intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh (Bài 3, bài 6 trong Chương trình Ngữ Văn 10 THPT, Sách Kết nối tri thức với cuộc sống)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

18
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến nhằm nghiên cứu cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài: vấn đề phát triển năng lực học sinh, tính cấp thiết của việc đổi mới phương pháp, vai trò của các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực, yêu cầu của hoạt động nói nghe; Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu; Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh (Bài 3, bài 6 trong Chương trình Ngữ Văn 10 THPT, Sách Kết nối tri thức với cuộc sống)

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI VẬN DỤNG MỘT SỐ HÌNH THỨC, KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO DẠY HỌC PHẦN NÓI VÀ NGHE – THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH (BÀI 3, BÀI 6 TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10, THPT, SÁCH KẾT NỐI TRI THỨC VỚI CUỘC SỐNG) LĨNH VỰC: NGỮ VĂN Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương ĐT: 0987.589.557 Thái Văn Phú ĐT: 0963.730.739 Lê Thị Thanh Hòa ĐT: 0919.565.893 Tổ: Ngữ Văn Năm học: 2022 - 2023 1
  2. BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT Giáo viên GV Học sinh HS Nhà xuất bản Nxb Sách giáo khoa SGK Sách giáo viên SGV Trung học phổ thông THPT Thực nghiệm TN Đối chứng ĐC Thực nghiệm sư phạm TNSP Phương pháp giảng dạy PPGD Kế hoạch bài dạy KHBD Phiếu học tập PHT 2
  3. MỤC LỤC Mục Nội dung Trang ĐẶT VẤN ĐỀ 1 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tài liệu khảo sát 4 4 Nhiệm vụ nghiên cứu 5 5 Phương pháp nghiên cứu 5 6 Đóng góp của sáng kiến kinh nghiệm 5 7 Cấu trúc sáng kiến kinh nghiệm 5 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 7 Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên 7 cứu 1.1 Cơ sở lý luận 7 1.1.1 Một số vấn đề về năng lực và phát triển năng lực 7 1.1.1 Một số vấn đề về năng lực và phát triển năng lực 1.1.2 Dạy học theo đặc trưng thể loại 9 1.1.3 Về bài Sức hấp dẫn của truyện kể 9 1.1.4 Yêu cần cần đạt của phần đọc hiểu văn bản văn học trong 10 Chương trình môn Ngữ Văn lớp 10 của Chương trình GDPT 2018 1.1.5 Sử dụng các chiến lược đọc hiểu văn bản 12 1.1.6 Chiến lược đọc Siêu sáu 16 1.2 Cơ sở thực tiễn 16 3
  4. Chương 2 - Vận dụng chiến lược đọc “Siêu sáu” để dạy đọc 21 các văn bản truyện trong bài Sức hấp dẫn của truyện kể nhằm phát triển năng lực học sinh 2.1 Tạo sự kết nối 21 2.2 Dự đoán 28 2.3 Đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi 30 2.4 Giám sát 37 2.5 Hình dung 38 2.6 Tóm tắt 40 Chương 3 – Thực nghiệm sư phạm 3.1 Thực nghiệm sư phạm 44 3.1.1. Mục đích và yêu cầu thực nghiệm 3.1.2 Nội dung thực nghiệm 44 3.1.3 Tiến trình thực nghiêm 45 3.1.4 Đánh giá kết quả thực nghiệm 46 3.2 Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi 49 3.2.1 Mục đích khảo sát 49 3.2.2 Đối tượng khảo sát 49 3.2.3 Nội dung và phương pháp khảo sát 50 3.2.4 Thời gian khảo sát 50 3.2.5 Kết quả khảo sát 50 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 55 1 Kết luận 55 2 Đóng góp của đề tài 56 3 Ý nghĩa của đề tài 57 4
  5. 4 Phạm vi áp dụng 57 5 Kiến nghị 58 Tài liệu tham khảo 58 Phụ lục 59 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Nghị quyết 29 ngày 4/11/2013 của BCH Trung ương Đảng (khóa XI) đã xác định rõ mục tiêu của giáo dục phổ thông: “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”. Trong xu thế đổi mới căn bản, toàn diện của giáo dục phổ thông, Ngữ văn là môn học có tính đặc thù và có ưu thế trong việc phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. 1.2. Chương trình GDPT 2018 đối với lớp 10 đã chính thức được thực hiện từ năm học 2022 – 2023. Chương trình GDPT nói chung mà môn Ngữ văn nói riêng đều hướng đến mục tiêu là bồi dưỡng phẩm chất và phát triển năng lực của học sinh. Thông qua các hoạt động được tổ chức trong mỗi bài học trong môn Ngữ văn, học sinh được phát triển năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học và các năng lực chung khác như năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; cùng với đó những phẩm chất quan trọng của học sinh cũng được bồi dưỡng thêm. Bên cạnh các hoạt động của một bài dạy Ngữ văn là đọc – viết thì nói – nghe đóng một vai trò rất quan trọng vào việc phát triển năng lực và bồi dưỡng phẩm chất cho học sinh THPT. 1.3. Hoạt động nói – nghe tập trung vào việc thuyết trình, thảo luận, lắng nghe và phản hồi về một nội dung xác định dựa trên kết quả bài viết, nội dung bài đọc hoặc những vấn đề khác. SGK Ngữ văn 10 đã thiết kế các hoạt động nói và nghe theo một quy trình rất chặt chẽ. Sách yêu cầu học sinh phải xác định mục đích nói – nghe, tuân thủ các bước như chuẩn bị, thực hành nói – nghe, đánh giá phản hồi. Việc được luyện tập từ ghế nhà trường ở hoạt động nói nghe sẽ giúp học sinh tự tin, chủ động trình bày suy nghĩ của mình; giúp các em biết lắng nghe, biết phán đoán và có những phản ứng nhanh nhạy trước ý kiến của người khác, trước những vấn đề khác của cuộc sống sau 5
  6. này. Khi GV hướng dẫn tốt HS thực hiện hoạt động nói nghe, GV phải vận dụng được nhiều hình thức tổ chức cũng như phải thành thạo các kĩ thuật dạy học hiện đại. 1.4. Những vấn đề của xã hội thì rất đa dạng, từ những vấn đề về tư tưởng đạo lí đến những hiện tượng đời sống. Những vấn đề này học sinh phải thường xuyên được tiếp cận bởi nó tác động đến nhận thức, hành vi, tâm lí cũng như việc hình thành nhân cách của các em học sinh. Khi học sinh có những suy nghĩ, nhận diện đúng về các vấn đề của đời sống xã hội, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp tới các em thì chính các em sẽ có thái độ tích cực hơn với bản thân, người khác; có các hành vi xã hội tích cực hơn và các mối quan hệ với bạn bè và người lớn sẽ tốt hơn; giảm các vấn đề hành vi và hành vi nguy cơ; giảm căng thẳng tinh thần… Về lâu dài, khi các em vừa có tri thức sách vở vừa có tri thức về đời sống sẽ giúp các em thành công trong sự nghiệp, có những mối quan hệ tích cực trong gia đình và công việc, sức khỏe tinh thần tốt hơn, giảm thiểu hành vi tội phạm. 1.5. Đứng trước một vấn đề, nhất là các vấn đề xã hội, sẽ nảy sinh nhiều quan điểm, nhiều góc nhìn khác nhau. Những quan điểm đó phản ánh nhân sinh quan, trí tuệ, nhân cách của người nói. Việc tôn trọng góc nhìn của người khác là vô cùng quan trọng. Bởi thế, phải làm thế nào để có thể tranh luận, trao đổi một cách văn minh, lịch sự mà vẫn thể hiện được góc nhìn riêng, quan điểm riêng của mình không phải là điều dễ dàng đối với học sinh. Khi bị tâm lí lứa tuổi, khi bị nhận thức chưa đầy đủ chi phối khiến cho các cuộc thảo luận trở nên căng thẳng, nhiều học sinh đã bị tổn thương trong những lần như thế. Bởi vậy, việc giúp cho học sinh có được một góc nhìn khác nhau, có được một kĩ năng tranh luận phù hợp là một yêu cầu rất quan trọng đối với nội dung phần nói và nghe ở bài 3, bài 6: thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau. 1.6. Trước những vấn đề đó, việc tổ chức cho học sinh trao đổi trong một giờ dạy đòi hỏi người giáo viên phải thực sự bản lĩnh, phải vận dụng nhiều hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực, phải là người trọng tài vững vàng cho các cuộc tranh luận, từ đó hướng học sinh đến một cái nhìn đúng đắn về các vấn đề. Làm được điều đó thì giờ học nói – nghe sẽ trở nên hấp dẫn, hữu ích với học sinh. Quan trọng là hình thành cho học sinh kĩ năng nói, kĩ năng nghe, giúp học sinh tích lũy được nhiều kinh nghiệm, kĩ năng khi rời ghế nhà trường. Xuất phát từ những thực tế đó, chúng tôi lựa chọn đề tài “Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh (Bài 3, bài 6 trong Chương trình Ngữ Văn 10 THPT, Sách Kết nối tri thức với cuộc sống). Với đề tài này, chúng tôi đề xuất một số hình thức, kĩ thuật để dạy học phần nói – nghe ở bài 3 và bài 6 một cách hiệu quả. Không chỉ làm cho học sinh có hứng thú, có động lực với hoạt động nói - nghe mà quan trọng hơn là học sinh có được nhận thức đúng đắn, sâu sắc về các vấn đề xã hội; hình thành góc nhìn đa chiều, tôn trọng các góc nhìn đa 6
  7. chiều về các vấn đề của đời sống. Hơn nữa, còn là việc hình thành cho học sinh kĩ năng nói – nghe ở bất cứ tình huống nào, môi trường nào. Đó cũng chính là mục tiêu của Chương trình GDPT 2018. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Đã có một số đề tài nghiên cứu về các phương pháp dạy học tích cực, dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh của học sinh ở Việt Nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu này vẫn còn mang tính lẻ tẻ, thiếu tính hệ thống. Mỗi đề tài mới chỉ dừng ở việc chú ý đến một năng lực cụ thể thông qua dạy học hoặc sử dụng nội dung ở một phần cụ thể. Còn nghiên cứu về vấn đề dạy Nói – nghe đang thực sự thiếu. Thực ra trong những Chương trình Ngữ Văn trước, hoạt động nói – nghe cũng đã được quan tâm. Tuy nhiên, đó là chỉ là hoạt động có tính chất lòng ghép trong khi dạy các phân môn Đọc hiểu, tiếng Việt và làm văn. Còn dạy học nội dung Nói – nghe với tư cách là một hoạt động độc lập trong cấu trúc của bài học thì Chương trình GDPT 2018 mới chính thức xây dựng. Thế nên vấn đề này chưa được nghiên cứu và đề cập nhiều. Trong Chương trình GDPT môn Ngữ Văn 2018 được ban hành kèm theo kèm theo thông tư số 32/2018/TT- BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chi tiết hóa về yêu cầu cần đạt của năng lực ngôn ngữ đối với cấp THPT: “Biết tranh luận về những vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược nhau; có thái độ cầu thị và văn hoá tranh luận phù hợp; có khả năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung và hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận; trình bày vấn đề khoa học một cách tự tin, có sức thuyết phục. Nói và nghe linh hoạt; nắm được phương pháp, quy trình tiến hành một cuộc tranh luận”. Trong yêu cầu cần đạt về phần Nói – nghe của lớp 10 cung ghi rất rõ các nội dung cụ thể. Trong cuốn “Tài liệu bồi dưỡng giáo viên sử dụng SGK Ngữ văn 10” với bộ sách Kết nối tri thức và cuộc sống của nhóm tác giả Phan Huy Dũng, Bùi Mạnh Hùng và Nguyễn Thị Ngọc Minh viết, các tác giả có đề cập đến một số nguyên tắc khi tổ chức dạy học hoạt động Nói – nghe. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những hướng dẫn ban đầu, chưa có những định hướng về hình thức, kĩ thuật dạy học. Trong bài viết “Dạy nói và nghe” đăng trên báo điện tử: https://www.giaoduc.edu.vn, ngày 11/4/2023, PGS.TS Đỗ Ngọc Thống cũng đã chia sẻ tiến trình triển khai giờ dạy nói - nghe với những hoạt động cụ thể và những yêu cầu đặt ra cho nội dung dạy học này. Tuy vậy, qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng: Những bộ tài liệu, những văn bản hướng dẫn chỉ là những căn cứ, những công cụ có tính chất nền tảng 7
  8. còn việc việc thực hiện hiệu quả đến đâu là phụ thuộc vào nhân tố con người, vào thực tế của từng cơ sở giáo dục, vào những điều kiện chủ quan và khách quan khác. Chính vì vậy, khi lựa chọn nghiên cứu đề tài chúng tôi mong muốn góp một kinh nghiệm nhỏ trong việc vận dụng các kĩ thuật dạy học vào việc dạy Nói – nghe nhằm đạt được một kết quả tốt nhất, phát huy được năng lực và phẩm chất của học sinh. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng môn Ngữ văn ở trường phổ thông nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung, đáp ứng yêu cầu cần đạt của Chương trình GDPT 2018. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tài liệu khảo sát 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh (Bài 3, bài 6 trong Chương trình Ngữ Văn 10 THPT, Sách Kết nối tri thức với cuộc sống). 3.2. Phạm vi tài liệu khảo sát: Phần nói và nghe - Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bài 3, bài 6 trong Chương trình Ngữ Văn 10 THPT, sách Kết nối tri thức với cuộc sống). 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài: vấn đề phát triển năng lực học sinh, tính cấp thiết của việc đổi mới phương pháp, vai trò của các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực, yêu cầu của hoạt động nói nghe. - Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu - Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau. - Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá tính phù hợp và hiệu quả các đề xuất. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi đã phối hợp 2 nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tiễn. Bao gồm: phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phân loại và tổng hợp lý thuyết, phương pháp quan sát và điều tra, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp thực nghiệm. 6. Đóng góp của SKKN - Về mặt lí luận, góp phần làm rõ khái niệm phát triển năng lực của học sinh, yêu cầu của quá trình dạy nói – nghe trong môn Ngữ văn, các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực có thể áp dụng vào trong quá trình dạy nói – nghe để phát triển được năng lực học sinh cũng như những yêu cầu cơ bản của việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông. 8
  9. - Về mặt thực tiễn, đề tài bước đầu đề xuất một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực để dạy phần nói nghe – thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh, nâng cao hiệu quả của giờ dạy; góp phần đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp dạy học môn Ngữ văn. Đây cũng là những thay đổi cần thiết để thực hiện chương trình Giáo dục phổ thông 2018 một cách hiệu quả. 7. Cấu trúc SKKN Ngoài phần Mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của sáng kiến được triển khai trong 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu Chương 2: Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh Chương 3: Thực nghiệm sư phạm PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Một số vấn đề về năng lực và phát triển năng lực * Khái niệm năng lực: Năng lực là “Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”. (Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng, 1998). Các nhà giáo dục học cũng nêu ra nhiều định nghĩa khác nhau về năng lực: - Theo Tổ chức OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế Thế giới) quan niệm: Năng lực là “khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể”. Định nghĩa này nêu được đặc trưng quan trọng nhất để nhận diện năng lực là “hiệu quả”, nhưng chưa làm rõ được cấu trúc và “địa chỉ” tồn tại của năng lực. - Theo F. E. Weinert, năng lực là “tổng hợp các khả năng và kĩ năng sẵn có hoặc học được cũng như sự sẵn sàng của học sinh nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh và hành động một cách có trách nhiệm, có sự phê phán để đi đến giải pháp.” Định nghĩa này cũng nói tới sự đóng góp của những yếu tố “sẵn có” ở mỗi cá nhân vào việc phát triển năng lực của bản thân. 9
  10. - Theo Denyse Tremblay, năng lực là “khả năng hành động, thành công và tiến bộ dựa vào việc huy động và sử dụng hiệu quả tổng hợp các nguồn lực để đối mặt với các tình huống trong cuộc sống.” Dựa vào các kết quả nghiên cứu nói trên, Chương trình giáo dục phổ thông 2018 giải thích khái niệm năng lực như sau: năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện cho phép con người huy động tổng hợp các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí… thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể. * Đặc điểm của năng lực: Từ nội hàm của khái niệm đó, có thể chỉ ra những đặc điểm của năng lực là: Năng lực là sự kết hợp giữa tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện của người học; năng lực là kết quả huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí… năng lực được hình thành, phát triển thông qua hoạt động và thể hiện ở sự thành công trong hoạt động thực tiễn. * Những năng lực cần thiết phải hình thành cho học sinh THPT: Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 xác định hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực cốt lõi sau: - Những năng lực chung được hình thành, phát triển thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; - Những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất. Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực cốt lõi, chương trình giáo dục phổ thông còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu của học sinh. * Năng lực môn Ngữ văn: Ngữ văn là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn; giúp HS có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; giúp HS khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế. Với tư cách là một môn học công cụ và do đặc trưng của mình, môn Ngữ Văn có điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển một số năng lực chung như năng lực giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực thẩm mĩ và một số năng lực đặc thù. 10
  11. Dạy môn Ngữ Văn cấp THPT phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau về năng lực trong môn Ngữ văn: - Năng lực ngôn ngữ: + Biết vận dụng kiến thức tiếng Việt và kiến thức về bối cảnh lịch sử, xã hội, tư tưởng, triết học và quan niệm thẩm mĩ của các thời kì để hiểu các văn bản khó hơn. + Biết phân tích, đánh giá nội dung và đặc điểm nổi bật về hình thức biểu đạt của văn bản, nhất là những tìm tòi sáng tạo về ngôn ngữ, cách viết và kiểu văn bản. + Viết được văn bản nghị luận và văn bản thông tin có đề tài tương đối phức tạp. + Biết tranh luận về những vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược nhau; có thái độ cầu thị và văn hoá tranh luận phù hợp; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung và hình thức của bài thuyết trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận… - Năng lực văn học: + Phân tích và đánh giá văn bản văn học dựa trên những hiểu biết về phong cách nghệ thuật và lịch sử văn học. Nhận biết được đặc trưng của hình tượng văn học; phân tích và đánh giá được nội dung tư tưởng và cách thể hiện nội dung tư tưởng trong một văn bản văn học… + Nêu được những nét tổng quát về lịch sử văn họsc dân tộc và vận dụng vào việc đọc tác phẩm văn học. + Tạo lập được một số kiểu văn bản văn học thể hiện khả năng biểu đạt cảm xúc và ý tưởng bằng hình thức ngôn từ mang tính thẩm mĩ. 1.1.2. Vai trò của các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực Các phương pháp, kỹ thuật dạy học hiện đại hay còn cách gọi khác hơn là các phương pháp dạy học tích cực đã trở thành một cách thức không thể thiếu trong quá trình dạy học hiện nay. Việc áp dụng các phương pháp này để tổ chức các hoạt động học tập đã đem lại những hiệu quả thiết thực đối với cả người dạy, người học. Lợi ích đối với người dạy: Khi áp dụng các PPDH tích cực, giờ giảng của mỗi giáo viên trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. Người học là trung tâm nhưng vai trò, uy tín của người thầy được đề cao hơn bởi học sinh sẽ nhận thấy rõ năng lực, tâm huyết, trách nhiệm của người giáo viên thể hiện qua mỗi tiết dạy. Đồng thời, muốn tổ chức được giờ dạy theo hướng phát triển năng lực đòi hỏi người thầy phải dày công tìm tòi, 11
  12. suy ngẫm, học hỏi để có thể áp dụng những điều tốt nhất nhằm hướng dẫn cho học trò chiếm lĩnh tri thức, chính vì thế mà HS sẽ tôn trọng GV hơn. Hơn nữa, dạy học theo quá trình tương tác sẽ nảy sinh rất nhiều tình huống mới. Chính điều đó sẽ góp phần rèn giũa thêm bản lĩnh của người GV. Lợi ích đối với người học: Dưới sự tổ chức và điều khiển của giáo viên, HS sẽ được chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm của mình đồng thời với việc bổ sung những kiến thức, kinh nghiệm không chỉ từ người thầy mà còn từ chính các bạn trong lớp. HS sẽ thực sự được học, được sáng tạo, được khám phá tiềm năng, được thể hiện, được làm. Nhờ học theo hướng tích cực mà HS ghi nhớ sâu kiến thức sâu hơn, quan trọng hơn là tăng khả năng áp dụng vào thực tiễn cuộc sống một cách chủ động. Cũng nhờ đó người học có được sự tự tin, có trách nhiệm với bản thân để từ đó chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS phải dần có được những phẩm chất và năng lực thích nghi với PPDH tích cực như: giác ngộ mục tiêu học tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách nhiệm về việc học và hình thành phương pháp tự học. Mối quan hệ giữa người dạy và người học: Nếu với cách dạy học truyền thống, nghiêng về đọc - chép, GV là người rót kiến thức vào đầu HS và người dạy đóng vai trò trung tâm, quyền “phán xử” thuộc về người thầy hoàn toàn. Tuy nhiên, khi áp dụng PPDH chủ động, người học giữ vai trò trung tâm, người thầy chỉ đóng vai trò hướng dẫn, giúp đỡ. Người học chủ động tìm kiếm tri thức và có thể thu nhận kiến thức không chỉ từ thầy mà còn từ rất nhiều nguồn khác nhau. Và do đó, sự tương tác giữa thầy – trò trở nên cởi mở hơn, HS chủ động, tích cực, sáng tạo hơn, tư duy duy độc lập, tư duy phản biện của học sinh được phát triển. Cũng nhờ đó năng lực, bản lĩnh của người GV được thể hiện, tôi rèn. 1.1.3. Cấu trúc của bài dạy Ngữ văn trong Chương trình GDPT 2018 Trong Chương trình Ngữ văn 10, các bài học đều có cấu trúc thống nhất. Trong mỗi bài, các hoạt động đọc, viết, nói – nghe được thiết kế liền mạch và có kết nối với nhau chặt chẽ. Từ việc đọc hiểu theo đặc trưng thể loại văn bản, HS sẽ thực hiện hoạt động viết theo các kiểu bài có mối liên hệ nhất định với thể loại văn bản được học. Hoạt động nói và nghe được tổ chức trên cơ sở của hoạt động đọc hoặc viết. Như vậy, SGK Ngữ văn 10 được thiết kế theo hướng lấy hoạt động đọc làm cơ sở, cung cấp chất liệu, làm thành “đầu vào” cho các hoạt động viết, nói và nghe. Mạch nội dung chính của mỗi bài học được thiết kế dựa vào các hoạt động giao tiếp: đọc, viết, nói và nghe.; bám sát yêu cầu cần đạt theo quy định của Chương trình GDPT 2018 môn Ngữ văn: + Đọc: trung bình mỗi bài sẽ có 3 văn bản đọc hiểu, đáp ứng định hướng đọc hiểu theo thể loại, được thể hiện ở tên của bài học. Với mỗi văn bản, được thiết kế một 12
  13. hệ thống yêu cầu trước, trong và sau khi đọc. Sau mỗi văn bản có phần kết nối đọc – viết. + Thực hành tiếng Việt: được đặt sau văn bản cuối cùng của phần Đọc. Ngữ liệu để thực hành chủ yếu được lấy từ các văn bản đọc hiểu trong cùng bài học nhằm giúp HS vận dụng kiến thức về tiếng Việt để đọc hiểu văn bản. Mục đích cuối cùng là để HS viết, nói và nghe được tốt hơn. + Viết: Tìm hiểu yêu cầu của mỗi kiểu bài, phân tích bài viết tham khảo và thực hành viết theo các bước. + Nói và nghe: Thực hành để phát triển kĩ năng thuyết trình, thảo luận; chú ý tăng cường kì năng tương tác giữa người nói và người nghe. Cuối mỗi bài sẽ có các phần Củng cố, mở rộng và Thực hành đọc. Như vậy, có thể thấy các bài học trong SGK Ngữ văn 10 đều thể hiện sự đổi mới rõ nét trong thiết kế theo mô hình SGK phát triển phẩm chất và năng lực. 1.1.4. Yêu cầu cần đạt của phần Nói – nghe trong Chương trình Ngữ văn 10 THPT Từ mục tiêu và yêu cầu chung của bộ môn Ngữ văn, Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được ban hành kèm theo thông tư số 32/2018/TT- BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy định rất rõ về yêu cầu cần đạt của phần nói – nghe đối với học sinh lớp 10 THPT. Nội dung cụ thể như sau: * Nói: – Biết thuyết trình về một vấn đề xã hội có sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ với các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ. – Trình bày được báo cáo về một kết quả nghiên cứu hay hoạt động trải nghiệm. – Biết giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm văn học (theo lựa chọn cá nhân). * Nghe: – Nghe và nắm bắt được nội dung truyết trình, quan điểm của người nói. Biết nhận xét về nội dung và hình thức thuyết trình. *Nói nghe tương tác: – Biết thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau; đưa ra được những căn cứ thuyết phục để bảo vệ hay bác bỏ một ý kiến nào đó; tôn trọng người đối thoại. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Nội dung phần Nói – nghe trong Chương trình Ngữ văn 10 THPT 13
  14. SGK Ngữ văn 10 THPT nội dung phần nói - nghe được xây dựng như sau: - Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm truyện (Bài 1) - Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ (Bài 2) - Thảo luận về một vấn đề đời sống hay một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bài 3, Bài 6) - Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau (Bài 7) - Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề (Bài 4, Bài 5) - Thảo luận về văn bản nội quy hoặc văn bản hướng dẫn nơi công cộng (Bài 8) - Thuyết trình về một vấn đề xã hội có sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ (Bài 9) 1.2.2. Thực trạng của việc dạy Nói – nghe tại trường THPT Trong khuôn khổ của đề tài, để có những cơ sở cho việc triển khai các biện pháp, chúng tôi chỉ khảo sát thực trạng của việc dạy Nói – nghe và việc vận dụng các hình thức, kĩ thuật dạy nói nghe tại trường Phổ thông khi thực hiện chương trình lớp 10. Để từ đó chũng tôi có cơ sở triển khai các giải giáp khi dạy phần Nói – nghe ở bài số 3, Bài số 6 và những bài khác trong Chương trình. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 40 GV dạy môn Ngữ văn ở các trường THPT trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu và thị xã Hoàng Mai (Nội dung phiếu khảo sát được trình bày trong phụ lục 3) và 222 HS ở các lớp tôi và đồng nghiệp giảng dạy (Nội dung phiếu khảo sát được trình bày trong phụ lục 4). * Nội dung khảo sát - Tìm hiểu thực trạng dạy học theo định hướng năng lực của GV môn Ngữ văn. - Tìm hiểu việc xây dựng KHBD để hiểu rõ hơn cách tổ chức các hoạt động. - Tìm hiểu thực trạng của việc dạy, học phần Nói – nghe trong chương trình lớp 10 (tập trung vào việc nhận diện những khó khăn khi tổ chức dạy học và việc vận dụng các hình thức, ki thuật dạy học tích cực) - Tìm hiểu hứng thú và thái độ học tập của HS đối với các PPDH dạy phần nói – nghe của GV. Từ đó xác định những khó khăn của GV và HS gặp phải để bước đầu đề xuất việc sử dụng các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu quả phần nói – nghe nhằm phát triển năng lực HS một cách tốt nhất. * Phương pháp khảo sát 14
  15. Để thực hiện đề tài, bên cạnh việc dùng phiếu khảo sát, chúng tôi còn tiến hành nghiên KHBD, trao đổi trực tiếp với giáo viên; dự giờ dạy một số giáo viên trong trường. * Kết quả khảo sát - Đối với giáo viên: sau khảo sát 40 GV chúng tôi thu được các số liệu như sau: TT Nội dung khảo sát Số GV Tỷ lệ 1 Mức độ tiếp nhận lí luận về dạy học phát triển năng lực của thầy cô là: (Câu hỏi có thể đánh nhiều lựa chọn) - Đã từng nghe qua/ đọc qua 40/40 100% - Đã từng nghiên cứu/ đã từng được tập huấn 40/40 100% - Đã từng vận dụng trong dạy học môn mình phụ 34/40 85% trách - Đã vận dụng và có những thành công nhất định 20/40 50% 2 Mức độ quan tâm của thầy/ cô về việc dạy học phát triển năng lực trong trường THPT: - Rất quan tâm 30/40 75% - Quan tâm 9/40 23% - Bình thường 1/40 2% - Không quan tâm 0/40 0% 3 Thầy cô nghĩ gì về vai trò của các phương pháp dạy học tích cực trong quá trình dạy học hiện nay: - Quan trọng 40/40 100% - Không quan trọng 0/40 0% 4 Khả năng vận dụng các phương pháp dạy học tích cực của thầy/ cô là? 15
  16. - Có khả năng cao 8/40 20% - Có khả năng 13/40 32,5% - Bình thường 14/24 35% - Ít có khả năng 5/40 12,5% 5 Thầy/cô có gặp khó khăn khi tổ chức dạy học phần Nói – nghe trong Chương trình Ngữ Văn 10? - Có rất nhiều khó khăn 40/40 100% - Không gặp khó khăn 0/40 100% 6 Nếu gặp khó khăn trong quá trình dạy nói – nghe thì đó là những khó khăn nào? Thầy/ cô hãy vui lòng chia sẻ: - Chia sẻ các khó khăn 40/40 100% 7 Tần suất sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực của thầy cô khi dạy phần Nói- nghe trong Chương trình ngữ văn 10? - Thường xuyên 10/40 25% - Thỉnh thoảng 25/40 62,5% - Không sử dung 5/40 12,5% 8 Tần suất thầy/cô rèn luyện cho học sinh các kĩ năng thảo luận nhóm, thuyết trình, phản hồi, sử dụng CNTT, đánh giá và tự đánh giá… như thế nào? - Thường xuyên 15/40 37,5% - Thỉnh thoảng 23/40 57,5% - Không rèn luyện 2/40 5% 9 Theo thầy/cô, có cần thiết phải sử dụng các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực khi dạy phần Nói – nghe trong Bài 3, Bài 6 không? - Rất cần thiết 28/40 70% - Cần thiết 12/40 30% 16
  17. - Không cần thiết 0/40 0% 10 Thầy/ cô đã tổ chức hoạt động đánh giá Phần nói – nghe của HS ở Bài 1, Bài 2 trong Chương trình lớp 10 như thế nào? - Đánh giá theo cảm tính 5/40 12.5% - Đánh giá theo bảng kiểm 12/40 30% - Đánh giá qua quan sát 10/40 25% - Đánh giá qua bảng kiểm và quan sát 13/40 32,5% Cùng với quá trình trao đổi, dự giờ của các đồng nghiệp, cộng với kết quả thu được qua khảo sát nói trên, chúng tôi kết luận một số vấn đề như sau về tình hình dạy phần Nói – nghe trong Chương trình Ngữ văn 10 hiện nay như sau: - Phần lớn GV đều rất quan tâm dến dạy học theo định hướng phát triển năng lực và họ đều cho rằng áp dụng các PPDH tích cực là yêu cầu có tính chất bắt buộc (100% GV được hỏi đều thừa nhận vai trò của các PPDH tích cực). Các GV đã cố gắng tính tích cực hoá hoạt động của HS nhưng chủ yếu được thực hiện khi có hoạt động thao giảng, thi giáo viên giỏi. Tuy nhiên, việc thay đổi PPDH ở đây còn mang tính chắp vá, chưa có sự thay đổi về chất, các phương pháp sử dụng cũng chưa hẳn phù hợp, khiến cho hiệu quả không thực sự cao, HS không thực sự hứng thú. - Tần suất sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực của GV khi dạy phần Nói- nghe trong Chương trình ngữ văn còn khiêm tốn: thường xuyên (12%), thỉnh thoảng (62,5%). Một số GV còn chưa thực sự tự tin và vận dụng linh hoạt, hiệu quả các PPDH tích cực. Một số GV đã có nhiều cố gắng để tổ chức các hoạt động học tập nhằm phát huy được phẩm chất, năng lực HS. Như vậy, vận còn hiện tượng nhiều GV chưa thực sự đổi mới PPDH hoặc việc vận dụng phương pháp của bộ phận GV trong thực tiễn dạy học còn nhiều điểm chưa thực sự hợp lí. Tuy nhiên, đại đa số các GV đều ghi nhận sự cần thiết phải sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực trong phần dạy nói – nghe: rất cần thiết (70%), cần thiết (30%). - 100 GV khi chúng tôi trao đổi và qua phiếu khảo sát được hỏi đều trả lời rằng đang gặp rất nhiều khó khăn khi tổ chức dạy học phần Noi – nghe. Một số khó khăn đa được nêu ra như: + Bản thân GV mới bắt đầu thực hiện chương trình 2018 nên chưa hướng dẫn cho HS một cách hệ thống các kĩ năng cần thiết khi nói – nghe + Chưa biết cách, chưa tạo được cơ hội cho HS nói trọn vẹn, chưa có quá nhiều HS được nói 17
  18. + Bị sức ép về mặt thời gian – hoạt động nói nghe chỉ tiến hành trong 1 tiết học + Cách tổ chức các hình thức chưa phong phú, chưa đa dạng + Kĩ năng tổ chức giờ dạy của GV chưa thành thục + Bản thân GV đang chịu ảnh hưởng quá nhiều của cách dạy truyền thống + Cách tổ chức giờ dạy chưa bài bản, chưa sinh động, hấp dẫn. + GV chưa thực sự thành thạo CNTT, các kĩ thuật dạy học tích cực… + Việc chọn đề tài cho HS nói. + Việc đánh giá đầy đủ phần nói – nghe của HS còn gặp khó khăn * Đối với học sinh: Qua việc trao đổi, quan sát trực tiếp với HS, qua 8 câu hỏi nhiều lựa chọn, kết quả hỏi ý kiến 222 HS, cho thấy: TT Nội dung khảo sát Số HS Tỷ lệ 1 GV có sử dụng các phương pháp dạy học khác ngoài PP thuyết trình không? - Thường xuyên 40/222 18% - Thỉnh thoảng 110/222 49,5% - Rất ít khi 72/222 32,5% - Không bao giờ 0/222 0% 2 Các em có quan tâm đến việc giáo viên đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy không? - Mức độ rất cao 106/222 47,8% - Mức độ cao 96/222 43,2% - Mức độ thấp 20/222 9% - Không quan tâm 0/222 0% 3 Ở trường các em, khi GV sử dụng các phương pháp dạy học mới, các em cảm thấy? - Rất thích, hào hứng tham gia 101/222 45,5% 18
  19. - Thích 89/222 40,1% - Bình thường 17/222 7,6% - Căng thẳng, mệt mỏi, chán nản 15/222 6.76% 4 Em mong muốn một hình thức học tập môn Ngữ Văn như thế nào, nhất là với phần Nói – nghe? - Nghe giảng, ghi chép thụ động 40/222 18% - GV sử dụng đa dạng các kĩ thuật dạy học để 85/222 38,4% hướng dẫn HS tương tác, phát biểu, thảo luận, tranh biện… - Được trải nghiệm sáng tạo, được tự mình làm các 69/222 31% sản phẩm học tập - Làm nhiều đề vận dụng, kết nối với thực tiễn đời 28/222 12,6% sống 5 Tần suất tham gia vào các hoạt động học tập của em như: hoạt động nhóm, chủ động phát biểu ý kiến, thực hiện yêu cầu của GV, nêu câu hỏi thắc mắc, chủ động tìm kiếm thông tin liên quan đến bài học… như thế nào? - Thường xuyên 95/222 42,8% - Thỉnh thoảng 127/222 57,2% - Không bao giờ 0/222 0% 6 Em có thích học nội dung Nói – nghe trong Chương trình Ngữ Văn 10? - Thích 80/222 36% - Bình thường 131/222 59% - Không thích 11/222 5% 7 Khi học phần Nói – nghe trong Chương trình Ngữ văn 10, em gặp khó khăn gì? 19
  20. - Thiếu sự tự tin, sợ bạn bè trong lớp chê cười 64/222 28,8% - Khả năng trình bày trước tập thể kém 61/222 27,5% - Việc chuẩn bị vấn đề thuyết trình 44/222 19,8% - Tất cả các phương án trên 53/222 23,9% 8 Theo em, có thể khắc phục những khó khăn khi học phần Nói – nghe bằng cách nào? - Tập nói, tập lắng nghe, phản hồi 32/222 14,4% - GV cần hướng dẫn kĩ, có nhiều cách thức tổ chức 37/222 16,7% hoạt động - Cần chuẩn bị nội dung trình bày chu đáo, kĩ 38/222 17,1% càng; vận dụng các phương tiện hiện đại - Tất cả các phương án trên. 115/222 51,8% Từ sự phân tích số liệu, nhóm tác giả sáng kiến nhận thấy đại đa số học sinh đều mong muốn GV sẽ thay đổi phương pháp dạy học: GV sử dụng đa dạng các kĩ thuật dạy học để hướng dẫn HS tương tác, phát biểu, thảo luận, tranh biện (38,4%), Được trải nghiệm sáng tạo, được tự mình làm các sản phẩm học tập (31%) …Và khi được trải nghiệm sự thay đổi của GV thì học sinh sẽ cảm thấy rất thích, hào hứng tham gia (45,5%), thích (40,1%) … Bên cạnh đó, cùng với kết quả khảo sát và qua quá trình theo dõi hoạt động học tập của HS, chúng tôi thấy bên cạnh những HS có ý thức và kĩ năng học tập tốt thì chúng tôi nhận thấy việc tham gia học tập của HS vẫn còn một số tồn tại như: đa số HS rất thụ động, chưa tích cực, tự lực trong quá trình học tập, HS thiếu kĩ năng làm việc theo nhóm, theo tập thể; hứng thú học tập chưa thực sự nhiều… Đối với phần Nói – nghe thì các em cũng thực sự đang gặp rất nhiều khó khăn, nhất là đói với đối tượng học sinh có học lực trung bình, yếu: + Các em chưa tự tin + Khả năng tổng hợp vấn đề còn non + Chưa biết cách phối hợp với các yếu tố phi ngôn ngữ + Thiếu tính hợp tác trong quá trình làm việc nhóm + Kiến thức xã hội còn hạn hẹp, nhiều khi còn nhận thức sai + HS nói được và tự tin nói còn rất ít 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2