giáo viên HS: Học sinh SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm PHT Phiếu học tập KNTT với CS Kết nối tri thức với cuộc sống GD và ĐT Giáo dục và đào tạo TNSP Thực nghiệm sư phạm 1
  2. MỤC LỤC Nội dung Trang PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ. 1 1 . Lí do chọn đề tài 1 2. Đối tường và phạm vi nghiên cứu 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2 4. Phương pháp nghiên cứu 3 5. Đóng góp của sáng kiến 3 6. Cấu trúc của sáng kiến 3 PHẦN II . NỘI DUNG 4 I. Cơ sở lí luận và thực tiễn 4 1. 1. Cơ sở lí luận 4 1. 1. 1. Định hướng dạy học phát triển năng lực trong chương trình giáo 4 dục phổ thông hiện nay 1.1.2. Năng lực giao tiếp trong hệ thống các năng lực cần hình thành cho 5 học sinh 1.2. Cơ sở thực tiễn 8 1.2.1. Bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình và SGK Ngữ 8 văn THPT hiện hành (Bộ sách Tri thức kết nối cuộc sống) 1.2.2. Thực trạng nhận thức về tầm quan trọng của việc rèn luyện năng 9 lực giao tiếp cho học sinh qua dạy học môn Ngữ văn 1.2.3. Những bất cập trong cách thực hành rèn luyện năng lực giao tiếp 11 cho học sinh qua dạy học Ngữ văn hiện nay II. Hệ thống biện pháp rèn luyện năng lực giao tiếp cho học sinh 12 trung học phổ thông qua dạy học bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình Ngữ văn 10 2.1. Biện pháp giao tiếp bằng đọc suy luận 12 2.1.1. Nguyên tắc đọc suy luận trong tiếp nhận văn học 12 2
  3. 2.1.2. Phương pháp đọc suy luận 12 2.1.3.Năng lực giao tiếp trong quá trình đọc suy luận 14 2. 1. Biện pháp giao tiếp bằng đọc suy luận 16 2.2.1. Biện pháp tranh biện trong dạy – học Ngữ văn 16 2.2.2. Nguyên tắc của hoạt động tranh biện 17 2.2.3. Cách thức tiến hành hoạt động tranh biện 19 2.3. Biện pháp giao tiếp bằng cuộc thảo luận văn học 22 2.3.1. Cuộc thảo luận văn học 22 2.3.2. Đối thoại với văn bản (cũng là với tác giả) từ bối cảnh xác định 23 của người học 2.3.3. Xây dựng các cuộc giao tiếp văn học 27 III. Thực nghiệm sư phạm 29 3.1. Mục đích và yêu cầu thực nghiệm 29 3.2. Nội dung thực nghiệm 30 3.3. Tiến trình thực nghiệm 30 3.3.1. Các bước tiến hành thực nghiệm 31 3.3.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm 31 3.3.3. Giáo án thực nghiệm 31 3.4. Kết quả thực nghiệm 41 3.4.1. Tiêu chí đánh giá 41 3.4.2. Hình thức đánh giá 42 3.4.3. Kết quả đạt được 42 3.5. Khảo sát tính cấp thiết và khả thi của các biện pháp đã áp dụng 43 3.5.1. Mực đích khảo sát 43 3.5.2. Nội dung khảo sát 43 3
  4. 3.5.3. Phương pháp và thang điểm đánh giá 44 3.5.4. Đối tượng khảo sát 44 3.5.5. Kết quả khảo sát 44 PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 47 PHỤ LỤC 4
  5. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài 1.1.“Hãy chấm dứt việc coi giáo dục là sự chuẩn bị đơn thuần cho cuộc sống tương lai, hãy coi giáo dục như là ý nghĩa đầy đủ của đời sống đang diễn ra trong hiện tại”(nhà cải cách giáo dục người Mỹ John Dewey (1859 – 1952). Nhận định này đã khẳng định ý nghĩa của dạy học phát triển năng lực cho học sinh, học tập chính là những trải nghiệm thú vị và sống chính là bộc lộ khả năng, năng lực để học tập. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đề ra mục tiêu phát triển năng lực người học, đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn… được xem là vấn đề có ý nghĩa then chốt. Thông tư số 32/2018/TT-BGDDT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đề cập “phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân”. Như vậy, chương trình giáo dục mới đặt ra yêu cầu về sự phát triển con người một cách toàn diện, cả phẩm chất và năng lực. Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học có yêu cầu cao hơn, mức độ khó hơn, đòi hỏi người dạy phải có phẩm chất, năng lực giảng dạy cao hơn trước. Đây chính là điều mà đội ngũ GV càng ngày càng nhận thức được một cách sâu sắc. Tuy nhiên, việc chuyển đổi thói quen dạy học, đổi mới phương pháp dạy học, chuyển từ dạy học kiến thức, kĩ năng đến dạy học năng lực vẫn luôn là một thách thức. 1.2. Trong các năng lực cơ bản cần rèn luyện cho người học thì năng lực giao tiếp đóng vai trò hết sức quan trọng, nhất là đối với môn Ngữ văn. Năng lực giao tiếp vừa là nhu cầu vừa là yêu cầu đối với người học để nâng cao kết quả học tập, phát triển bản thân và đảm bảo năng lực học tập suốt đời. Ngữ văn là môn học đặc biệt, vừa đòi hỏi người học sử dụng năng lực giao tiếp để bày tỏ quan điểm thái độ của bản thân về các vấn đề văn học và xã hội, vừa thông qua quá trình bày tỏ, trao đổi để phát triển ngôn ngữ và năng lực giao tiếp. Là môn học tích hợp, cũng là môn học công cụ nên môn Ngữ văn đóng vai trò quan trọng cho việc hình thành và phát triển các năng lực và phẩm chất cho học sinh. Xoay quanh trục năng lực nghe, nói, đọc, viết để tạo tiền đề cho các năng lực khác phát triển (năng lực hợp tác, sáng tạo, giao tiếp, giải quyết vấn đề…). Chỉ khi HS tự mình biết cách tranh luận, giao tiếp, cách tiếp nhận văn bản văn học một cách sắc sảo, độc lập và sáng tạo thông qua giao tiếp bằng ngôn ngữ viết hoặc ngôn ngữ nói thì mục đích của việc dạy – học môn Ngữ văn mới thực sự có hướng đi đúng. Khác với các môn học khác, môn Ngữ văn đòi hỏi người học phải tự mình bước vào thế giới nghệ thuật của văn bản trước hết bằng việc đọc, đọc – hiểu để tự tạo ra một cuộc tương tác có mục đích với chính các vấn đề văn học, đến sự bày tỏ, tương tác với GV và bạn học. Sự tương tác giữa HS với GV và giữa HS với HS ở các mức độ khác nhau chính là then chốt của năng lực giao tiếp. Nếu không không có sự tranh luận, giao tiếp khi tiếp nhận 5
  6. văn học thì mọi hoạt động khác đều thiếu cơ sở và mang tính lí thuyết.Vậy có thể khẳng định vị trí của môn Ngữ văn: đây là môn học có nhiều khả năng và ưu thế nhất trong việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh. 1.3. Mặc dù Ngữ văn là môn học có nhiều khả năng và ưu thế trong việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh, nhưng trên thực tế, trong chương trình dạy học trước đây, vấn đề phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh thông qua việc dạy học môn Ngữ văn vẫn chưa được coi trọng đúng mức. Chương trình dạy học vẫn nặng về cung cấp kiến thức mà chưa quan tâm đến việc rèn luyện, phát triển các năng lực giao tiếp, tính đa chiều và chưa tạo ra mối quan hệ biện chứng giữa dạy học văn và cuộc sống, chưa phát huy được vai trò là môn học công cụ trong giao tiếp. Trong chương trình dạy học hiện hành, yêu cầu đổi mới phương pháp cũng đặt ra vấn đề phát huy vai trò chủ động, tích cực của HS trong quá trình dạy học, GV thay vì làm hộ học trò thì chuyển sang vai trò người định hướng, dẫn đường, người trọng tài trong quá trình học của HS. Tuy nhiên, áp lực thi cử khiến nhiều GV vẫn phải cảm nhận thay, diễn đạt thay cho học sinh. Kết quả là nhiều HS khi rời ghế nhà trường vẫn không có khả năng giao tiếp, không có khả năng tranh luận những vấn đề thực tế cuộc sống, kĩ năng bày tỏ ý kiến hạn chế. Trong quá trình dạy học bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình Ngữ văn10 sách giáo khoa bộ kết nối tri thức với cuộc sống, chúng tôi đã trăn trở và áp dụng nhiều biện pháp dạy học tính cực, trong đó các biện pháp phát triển năng lực giao tiếp thông qua đọc – hiểu văn bản bước đầu thu được những kết quả khả thi. Với những lí do nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề: Phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh THPT qua dạy học bài “Sức hấp dẫn của truyên kể” trong chương trình Ngữ văn 10 bộ kết nối tri thức với cuộc sống làm đối tượng nghiên cứu. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Như tên đề tài đã xác định rõ, đối tượng nghiên cứu của sáng kiến này là Phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh THPT qua dạy học bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình Ngữ văn 10 bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Trong đề tài, chúng tôi sẽ chỉ bàn đến việc phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh qua dạy học bài đầu tiên của chương trình Ngữ văn 10, bộ sách tri thức kết nối với cuộc sống “Sức hấp dẫn của truyện kể”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Sáng kiến nhằm chứng minh sự cần thiết cũng như khả năng, ưu thế và hiệu quả to lớn của việc phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh THPT qua dạy học 6
  7. bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình Ngữ văn 10 (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.2.1. Nghiên cứu cơ sở khoa học của đề tài, bao gồm việc làm rõ năng lực giao tiếp trong hoạt động dạy – học, thực trạng và khả năng vận dụng năng lực giao tiếp trong dạy học bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình Ngữ văn 10 (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) 3.2.2. Xây dựng hệ thống phương pháp, biện pháp phát triển năng lực giao tiếp trong dạy học bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình Ngữ văn 10 (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) 3.2.3. Tiến hành thực nghiệm sư phạm khẳng định tính khả thi và hiệu quả của biện pháp vận dụng phát triển năng lực giao tiếp trong dạy học bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình Ngữ văn 10 (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) 3.3.4. Tiến hành khảo sát GV và HS để thu thập mức độ định lượng về tính cấp thiết và khả thi của các giải pháp phát triển năng lực giao tiếp. 4. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi sử dụng phối hợp nhiều phương pháp thuộc hai nhóm nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tiễn: - Dùng phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phân loại và hệ thống hoá lý thuyết để đánh giá, thẩm định những nghiên cứu có liên quan đến đề tài. - Dùng các phương pháp quan sát và điều tra để nắm bắt những dữ liệu cần thiết về hoạt động phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh qua dạy học bài “sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình Ngữ văn 10 - Dùng phương pháp thực nghiệm và khảo sát để thẩm định, đánh giá tính khoa học, tính khả thi của hệ thống biện pháp phát triển năng lực lực giao tiếp cho học sinh qua dạy học bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình Ngữ văn 10 5. Đóng góp của sáng kiến Nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh, đề xuất biện pháp có tính khả thi nhằm hình thành và phát triển năng lực giao tiếp cho HS qua dạy học bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình Ngữ văn 10. 6. Cấu trúc của sáng kiến: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của sáng kiến sẽ được triển khai qua 3 phần: I. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài II. Hệ thống biện pháp rèn luyện năng lực giao tiếp cho học sinh qua dạy học bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” chương trình Ngữ văn 10 III. Thực nghiệm sư phạm 7
  8. PHẦN II. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Định hướng dạy học phát triển năng lực trong chương trình phổ thông hiện nay Đặc điểm quan trọng nhất của dạy học phát triển năng lực là đo được “năng lực” của học HS hơn là thời gian học tập và cấp lớp. HS thể hiện sự tiến bộ bằng cách chứng minh năng lực của mình, điều đó có nghĩa HS chứng minh mức độ làm chủ, nắm vững kiến thức và kỹ năng, khả năng vận dụng kiến thức kĩ năng trong bối cảnh thực tiễn cuộc sống (được gọi là năng lực).Thực hiện nội dung đổi mới giáo dục với phương pháp chuyển từ tiếp cận nội dung (HS học được gì) sang tiếp cận năng lực của người học (HS làm được gì thông qua việc học), lấy HS làm trung tâm, GV giữ vai trò tổ chức, chỉ dẫn các hoạt động chiếm lĩnh tri thức cho HS. Nếu chương trình giáo dục trước đây chú trọng định hướng nội dung, đề cao vai trò độc tôn của người thầy thì chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực hiện nay chú trọng đến khai thác khả năng sáng tạo, chủ động, tích cực của người học, hướng đến khuyến khích người học bộc lộ sự trải nghiệm, tư duy giao tiếp và quan điểm cá nhân, xem HS là trung tâm của hoạt động dạy học. Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực còn làm thay đổi mối quan hệ GV – HS theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng để phát triển năng lực xã hội. Quá trình dạy - học tạo ra sự tương tác giữa GV và HS góp phần tạo dựng môi trường nhận thức, sáng tạo cho người học, từ đó rèn luyện được những năng lực, phẩm chất cụ thể cho người học. Mục tiêu cuối cùng của dạy học phát triển năng lực là trang bị cho HS năng lực xử lý, thực hành các vấn đề của cuộc sống và công việc, chú trọng kiến thức phương pháp. Điều này cũng đồng nghĩa với việc người dạy cần phải có sự đầu tư công phu hơn trong lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học, tránh tình trạng vận dụng một cách thiên lệch dẫn đến những lỗ hổng tri thức cơ bản, thiếu tính hệ thống trong cung cấp tri thức. Chất lượng giáo dục có đạt đến mục tiêu còn phụ thuộc vào quá trình thực hiện chương trình. Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm năng lực được hiểu là “khả năng làm chủ và vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa dạng của cuộc sống” (Theo Quebec – Ministere de I Education, 2004).. Chương trình giáo dục tổng thể năm 2018 và chương trình giáo dục phổ thông mới của môn Ngữ văn (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT- BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) đều hướng đến phát triển năng lực chung và năng lực đặc thù cho HS. Chương trình 8
  9. giáo dục mới đã đưa ra những yêu cầu chung, khái quát về đổi mới phương pháp dạy học: Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực giao tiếp (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông tin, bộc lộ ý kiến cá nhân, tranh luận các vấn đề học tập), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất như linh hoạt, độc lập, sáng tạo trong quá trình tư duy. Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp đặc thù của môn học để thực hiện. Mục tiêu của các phương pháp này hướng tới là “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức, hướng dẫn của GV”. 1.1.2. Năng lực giao tiếp trong hệ thống các năng lực cần hình thành cho HS 1.1.2.1. Các năng lực cần hình thành cho học sinh Nghị quyết số 88 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông có quy định: “Mục tiêu giáo dục phổ thông là tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh”. Thông tư số 32/2018/TT-BGDDT ngày 26/12/2018 ban hành về chương trình giáo dục tổng thể đã trình bày đầy đủ những yêu cầu cần đạt về năng lực của học sinh. Nhóm thứ nhất là các năng lực chung mà môn học và hoạt động giáo dục nào cũng cần và có thể hình thành, phát triển cho học sinh gồm: năng lực tự chủ và giao tiếp; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Năng lực tự chủ và giao tiếp thể hiện trong mối quan hệ của mỗi người với bản thân. Năng lực giao tiếp và hợp tác được thể hiện trong mối quan hệ của mỗi người với người khác. Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo được thể hiện trong mối quan hệ của mỗi người với công việc. Nhóm thứ hai là những năng lực đặc thù do một hoặc một vài môn học kiến tạo thành, bao gồm: năng lực sử dụng ngôn ngữ (gắn với các môn Ngữ văn, Ngoại ngữ), năng lực thẩm mỹ (gắn với các môn Nghệ thuật), năng lực tính toán (gắn với Toán và các môn khoa học tự nhiên), năng lực Tin học, năng lực Thể chất, năng lực khoa học và năng lực công nghệ. Như vậy có thể khẳng định rằng trong các nhóm năng lực chung và đặc thù mà giáo dục hướng đến, nhận thấy: chủ yếu nhằm phát triển cho người học những năng lực và phẩm chất quan trọng hướng đến sự chủ động, thích ứng, với môi trường và hoàn cảnh phức tạp. Do đó, năng lực giao tiếp là một trong những năng lực vô cùng quan trọng, có vai trò làm nền tảng và định hướng trong quá trình hình thành và phát triển đầy đủ các năng lực cơ bản và đặc thù cho HS trong bối cảnh mới. Trong đó, môn học có thế mạnh và đòi hỏi phát triển cao và đầy đủ năng lực giao tiếp phải kể đến môn Ngữ văn: Môn học công cụ, vừa là môn học nghệ thuật, vừa là môn học gần gũi với cuộc sống. 9
  10. 1.1.2.2. Năng lực giao tiếp Giao tiếp là khả năng truyền đạt và thu nhận thông tin từ hai phía người nói (viết) và người nghe (đọc). Giao tiếp có thể trở thành một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Giao tiếp tạo ra một quá trình tương tác có lập luận rõ ràng, logic. Năng lực giao tiếp được hiểu là khả năng nắm bắt, điều chỉnh và biểu đạt khả năng nhận thức, thái độ và tình cảm của của người giao tiếp. Nó làm xuất hiện nhu cầu phân tích, thôi thúc nhận thức lại các đối tượng, các vấn đề. Như vậy có thể khẳng định, năng lực giao tiếp là thúc đẩy hành động tái tạo nhận thức, điều chỉnh thái độ, kiến tạo giải pháp phù hợp và hiệu quả. Dựa vào những nghiên cứu gần đây, các nhà giáo dục đã hoàn toàn tin tưởng rằng trường học nên tập trung hơn vào việc dạy học sinh tư duy giao tiếp. Tư duy giao tiếp không chỉ đơn thuần là sự tiếp nhận và duy trì thông tin thụ động. Năng lực giao tiếp có nội hàm tương đối rộng, bao gồm hai mức độ là tư duy giao tiếp và kĩ năng giao tiếp. Tư duy giao tiếp là suy nghĩ về những vấn đề, hình thành những lý lẽ và quan điểm trong não bộ (có thể ở dạng tiềm năng chưa bộc lộ) mà chưa được bộc lộ ra ngoài bằng ngôn ngữ hay hay hành động; Kĩ năng giao tiếp là bộc lộ, trình bày hay triển khai các vấn đề, lý lẽ, quan điểm để giải phóng tư duy đó. Nghĩa là nếu không có tư duy giao tiếp thì rất khó có kĩ năng giao tiếpvà kĩ năng giao tiếp cụ thể hóa tư duy giao tiếp để vấn đề giao tiếp được hoàn thành. Như vậy, hiểu một cách đơn giản thì giao tiếp là việc đưa ra những suy nghĩ, quan điểm và lý lẽ về vấn đề nào đó thông qua ngôn ngữ để biểu đạt quan điểm của mình.Giao tiếp đồng thời cũng được xem là tư duy về tư duy. Năng lực giao tiếp biểu hiện rõ nhất là ở phương pháp học, qua cách học, người học cũng đã thể hiện cách tư duy và kỹ năng giao tiếp. Vì thế, HS có phương pháp học tốt đồng nghĩa có khả năng tiếp thu và lí giải, phân tích, thẩm bình sâu sắc kiến thức tốt. Phương pháp học tập được hình thành và phát triển trong quá trình học, vì vậy năng lực và phương pháp giảng dạy, giáo dục của GV sẽ có tác động rất quan trọng đến năng lực giao tiếp của học trò, tạo điều kiện để hình thành, phát triển và duy trì năng lực giao tiếp. Các kỹ năng cốt lõi của năng lực giao tiếp là quan sát, diễn giải, phân tích, suy luận, đánh giá, giải thích, và tri nhận tổng hợp để biểu đạt bằng ngôn ngữ ở dạng nói hoặc viết. Muốn hoạt động giao tiếp diễn ra hiệu quả, người giao tiếp cần phải chuẩn bị để sẵn sàng gắn việc giải quyết những vấn đề nêu ra với những kĩ năng tương ứng. Tư duy giao tiếp vận dụng không chỉ tri thức về logic mà còn những tiêu chí trí tuệ, cảm xúc, sự thấu hiểu và khả năng biểu đạt. Đồng thời, khi năng lực giao tiếp đã trở thành yếu tố bên trong, biểu hiện ở thái độ học tập chủ động học tập, sẵn sàng tiếp cận với vấn đề mới trong học tập, có ý thức và thái độ nghiêm túc cầu thị, tranh luận, dám nói và dám bảo bảo vệ quan điểm cá nhân trong quá trình học. Năng lực giao tiếp có khả năng biểu hiện tổng hòa cho rất nhiều năng lực khác ở người học 10
  11. như năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực ngôn ngữ, năng lực phản biện. Do đó, năng lực giao tiếp thể hiện trình độ văn hóa, bộc lộ thái độ sống của một người. Cho nên, GV cần xây dựng môi trường học tập tích cực để HS được thể hiện bản,GV cần xây dựng được tình huống học tập có vấn đề, nhằm lôi cuốn và khích lệ HS hăng say, chủ động và tự tin khám phá, thể nghiệm. Năng lực giao tiếp tồn tại trong mỗi cá nhân, người học đứng trước một vấn đề khó khăn trong học tập hay cuộc sống đều có nhu cầu giải quyết, phân tích, lí giải cặn kẽ. Do đó, môi trường dạy – học đóng một vai trò quan trọng để rèn luyện và phát triển năng lực này ở người học. GV càng sáng tạo, càng khích lệ được hứng thú cho HS trong học tập, HS càng có cơ hội được bộc lộ hơn nữa năng lực giao tiếp trong học tập. Cho nên, năng lực giao tiếp vừa là nhu cầu tự nhiên, vừa là nhu cầu tâm lí. Quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp HS hình thành và phát triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn luyện và phát triển các năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học thì trong quá trình hướng dẫn HS tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn cũng hướng HS từng bước hình thành và nâng cao năng lực quan trọngcủa người học, đó là năng giao tiếp. Trong hoạt động dạy học, năng lực giao tiếp hình thành cho người học khả năng hiểu sâu các vấn đề với những câu hỏi vì sao, như thế nào, tạo dựng môi trường tương tác. Bên cạnh đó, giao tiếp cũng giúp hoạt động dạy và học trở nên dân chủ và có không khí sôi nổi, tác động nhiều chiều hơn giúp HS hứng thú và tiếp thu bài hiệu quả hơn. Phát triển được khả năng giao tiếp và khuyến khích người học giao tiếp là một cách thức để đổi mới phương pháp dạy học trong xu hướng dạy học tiếp cận năng lực. Đối với môn Ngữ văn nói chung và văn bản văn xuôi nói riêng, năng lực giao tiếp đóng một vai trò quan trọng. Trước hết là bởi tính chất đặc thù của văn bản nghệ thuật, quá trình tiếp tác phẩm trước hết là cảm thụ cá nhân, nghĩa là người học phải tự lực suy luận tham gia vào quá trình chiếm lĩnh tác phẩm bằng năng lực của bản thân phát hiện và lí giải những vẽ đẹp tiềm ẩn bên trong ngôn ngữ. Thực tế, để học tốt môn Ngữ văn, người học không chỉ cần trí tuệ mà yếu tố cảm xúc, hứng thú giữ vai trò quan trọng. Cảm xúc là một yếu tố hoàn toàn mang tính cá nhân, vì thế mỗi HS phải tự mình bước vào trang sách, tự mình “nếm trải” những dư vị cảm xúc trong truyện, nghĩa là phải tự đọc – hiểu, phân tích, lí giải, cảm nhận (có nghĩa là trải qua quá trình giao tiếp) văn bản trước khi có sự can dự, định hướng của GV. Đặc trưng của truyện kể được xem xét ở những dấu hiệu hình thức của văn bản như thể loại, cốt truyện, ngôn ngữ trần thuật, hình tượng nhân vật... Cấu trúc của văn bản nghệ thuật gồm ba tầng (tầng ngôn từ, tầng hình tượng, tầng hàm ẩn). Trong đó, ngôn từ là tầng đầu tiên tạo nên văn bản. Ngôn từ trong tác phẩm văn học vốn bắt nguồn từ ngôn ngữ đời sống nhưng qua ngòi bút của nhà văn nó đã được nhào nặn và tái tạo lại, lựa chọn và tổ chức để mang lại những lớp nghĩa mới mẻ. Bấy giờ, ngôn từ bình thường trở thành ngôn từ nghệ thuật, có tác dụng thể 11
  12. hiện cái vô cùng, vô tận của thế giới tâm hồn con người một cách hình tượng. Nó gợi dậy những suy nghĩ, trăn trở cho người đọc, mở ra cho người đọc những bài học nhân sinh sâu sắc. Mỗi từ, mỗi câu từ trong văn bản khêu gợi một cái gì lớn hơn, tràn ra ngoài nó, tạo dựng ý ngoài lời, hình thành một chỉnh thể hình tượng mới mẻ. Ta có thể lấy ví dụ trong lời nói của nhân vật Huấn Cao với viên quan cai ngục vào lần gặp riêng trong phòng. - Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. (Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân) Hai chữ “ta chỉ” vừa bộc lộ mức độ mong muốn ít ỏi (chỉ), vừa chứa đựng sự sự quyết liệt, dứt khoát của Huấn Cao, nhưng mong muốn lại được lộ ra bằng cụm từ “đừng đặt chân vào đây” mạnh mẽ, kiêu bạc biết nhường nào. Và cái điều Huấn Cao muốn là sự cự tuyệt hoàn toàn với “ngươi” – kẻ phụng sự cho nhà nước phong kiến mà ông chống lại. Chỉ với một câu nói ngắn gọn, chúng ta có thể nhận thấy thái độ khinh khi, lời lẽ đanh thép đầy khí phách của kẻ sĩ đầu đội trời chân đạp đất Huấn Cao. Sử dụng khả năng suy luận ta nhận thấy: Với Huấn Cao, bộ máy phong kiến thối nát đáng khinh bỉ đến mức nào, cũng như bản lĩnh, khí phách của một kẻ anh hùng, dù có thất thế vẫn ngạo nghễ, kiêu bạc. Không chỉ dừng ở suy luận, trong quá trình dạy - học, GV cần đặt HS vào những tình huống có vấn đề (trong các tiết nghe và nói) nhằm kích thích sự tranh biện giữa các cá nhân với nhau, HS càng bày tỏ được ý kiến riêng, cách cảm, cách hiểu riêng thì vấn đề học tập càng trở nên sâu sắc. Hơn thế, qua quá trình tranh biện HS sẽ phát triển được các năng lực quan trọng như năng lực ngôn ngữ, phản biện, hợp tác và đặc biệt là năng lực giao tiếp. Để phát triển năng lực giao tiếp ở mức kĩ năng, GV cần xây dựng các cuộc thảo luận văn học trong quá trình đọc – hiểu văn bản, nhất là văn bản văn xuôi, truyện kể những câu chuyện đời sống được thảo luận, trao đổi sẽ làm cho HS hiểu hơn về cuộc sống, xã hội và con người. Trong khuôn khổ bài học “Sức hấp dẫn của truyện kể” ở chương trình Ngữ văn 10 (Sách kết nối tri thức với cuộc sống), GV có thể tổ chức, xây dựng cho HS các cuộc thảo luận văn học: “Ai đã đốt đền?Ai mới thực sự là thủ phạm? Bức tranh đời sống được vén màn” trong truyện Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên ( Nguyễn Dữ), GV có thể xây dựng cuộc thảo luận văn học: Cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và Quản ngục – cuộc gặp gỡ của tình yêu cái đẹp... 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình và SGK Ngữ văn THPT hiện hành (Bộ sách Tri thức kết nối cuộc sống) Trong chương trình và sách giáo khoa bộ Kết nối tri thức với cuộc sống (SGK KNTT với CS) Ngữ văn 10 THPT hiện hành có nhiều loại văn bản xét về phong cách ngôn ngữ chức năng. Trong đó, văn bản văn xuôi chiếm một số lượng lớn. Việc rèn luyện năng lực giao tiếp cho học sinh qua dạy học Ngữ văn là một ưu thế đã được 12
  13. khẳng định. Trong giới hạn nghiên cứu này, chúng tôi xin xem xét ở đối tượng cụ thể là văn bản ở phần đọc trong bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” của chương trình Ngữ văn 10 bộ KN TT với CS. Các văn bản này đều thuộc thể loại văn xuôi, chúng có mối liên hệ nhất định với nhau về mặt thi pháp thể loại và không nhất thiết phải cùng ra đời trong một thời kì hay cùng thuộc một nền văn học. Các biện pháp rèn luyện năng lực giao tiếp xoay quanh trục các hoạt động đọc, viết, nói và nghe. Kết cấu một bài học đều đảm bảo các năng lực đọc, viết, nói và nghe, điều này thuận lợi cho việc khảo sát ở một bài học cụ thể vẫn có thể đảm bảo tính khái quát của các biện pháp phát triển năng lực giao tiếp cho các đơn vị bài học khác. Văn xuôi truyện kể bao giờ cũng là sự kí thác những tư tưởng tình cảm tốt đẹp, nhân văn của tác giả về những vấn đề cuộc sống, con người, thiên nhiên. Nó vừa là sự “hội tụ” những tình cảm tốt đẹp của tác giả (bao gồm tác giả dân gian) vừa thể hiện giá trị văn hóa dân tộc, thời đại. Nó vừa là một thể thống nhất về nội dung và hoàn chỉnh về nghệ thuật, nhưng lại là một cấu trúc “mở” cho người tiếp nhận cơ hội đồng sáng tạo. Truyện kể không bị gò bó về không gian và thời gian, có thể đi sâu vào tâm trạng con người, những cảnh đời cụ thể như trong Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân); Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên (Nguyễn Dữ)...Đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn xuôi là ở kết cấu, hình tượng nhân vật, nghệ thuật trần thuật... Hiện nay sách giáo khoa Ngữ văn 10 bộ KNTT với CS có số lượng văn bản văn xuôi (khảo sát văn bản đọc hiểu chính và đọc thêm...) gồm 04 văn bản, thuộc các thể loại và thời đại khác nhau. Trong đó, phân phối chương trình (do tổ chuyên môn xây dựng) có : - Có 07 tiết đọc văn bản đọc chính - Có 01 tiết đọc văn bản đọc thêm - Có 03 tiết Thực hành Tiếng Việt và Tiếng Việt - Có 01 tiết nghe và nói Như vây, có thể thấy rằng chương trình SGK Ngữ văn 10, bài học “Sức hấp dẫn của truyện kể” có khối lượng văn bản văn truyện kể lớn, đảm bảo các bài đọc –viết – nghe – nói phù hợp cho việc áp dụng các biện pháp phát triển năng lực giao tiếp từ hình thức đọc suy luận đến tranh biện và tiến hành các cuộc thảo luận văn học. 1.2.2. Thực trạng nhận thức về tầm quan trọng của việc rèn luyện năng lực giao tiếp cho học sinh qua dạy học môn Ngữ văn Rèn luyện năng lực giao tiếp là bước hoàn tất và chuyên sâu hơn trong dạy học phát triển năng lực của người học. Nếu quá trình dạy học đã tập trung hướng dẫn phát triển các năng lực giao tiếp nhưng lại không xây dựng được các biện pháp rèn luyện, củng cố năng lực này thì quá trình dạy học vẫn chưa đạt được hiệu quả, thậm chí năng lực HS mới được hình thành sẽ thiếu cơ sở thực hành và vì thế nó sẽ mất đi trong một thời gian. Cho nên, rèn luyện năng lực giao tiếp chính là xây 13
  14. dựng được hệ thống các biện pháp cụ thể, thiết thực trong quá trình dạy học và kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn. Để nắm vững thực trạng nhận thức về tầm quan trọng của việc rèn luyện năng lực giao tiếp cho HS THPT, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực tế việc dạy và học môn Ngữ văn. Có 20 GV và 80 HS ở ba đơn vị trường THPT tham gia khảo sát gồm: trường THPT Quỳnh Lưu 2, THPT Quỳnh Lưu 3, THPT Nguyễn Đức Mậu (Phiếu khảo sát được trình bày ở phần Phụ lục 1(dành cho học sinh) phụ lục 2 (dành cho giáo viên ). * Nội dung khảo sát - Tìm hiểu thực trạng dạy học theo định hướng năng lực của GV dạy bộ môn Ngữ văn, nhất là phát triển năng lực giao tiếp trong dạy học ở chương trình Ngữ văn 10 sách Kết nối tri thước với cuộc sống (KNTT với CS). - Tìm hiểu việc xây dựng giáo án bài giảng của GV để nắm cách tổ chức dạy học, tình hình xây dựng hệ thống câu hỏi có phù hợp, thiết thực và cụ thể phát triển năng lực giao tiếp cho HS. - Tìm hiểu hứng thú và thái độ của HS trước chương trình Ngữ văn nói chung và bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình Ngữ văn 10 (KNTT với CS) nói riêng. Từ đó xác định những khó khăn của GV và HS gặp phải để bước đầu đề xuất những biện pháp dạy học nhằm phát triển năng lực giao tiếp trong dạy học văn nói chung và bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” chương trình Ngữ văn 10 nói riêng. * Phương pháp khảo sát: Để thực hiện đề tài, chúng tôi tiến hành: - Dùng phiếu khảo sát (sử dụng bảng hỏi Google Form) nghiên cứu giáo án, bài giảng. Dự giờ dạy một số giáo viên.Trao đổi trực tiếp với GV, HS. * Kết quả khảo sát (trình bày ở phần phụ lục 3) Thông qua kết quả thu được từ quá trình điều tra có thể kết luận: Về tình hình dạy của giáo viên: - Phần lớn GV cho rằng việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp cho HS trong dạy học Ngữ văn là rất quan trọng và cần thiết. Số ít GV đã xây dựng được hệ thống câu hỏi nhằm hướng HS đến khả năng chủ động, sáng tạo, khả năng suy luận, tranh biện trong học tập. - Một số GV còn mơ hồ về những năng lực cần hình hình thành cho HS qua môn học của mình. Đặc biệt nhiều GV chưa xây dựng được hệ thống câu hỏi và bài tập phù hợp để phát triển và rèn luyện năng lực giao tiếp trong dạy học văn. - Phương pháp dạy học đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn mang tính truyền thụ chủ yếu, coi nặng nội dung. 14
  15. - Một số GV đã cố đã cố gắng xây dựng hệ thống câu hỏi trong bài dạy phát huy năng lực HS, tích cực hoá hoạt động của HS như: tổ chức hoạt động nhóm, dạy học theo tình huống có vấn đề, sử dụng sơ đồ, tranh ảnh…nhưng chủ yếu được thực hiện khi có hoạt động thao giảng, dự giờ, thi GV giỏi. Hệ thống câu hỏi, bài tập vận dụng dành cho học HS đã có đầu tư nghiên cứu nhưng nhiều bài tập chưa thực sự chất lượng. Tình hình học tập của học sinh: - Một số HS có ý thức và kĩ năng học tập tốt, có khả năng suy luận tranh biện, đặt vấn đề, giao tiếp trong học văn. - Nhiều HS tham gia học Ngữ văn tâm lí hời hợt, chủ yếu học để thi, thiếu hứng thú, không chủ động tự giác trong việc tiếp cận văn bản và tìm kiếm tài liệu. Khi GV tổ chức hoạt động nhóm, một số HS làm việc, một số HS lại ỷ lại hoặc không trình bày được ý kiến cá nhân của mình với nhóm. Nhiều HS rất ngại trao đổi với thầy cô, bạn bè về những vấn đề khó khăn gặp phải. 1.2.3. Những bất cập trong cách thực hành rèn luyện năng lực giao tiếp cho học sinh qua dạy học Ngữ văn hiện nay Trên cơ sở kết quả thu được qua quá trình khảo sát, chúng tôi ghi nhận những bất cập trong cách thức rèn luyện năng lực giao tiếp cho HS qua dạy học bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” Ngữ Văn 10 Về phía giáo viên: - Giáo viên vận dụng phương pháp giảng dạy chưa phù hợp: Đa số giáo viên đều được đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn, tận tụy với công việc, quan tâm đến học sinh nhưng nhiều khi vận dụng phương pháp dạy chưa phù hợp, chưa linh hoạt, thiếu sự sáng tạo. - Một số GV chưa có những biện pháp sư phạm tổ chức dạy học phù hợp, chưa tạo được hứng thú cho HS trong học văn, khả năng khai thác tính chủ động, giao tiếp ở HS còn yếu. Nhận thấy hệ thống câu hỏi trong giờ dạy học văn vẫn mang tính chung chung, chưa có sự phân loại rõ, chưa có những câu hỏi hướng đến năng lực giao tiếp. - Phần lớn GV Ngữ văn chỉ tập trung dạy học phần lí thuyết, chưa chú trọng thực hành,vận dụng, liên hệ thực tế, chưa đưa ra biện pháp rèn luyện năng lực giao tiếp cho người học. - Một số GV đã đưa ra một số biện pháp nhất định nhằm rèn luyện năng lực giao tiếp cho người học khi dạy học “Sức hấp dẫn của truyện kể”chương trình Ngữ văn 10, tuy nhiên các biện pháp này chưa phong phú, chưa cụ thể và thực sự chưa hiệu quả. Như vậy, việc vận dụng dạy học phát triển năng lực, nhất là năng lực giao tiếp trong dạy học Ngữ văn của bộ phận GV trong thực tiễn dạy học còn nhiều điểm chưa thực sự hợp lí, chưa đảm bảo đúng tư tưởng của lí luận dạy học phát triển năng lực. 15
  16. Về phía học sinh: - Phương pháp học tập không phù hợp: Đa số học sinh đều nghĩ rằng học Văn không khó, cần nhiều chỉ số EQ (chỉ số cảm xúc) chứ không phải chỉ số IQ (trí thông minh) nên các em chọn cách học cách máy móc mà không tư duy. - Tỉ lệ HS tích cực, chủ động trong học tập còn quá ít. Khả năng đặt ra các vấn đề, tự tìm kiếm, chủ động khai thác văn bản, năng lực đọc – nghe – nói – viết còn nhiều hạn chế, khả năng để tìm hiểu, đánh giá các vấn đề về văn bản còn hạn chế. - HS vẫn mang nặng ý thức học thi nên phần lớn chỉ ghi nhớ kiến thức máy móc, học thuộc tài liệu thế bản mà không tự lực đọc văn bản, quá trình học văn mang tính đối phó thiếu hứng thú, không hiệu quả. II. Hệ thống biện pháp rèn luyện năng lực giao tiếp cho học sinh trung học phổ thông qua dạy học bài “Sức hấp dẫn của truyện kể” trong chương trình Ngữ văn 10 2.1. Biện pháp giao tiếp bằng đọc suy luận 2.1.1. Nguyên tắc đọc suy luận trong tiếp nhận văn học Đọc suy luận là một trong những kĩ năng quan trọng trong quá trình tiếp nhận và khai thác văn bản, suy luận giúp HS từ việc nắm bắt tầng ngôn ngữ bên ngoài sẽ phát hiện được lớp nghĩa hàm ngôn ẩn giấu bên trong. Mỗi văn bản đều có nhiều lớp nghĩa, việc của các “thám tử” tài ba không phải là chỉ ra nghĩa bề mặt, mà phải dùng suy luận để tìm ra nghĩa bề sâu, nói như nhà văn Hê-minh-uê: “tác phẩm văn học là một tảng băng trôi, ba phần chìm một phần nổi”, thì đọc suy luận càng đóng vai trò quan trọng trong việc tìm ra phần chìm của tảng băng đó. Trong giáo trình “Đọc hiểu và chiến thuật đọc hiểu văn bản trong nhà trường phổ thông” của tác giả Phạm Thị Thu Hương, có đề cập đọc suy luận như sau: “Đọc suy luận thực ra là đọc thấy những điều nằm giữa các dòng chữ, thậm chí vượt ra bên ngoài từng dòng chữ mà nắm lấy cái thần thái của văn bản. Như vậy là việc đọc không dừng lại ở truyện nắm bắt những thông tin hiển ngôn, bề mặt. Nó đòi hỏi làm sống dậy cả thế giới phong phú, sinh động mà đôi khi nhà văn chỉ điểm xuyết một vài nét phác họa thần thái”. Qua cách hiểu trên, cùng với quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy đọc suy luận là một biện pháp dạy học có nhiều yếu tố tiềm năng để HS suy luận, cắt nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi trong việc phát triển năng lực giao tiếp trong dạy học các tiết đọc văn. Đọc suy luận đòi hỏi trong quá trình học tập, HS phải tích cực hoạt động hóa và sử dụng những tri thức của họ về cuộc sống, con người, về những trải nghiệm, những kinh nghiệm thẩm mĩ trong cuộc đời. Bởi suy luận trong văn chương không phải là “một chiều”, có những cái tưởng rằng là nghịch lí, mâu thuẫn, đối lập, hóa ra lại nói lên cái thăm thẳm, bí ẩn còn khuất lấp trong cuộc đời mà độc giả cần khám phá, khai thác. 2.1.2. Phương pháp đọc suy luận 16
  17. Đọc là hình thức tiếp nhận đầu tiên của quá trình hình thành và phát triển năng lực giao tiếp. Đối với văn bản nghệ thuật, nhất là văn bản văn xuôi, con đường đầu tiên và duy nhất để khám phá thế giới nghệ thuật của tác phẩm chính là đọc. Đọc hay đọc suy luận là một quá trình "nhận thức" phức tạp của việc giải mã các biểu tượng để tạo ra ý nghĩa. Giống như ngôn ngữ, nó là một sự tương tác phức tạp giữa các văn bản và người đọc được định hình bởi kiến thức của người đọc, kinh nghiệm, thái độ, cộng đồng ngôn ngữ, phụ thuộc vào văn hóa và xã hội cụ thể. Đọc suy luận là khả năng xử lý văn bản, hiểu ý nghĩa của nó và tích hợp với những gì người đọc đã biết.Trong quá trình học văn, người học phải tự mình đọc văn bản, tự mình cảm nhận được những giá trị thẩm mĩ được nhà văn chắt lọc, gửi gắm qua câu chuyện, qua cuộc đời và số phận nhân vật từ đó nắm bắt được mạch ngầm cảm xúc, tư tưởng. Có nhiều cách đọc hiểu văn bản, đại thể gồm bốn bước đọc hiểu theo trình tự như sau: Đọc - hiểu ngôn từ là khả năng đọc và hiểu được từ ngữ trong tính đa nghĩa, giàu giá trị biểu đạt, các phương tiện nghệ thuật, … Khi đọc văn bản cần hiểu được cách diễn đạt, nắm bắt dụng ý của nhà văn trong xây dựng kết cấu truyện, tình huống truyện, lời trần thuật, ngôn ngữ độc thoại, ngôn ngữ đối thoại. Sau đó mới đến đọc - hiểu và suy luận về hình tượng nghệ thuật: mỗi hình tượng nhân vật (có thể là con người, cũng có thể con vật hoặc đồ vật đã được nhân cách hóa) không thể hiểu một cách đơn nghĩa bởi đặc trưng nổi bật của ngôn ngữ nghệ thuật là hàm súc, đa nghĩa, giàu hình tượng. Do đó, người đọc cần nhìn ra những kí thác của nhà văn qua hình tượng nhân vật. Khi người đọc không có khả năng suy luận thì mọi giá trị của tác phẩm sẽ “chết” trên trang sách của nhà văn. Khi đọc suy luận để nắm bắt hình tượng nghệ thuật, người đọc sẽ nhận ra những tư tưởng, thông điệp, những phát biểu của nhà văn, dù ngôn từ không trực tiếp giãi bày thì người đọc vẫn nhận ra trạng thái tình cảm, cảm xúc mãnh liệt ở tác giả qua văn bản. Câu nói cuối đời của nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân) - Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên hoài bão của một đời con người? Trong giây phút cuối đời của một người nghệ sĩ tài hoa, Huấn Cao nói lời cuối cùng với người “bạn chữ” là một lời cất ra từ cái tâm trong sáng, thiên lương cao đẹp: chỗ này – nơi ngự trị của cái ác, của tàn bạo cho nên nó không thể nào chung chạ cùng những gì cao đẹp, tinh khiết “một bức lụa trắng trẻo” khi bức lụa ấy lại không đơn thuần là một tác phẩm nghệ thuật mà là sự hội tụ kết tinh của cái tài - cái tâm – cái khí phách của một người nghệ sĩ. Suy luận sâu sắc vấn đề GV có thể dẫn dắt HS đến nhận định về quan điểm thẩm mĩ của nhà văn Nguyễn Tuân: Trong hoàn cảnh tăm tối cái thiện, cái đẹp vẫn có thể nảy mần nhưng cái đẹp, cái thiện không thể chung sống cùng cái ác, cái xấu. GV trong quá trình hướng dẫn HS tìm ra những lớp ý nghĩa sau tầng ngôn từ của văn bản, có thể đặt ra những vấn đề về thực tiễn cuộc sống cho HS tiếp tục suy 17
  18. luận và tìm hiểu: trong cuộc sống hiện đại của chúng ta có hay không bi kịch của Quản ngục: Tâm hồn cao đẹp mà phải sống với hoàn cảnh tăm tối? Hay khi học văn bản “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” (Nguyễn Dữ) GV đặt ra câu hỏi tạo môi trường giao tiếp cho HS: Kiểu nhân vật Ngô Tử Văn chúng ta có bắt gặp đời sống hiện đại ngày nay, hãy thử tìm một vài điển hình? 2.1.3. Năng lực giao tiếp trong quá trình đọc suy luận 2.1.3.1. Cách thức đọc suy luận Trong quá trình đọc – hiểu tác phẩm văn học, giáo viên phải luôn luôn định hướng cho học sinh cách đối thoại với văn bản từ bối cảnh xác định của người học. Điều này có nghĩa là, người học phải đọc hiểu tác phẩm trong quá trình vận dụng, liên hệ và mở rộng nhận thức của mình về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, ý đồ sáng tạo của nhà văn, nội dung, tư tưởng và cảm hứng cũng như những mục đích, yêu cầu, cảm xúc cụ thể của quá trình sáng tạo trong mối quan hệ với năng lực của người học. Có thể nói quá trình đọc hiểu tác phẩm văn học là một quá trình đối thoại, đối thoại với tác giả, với cách hiểu của người đọc trước, với những cách cảm, cách hiểu, cách lí giải, thẩm bình về tác phẩm của chính những người học – HS đặt trong lớp học cụ thể, giờ học cụ thể về tác phẩm văn học cụ thể. Người học ở đây là một lớp độc giả đặc biệt – người đọc có một môi trường đọc – hiểu cụ thể, xác định và mang tính định hướng sâu sắc. Đó là đọc hiểu tác phẩm văn xuôi hiện đại giai đoạn 1930 -1940 trong các giờ học Ngữ văn ở trường THPT. Dạy học đọc – hiểu văn bản văn xuôi trong nhà trường theo hướng lấy HS làm trung tâm của lí thuyết tiếp nhận vừa kết hợp nguyên lí lấy học sinh làm trung tâm của hoạt động dạy – học. Khi dạy học đọc hiểu theo hướng phát triển năng lực sẽ tạo ra quá trình đối thoại giữa người học với tác phẩm hay với tác giả. Bởi vì việc đọc – hiểu là một quá trình cảm thụ và tư duy về tác phẩm mang tính cá thể hóa cao độ, gắn với cảm xúc, trình độ, năng lực, trí tuệ của người học (gắn với năng lực cá nhân). Vì thế, đọc suy luận là một quá trình tìm hiểu ý nghĩa của tác phẩm cũng như quá trình tương tác nhiều chiều. Khi hướng dẫn HS đánh giá văn bản, GV cần hiểu được tâm lí HS, cần có định hướng cụ thể, càng khuyến khích được sự chủ động bày tỏ chủ kiến, cảm xúc của người học thì việc khai mở giá trị tác phẩm càng sâu sắc và phong phú, điều này đòi hỏi GV có nhiều kinh nghiệm và sự đầu tư trong hướng dẫn đọc hiểu các tài liệu thế bản, để làm nền cho việc đánh giá, khảo sát giá trị văn bản có điểm tựa và chiều sâu hơn. Theo nhà lí luận văn học Bakhtin thì tác phẩm là một phát ngôn mang “nhiều tiếng nói” có quan hệ với tác giả với hiện thực và với người đọc. Người đọc giữ một vai trò quan trọng trong việc tham dự vào việc khai thác, khám phá vẻ đẹp của tác phẩm. Vì thế, để HS có được năng lực tìm hiểu và trình bày (Viết hoặc nói) về tác phẩm, GV cần có năng lực chỉ dẫn khéo léo để HS tự mình nhìn ra giá trị to lớn của tác phẩm bằng khả năng phân tích, lí giải, giao tiếp của bản thân. 2.1.3.2. Hướng dẫn học sinh đọc suy luận 18
  19. GV hướng dẫn HS sử dụng biện pháp đọc suy luận để lí giải, trao đổi, đàm thoạinhững vấn đề của văn bản. Trong văn bản “Chữ người tử tù ” của Nguyễn Tuân GV nêu vấn đề: Trong đoạn đầu truyện ngắn “Chữ người tử tù”, khi Quản ngục lễ phép hỏi Huấn Cao “Vậy ngài có cần gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất” thì nhận được thái độ khinh khi, cự tuyệt của Huấn Cao? Nhưng khi thầy Thơ lại gõ cửa phòng giam Huấn Cao kể rõ “nỗi lòng quản ngục” thì Huấn Cao không những không xua đuổi, khinh miệt mà còn“lặng nghĩ một lát” rồi giãi bày “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Vậy, các em thử suy luận, lí giải và trình bày: - Tại sao Huấn Cao lại có sự thay đổi trong thái độ đối với Quản ngục? - Sự thay đổi thái độ, cách ứng xử với Quản ngục, thầy Thơ lại cho ta hiểu gì về con người Huấn Cao? - Vì sao Huấn Cao quyết định cho chữ, với Huấn Cao trước giờ chỉ cho những người bạn tri kỉ, cũng không vì quyền thế hay tiền bạc mà ép mình cho chữ? Vậy với Huấn Cao, Quản ngục là gì? - Theo anh/ chị, nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở sự việc cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với thầy Thơ lại thì đã phù hợp chưa? Nếu không có “Cảnh cho chữ” thì tác phẩm sẽ như thế nào? - Nguyễn Tuân muốn khẳng định quan điểm thẩm mĩ nào qua sự chuyển biến trong thái độ và hành động của Huấn Cao với Quản ngục? Để giải quyết vấn đề nêu trên, các em ghi vắn tắt cách lí giải vào sơ đồ, sau đó trình bày những suy luận mà bản thân phát hiện. 2.1.3.3. Năng lực giao tiếp được thể hiện sau quá trình vận dụng biện pháp đọc suy luận Trước vấn đề GV đặt ra, HS suy luận về sự thay đổi thái độ, lời nói và hành động của nhân vật Huấn Cao, cùng những gợi ý dẫn dắt, HS cần phải suy xét xem nên suy luận thế nào cho hợp lí, căn cứ vào đâu mà ta đưa ra nhận xét như thế. HS cũng có thể phản biện lại quan điểm của HS khác, đưa ra những kiến giải cho riêng mình, lí giải được vì sao tác giả/ nhân vật có sự lựa chọn đặc biệt như vậy? HS tranh luận lại và chứng minh để đưa ra thông tin đúng, thông qua cách lập luận của riêng mình. Vì thế, năng lực giao tiếp được hình thành và thể hiện rõ trong hoạt động vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ xử lí tình huống học tập trên. Như vậy khi đứng trước một vấn đề có ý nghĩa của tác phẩm về mặt nghệ thuật hay nội dung, GV cần tạo nên một hệ thống câu hỏi nhằm dẫn dắt HS bước vào quá trình tìm hiểu, lí giải, suy luận. Quá trình suy luận sẽ giúp HS thu nhận được kiến thức, kĩ năng và các năng lực. Các câu hỏi có thể sử dụng như sau: + Vì sao tác giả/ nhân vật lại lựa chọn như thế này? ta có thể thay thế hoạc xáo đổi vị trí của (lời nói/ chi tiết/ hình ảnh...) không? vì sao? 19
  20. + Vì sao nhà văn Nguyễn Tuân khắc họa vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của nhân vật Huấn Cao vừa gián tiếp (quan đánh giá của Quản ngục, thầy Thơ lại) trực tiếp (qua cảnh cho chữ). Nếu lược bỏ đi sự thể hiện tài năng trực tiếp ở cảnh cho chữ thì giá trị của tác phẩm có thay đổi không? + Vì sao Nguyễn Tuân sắp xếp tình tiết sự việc: Cho chữ- lời khuyên? Nếu Huấn Cao đưa ra lời khuyên trước khi cho chữ có phù hợp không?vì sao? Phân tích để làm rõ sự giống và khác nhau giữa các tác phẩm văn xuôi sau khi đã học xong văn bản, sự so sánh có thể triển khai ở nhiều phương diện: Xây dựng cốt truyện/ xây dựng nhân vật/ lời trần thuật/ không gian, thời gian nghệ thuật ... + Anh/ chị có thể nhận ra sự khác biệt trong nghệ thuật miêu tả nhân vật ở các tác phẩm văn xuôi: Thần thoại (Truyện về các vị thần sáng tạo thế giới) truyền kì(Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên) và truyện ngắn (Chữ người tử tù)? + Từ đó nhận xét về sự thay đổi của tác phẩm văn xuôi qua các thời kì? GV khuyến khích HS vừa đọc vừa lí giải, suy luận vừa ghi chép lại những suy nghĩ của mình, đây là cách để HS thâm nhập vào văn bản sâu hơn, luôn đặt ra những câu hỏi, biết soi chiếu vấn đề ở nhiều góc cạnh, ở nhiều điểm nhìn, trong sự so sánh với tác giả, tác phẩm khác.Quá trình tranh biện không những giúp HS có được sự tự tin trong giao tiếp mà rèn luyện cho HS kĩ năng nói, kĩ năng trình bày vấn đề, rèn luyện ngôn ngữ...Khơi tạo con đường đi đến một thói quen trong học tập: không ngừng giao tiếp để tìm ra những giá trị thực của tác phẩm. 2.2. Biện pháp giao tiếp bằng hoạt động tranh biện 2.2.1. Biện pháp tranh biện trong dạy – học Ngữ văn Tranh biện là một trong những biện pháp dạy học hữu ích giúp HS giải quyết những vấn đề mà bản thân còn đang cảm thấy mâu thuẫn, xung đột…, từ đó giúp các em nâng cao và mở rộng kiến thức, tôn trọng khách quan, đồng thời phát triển nhiều năng lực quan trọng, trong đó bặc biệt có năng lực giao tiếp. Theo từ điển Hán Việt từ nguyên của Bửu Kế đã định nghĩa “tranh” là “giành”; “biện” là “cãi lẽ”; “tranh biện” là “cãi lẽ để giành lẽ phải về phần mình”; “Tranh biện” đồng nghĩa với “Tranh luận”.Theo cách hiểu của chúng tôi, biện pháp tranh biện là cách thức tổ chức cho hoạt động thảo luận, phản biện được diễn ra theo một trình tự nhất định, có phương pháp, có những hoạt động phù hợp với vấn đề được đưa ra tranh biện, giúp chủ thể trong quá trình tổ chức tranh biện sắp xếp được thời gian, địa điểm và dự kiến được những diễn biến trong quá trình tranh biện, từ đó đem đến kết quả cao trong quá trình diễn ra hoạt động tranh biện. Như vậy, tranh biện là là một biện pháp thể hiện sự đối thoại trong tư duy giữa các chủ thể, bằng cách sử dụng ngôn ngữ và các yếu tố biểu đạt phi ngôn ngữ (bảng ,biểu, sơ đồ, mô hình...) bổ trợ để thể hiện quan điểm, chứng minh ý kiến của mình là đúng, bác bỏ quan điểm phiến diện bằng hệ thống các lập luận logic. Đó là cách giải quyết những xung đột, mâu thuẫn giữa các quan điểm khác nhau nhằm thuyết phục chính bản 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2