intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng phương pháp trò chơi nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ dạy học Ngữ văn 10 ở trường THPT Tương Dương 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:44

21
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Vận dụng phương pháp trò chơi nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ dạy học Ngữ văn 10 ở trường THPT Tương Dương 1" nhằm tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề cốt lõi trong việc tổ chức trò chơi trong các tiết dạy học Ngữ văn; Vận dụng phương pháp trò chơi trong các tiết dạy học Ngữ văn lớp 10 tại trường THPT Tương Dương 1 năm học 2020-2021, đến tháng 03 năm học 2021 - 2022.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng phương pháp trò chơi nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ dạy học Ngữ văn 10 ở trường THPT Tương Dương 1

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TRÒ CHƠI NHẰM TẠO SỰ HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG GIỜ DẠY HỌC NGỮ VĂN 10 Ở TRƯỜNG THPT TƯƠNG DƯƠNG1 LĨNH VỰC: NGỮ VĂN 1
  2. MỤC LỤC TT Nội dung Trang 1 I. ĐẶT VẤN ĐỀ 3 1. Lí do chọn đề tài 3 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 3. Các phương pháp tiến hành 4 4. Tính mới của đề tài: 4 2 II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 5 1. Cơ sở lý luận của đề tài 5 1.1. Khái niệm phương pháp 5 1.2. Phương pháp trò chơi 5 1.3.Vai trò của phương pháp trò chơi đối với việc dạy học môn 6 Ngữ văn 2. Cơ sở thực tiễn 7 2.1. Thuận lợi 7 2.2. Khó khăn 7 3. Giải pháp của sáng kiến đã được vận dụng trong môn Ngữ 9 văn 10 tại trường THPT Tương Dương1 3.1.Giải pháp chung 9 3.1.1.Nguyên tắc áp dụng phương pháp trò chơi trong giờ dạy 9 Văn 3.1.2.Lựa chọn thời gian vận dụng trò chơi 9 3.1.3.Chuẩn bị của giáo viên và học sinh 10 3.2.Áp dụng một số trò chơi trong dạy học 11 2
  3. 3.2.1.Trò chơi : Xâu chuỗi 11 3.2.2.Trò chơi : Ô chữ bí mật ( Giải ô chữ) 15 3.2.3.Trò chơi: Hộp quà may mắn ( vòng quay may mắn) 20 3.2.4.Trò chơi : Điền bảng 26 3.3.Giáo án thực nghiệm 29 4. Kết quả đạt được 38 4.1.Đối với giáo viên 38 4.2.Đối với học sinh 38 3 Phần III. Kết luận 41 4 Tài liệu tham khảo 42 5 Phụ lục phiếu khảo sát 43 3
  4. PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài: Trong xu thế hội nhập và phát triển, thế kỉ XXI đòi hỏi con người phải luôn năng động, sáng tạo; có khả năng tìm kiếm, xử lí thông tin và ứng phó với các tình huống trong đời sống. Nhằm đáp ứng yêu cầu này, mục tiêu giáo dục phổ thông của nước ta đã chuyển từ chủ yếu là trang bị kiến thức cho học sinh (HS) sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em, đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực tiễn. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp giảng dạy cũng là tất yếu nhằm phát huy tính tích cực của HS. Việc xây dựng, áp dụng những hướng tiếp cận, phương pháp mới trong dạy học bộ môn để nâng cao hiệu quả dạy và học là yêu cầu phải được giải quyết. Đặc biệt, với xu hướng học lệch, học theo ban, chọn ngành nghề theo khối hiện nay tạo ra rất nhiều bất cập trong việc lựa chọn môn học. Các môn xã hội có xu hướng bị coi nhẹ. Môn Ngữ văn cũng không nằm ngoài xu hướng ấy. Nhiều HS cho rằng Ngữ văn là môn khoa học xã hội, tính ứng dụng không cao, không thiết thực với cuộc sống, công việc. Từ đó, dẫn đến tình trạng chán học văn, hoặc học mang tính đối phó. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có đổi mới phương pháp, tìm hướng tiếp cận mới trong dạy học môn Ngữ văn, tạo hứng thú, nâng cao năng lực học tập cho HS, giúp HS cảm nhận được cái hay, cái đẹp, biết cảm thông, yêu thương chia sẻ với những số phận, cuộc đời thông qua mỗi trang sách, thông qua từng tác phẩm là điều rất cần thiết. “Văn học là nhân học” học văn là để hình thành nhân cách con người. Và Ngữ văn là môn học quan trọng giúp HS có kỹ năng giao tiếp ứng xử trong cuộc sống. Tìm hướng tiếp cận, đổi mới phương pháp, từ đó tạo hứng thú trong học tập cho học sinh, khơi gợi, đánh thức niềm đam mê với văn học, tìm về với giá trị đời sống tâm hồn của con người là vấn đề được đặt ra và cần phải giải quyết. Có thể nói, cốt lõi của việc tạo hứng thú, tạo tâm thế hưng phấn, tích cực cho học sinh trong học tập bộ môn nói chung và môn Ngữ văn nói riêng là đổi mới phương pháp dạy học, dạy học theo hướng lấy hoạt động học tập của học sinh làm trung tâm, học trò là người chủ động khám phá, lĩnh hội kiến thức, người thầy đóng vai trò là người tổ chức, chỉ đạo. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm những hướng tiếp cận bài học linh hoạt, khoa học, hợp lí nhằm tạo hứng thú học tập của học sinh trong dạy học Ngữ văn là rất cần thiết. Một trong số những biện pháp để đạt được mục đích trên đó là sử dụng trò chơi. Trò chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục: giáo dục bằng trò chơi - một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới vận dụng. Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn Ngữ văn, kết hợp với những phương pháp dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay. Đối với học sinh ở bất cứ cấp bậc nào thì hoạt động vui chơi là nhu cầu không thể thiếu và nó giữ vai trò quan trọng đối với các em. Nếu giáo viên biết tổ chức cho 4
  5. học sinh chơi một cách hợp lí, khoa học trong giờ học sẽ mang lại hiệu quả giáo dục cao. Chính vì vậy việc vận dụng trò chơi trong giờ học môn Văn ở THPT sẽ làm thay đổi không khí căng thẳng trong các giờ học, tăng thêm hứng thú cho người học, học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn trong đề xuất ý kiến của mình, phát huy tư duy sáng tạo… Hứng thú và chủ động trong học tập là sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến thức, hình thành kĩ năng và phát triển nhân cách ở học sinh qua bộ môn Văn. Thông qua thực tế giảng dạy, dự giờ học hỏi ở đồng nghiệp cộng với các đợt tập huấn chuyên môn bản thân tôi mạnh dạn áp dụng tổ chức một số trò chơi trong giờ dạy môn Văn và thấy không khí của mỗi tiết học sôi nổi hẳn lên, đến giờ học các em không còn cảm thấy căng thẳng mà rất háo hức mong đợi, học sinh trong lớp hoạt động tích cực và đồng đều, các em mạnh dạn trình bày ý kiến, nêu thắc mắc,…từ đó các em tự chiếm lĩnh kiến thức và ghi nhớ một cách bền vững hơn do đó mà kết quả học tập cũng được nâng cao. Vì vậy, tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “Vận dụng phương pháp trò chơi nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ dạy học Ngữ văn 10 ở trường THPT Tương Dương1” 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 2.1. Nhằm tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề cốt lõi trong việc tổ chức trò chơi trong các tiết dạy học Ngữ văn 2.2. Vận dụng phương pháp trò chơi trong các tiết dạy học Ngữ văn lớp 10 tại trường THPT Tương Dương1 năm học 2020-2021, đến tháng 03 năm học 2021 - 2022 3. Các phương pháp tiến hành - Phương pháp nghiên cứu lý luận - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp hỗ trợ: Thống kê số liệu, phân tích số liệu, dựa vào bảng biểu, sơ đồ. 4. Tính mới của đề tài: Thúc đẩy sự phát triển trí tuệ cho học sinh, kích thích tư duy của các em, phát huy tính năng động, nâng cao hứng thú học tập cho bộ môn. Trong số những biện pháp dạy học tích cực hóa, sử dụng trò chơi được xem là một trong những phương pháp dạy học hiệu quả, nhằm tạo ra quá trình tương tác, thu hút, động viên học sinh tham gia hợp tác để nâng cao tính tự giác tạo cơ hội cho các em thực hành vận dụng những kinh nghiệm, những tri thức đã học để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Văn. Trò chơi là một hoạt động bổ trợ cho việc dạy Ngữ văn. Hoạt động này thiên về chơi nên nó xoá đi sự nặng nề. Học sinh được tiếp nhận nhiều kiến thức, kỹ năng 5
  6. qua những hoạt động dễ dàng, gây hứng thú. Chính vì lẽ đó mà những học sinh đã được học qua những tiết dạy có áp dụng trò chơi không chỉ có cơ hội tìm hiểu, ôn tập kiến thức mà còn thể nghiệm hành vi, rèn luyện kỹ năng, sự tư duy, phản ứng nhanh. Các em được rèn khả năng quyết định lựa chọn các phương án đúng, cách giải quyết tình huống hợp lí. Đây là bài học thực tế trước khi học sinh rút ra kết luận, lý thuyết trừu tượng. Trò chơi cũng là biện pháp tăng cường sự phấn đấu tích cực trong từng cá nhân hoặc trong nhóm học sinh. Tổ chức trò chơi theo nhóm còn giúp tăng cường hoạt động làm việc nhóm, từ đó phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lý luận của đề tài: 1.1. Khái niệm phương pháp: Trong Luật Giáo dục điều 30.3 (2019) đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc điểm đối tượng học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình giáo dục”. Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động của học sinh. Căn cứ vào mục tiêu trên cùng với việc dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh THPT: ham tìm hiểu, tiếp cận, thích cái mới lạ nhưng lại chóng chán. Do đó việc sử dụng các trò chơi học tập trong giờ học Ngữ văn là hết sức cần thiết và có ích 1.2. Phương pháp trò chơi: Trò chơi là một hoạt động hướng tới mục đích chủ yếu là vui chơi, giải trí, thư giãn giúp cho tinh thần, đầu óc của con người được thoải mái, sảng khoái sau những giờ làm việc, học tập mệt mỏi. Phương pháp tổ chức chơi trò chơi hiện nay là một trong những phương pháp phổ biến trong dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ Văn nói riêng nhằm hướng tới mục tiêu vừa hình thành năng lực phẩm chất, vừa phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh. Người giáo viên khi áp dụng phương pháp này vào dạy học sẽ tạo ra không khí lớp học sôi nổi, tạo môi trường, điều kiện cho nhiều học sinh được tham gia hoạt động học tập hơn (kể cả những học sinh trung bình, yếu, kém). Học tập qua trò chơi còn rèn cho học sinh tinh thần đoàn kết gắn bó, biết hỗ trợ giúp đỡ nhau trong quá trình học tập, tiếp thu kiến thức. Có sự phối kết hợp nhịp nhàng, linh hoạt giữa các thành viên trong đội nhóm trong học tập, hình thành ở các em lòng nhân ái, tình yêu thương mọi người trong cuộc sống hàng ngày. 6
  7. Phương pháp chơi trò chơi là một phương pháp dạy học mới, có tính tích cực, không áp đặt, gò ép người học theo một khuôn mẫu được định sẵn, cho trước và nếu sử dụng thành công khả năng sáng tạo của học sinh sẽ được phát huy tuyệt đối vì học qua trò chơi thì học sinh sẽ tiếp thu bài học một cách tự nhiên, chủ động nhất so với khả năng có thể của bản thân mình. Khi người học tự mình tìm hiểu, nắm bắt thông tin, tiếp thu kiến thức thì quá trình học tập, ghi nhớ nội dung bài học sẽ dễ dàng và sâu sắc, cụ thể hơn so với cách học thông thường. Một trong những ưu điểm nổi bật của phương pháp chơi trò chơi là giúp học sinh có được tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát, có sự nhạy bén trong hoạt động học tập. Bản chất của trò chơi là sự ganh đua, là kết quả thắng, thua giữa các nhóm các đội. Vì vậy khi dùng trò chơi trong dạy học sẽ kích thích sự tập trung, tinh thần hăng say, nhiệt tình tham gia học tập của học sinh. Qua trò chơi học sinh sẽ được rèn luyện khả năng lựa chọn, quyết định cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp với tình huống qua trò chơi học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi, giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh. 1.3. Vai trò của phương pháp trò chơi đối với việc dạy học môn Ngữ văn: Việc sử dụng các trò chơi học tập trong giờ học Ngữ văn là hết sức cần thiết và có ích. - Trò chơi trong học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của HS, tạo bầu không khí học tập thoải mái, dễ chịu từ đó phát huy tính tích cực, tự giác, hứng thú của HS và qua đó giúp hình thành các kỹ năng: khả năng quan sát, tư duy sáng tạo, sự tự tin, khả năng hoạt động nhóm… từ đó nâng cao chất lượng dạy học môn Văn + Tăng cường khả năng chú ý nắm bắt nội dung bài học phát huy tính năng động của các em. + Nâng cao hứng thú cho người học, góp phần làm giảm mệt mỏi, căng thẳng trong học tập của học sinh. Phát triển tính độc lập, ham hiểu biết và khả năng suy luận. + Tăng cường khả năng thực hành, vận dụng các kiến thức đã học. + Tăng cường khả năng giao tiếp giữa giáo viên và học sinh, và giữa học sinh với nhau, giúp học sinh rèn luyện các khả năng ứng xử, giao tiếp. + Thu hút cả lớp theo dõi tham gia các hoạt động. - Giáo dục HS tính tự giác, trung thực, sự kiên trì, tính kỷ luật, tinh thần đồng đội trong học tập và trong cuộc sống Trò chơi là phương tiện có ý nghĩa trong việc góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo và gây hứng thú trong giờ học của học sinh. Ngoài ra thông qua hoạt động trò chơi còn giúp các em phát triển được nhiều phẩm chất đạo đức như tình đoàn kết, thân ái, lòng trung thực, tinh 7
  8. thần cộng đồng trách nhiệm. Do vậy quan điểm “Thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập” là phù hợp với từng lứa tuổi, từng môn học đặc biệt là đối với môn Văn. 2. Cơ sở thực tiễn: 2.1. Thuận lợi: - Trường THPT Tương Dương1 nằm ở trung tâm của Thị trấn, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo huyện - Đội ngũ giáo viên đa số trẻ, nhiệt tình, tâm huyết với nghề, có ý thức trau dồi chuyên môn nghiệp vụ và đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có đội ngũ giáo viên môn Văn - Từ năm học 2020 - 2021 được sự quan tâm tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất của nhà trường, hội phụ huynh, các ban nghành, nhà trường đã lắp đặt 30 tivi 60 inch có kết nối internet ở 30 lớp học. Chính vì vậy đã thúc đẩy đội ngũ giáo viên trong trường không ngừng nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học qua việc ứng dụng công nghệ thông tin. 2.2. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi có được thì trong những năm học qua nhà trường và đội ngũ giáo viên cũng gặp không ít khó khăn - Trong những năm học qua tại trường THPT Tương Dương, đội ngũ giáo viên nói chung và giáo viên dạy học môn Ngữ văn nói riêng đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng nhìn chung vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng của phương pháp dạy học trước đây. Nhiều giáo viên vẫn quen với cách dạy truyền thống: giáo viên truyền đạt kiến thức một chiều mà không tổ chức cho HS các hoạt động dạy học để các em tự chiếm lĩnh kiến thức; GV vẫn đọc thay, hiểu thay cho HS, áp đặt cách hiểu cách cảm của bản thân mình cho HS. Điều này gây tác động không nhỏ đến việc tiếp nhận tri thức một cách thụ động của học sinh. Học sinh như trở thành một cỗ máy tiếp nhận chứ không chủ động, sáng tạo. Trong khi việc dạy Ngữ văn có hiệu quả lại đòi hỏi cao. Dạy văn không chỉ là truyền thụ kiến thức mà còn phải hay, phải lôi cuốn học sinh, làm cho học sinh thích thú, say mê học tập. Đây là môn học kết tinh nhiều giá trị văn hoá của dân tộc cũng như của nhân loại, là môn học có ý nghĩa trong việc hình thành phát triển nhân cách cho học sinh và rèn luyện những kỹ năng cơ bản cần thiết cho các em. Mặt khác đây là môn học nghệ thuật kích thích trí tưởng tượng bay bổng, sáng tạo của các em học sinh. Điều này lại làm cho việc giảng dạy môn Ngữ văn càng khó hơn. - Tình trạng học sinh lười học môn Ngữ văn cũng có nguyên nhân từ giáo viên chưa gây được sự hứng thú trong các tiết dạy của mình. Một số giáo viên chưa đổi mới chính mình, hạn chế trong việc áp dụng công nghệ thông tin, thích “độc diễn” trên bục giảng. Chính vì lẽ đó, học sinh chán nản, không muốn xây dựng bài dẫn đến không nắm được kiến thức bài học, vì vậy kết quả học tập chưa cao. 8
  9. Trước năm học 2020-2021, nhà trường thiếu trang thiết bị, cơ sở vật chất để giáo viên đổi mới phương pháp dạy học. - Mặt khác trường THPT Tương Dương1 là trường miền núi, điểm tuyển sinh đầu vào rất thấp, hầu như HS nào không bị điểm liệt môn Văn là nghiễm nhiên được đậu vào trường. Thậm chí năm học 2019-2020 HS chỉ cần nạp học bạ là được xét tuyển. Vì vậy dẫn đến hệ lụy trong những năm gần đây, tình hình học sinh trong nhà trường có sự biến đổi theo chiều hướng tiêu cực đó là tình trạng học sinh chây lười trong việc học các môn, trong đó có bộ môn Ngữ văn. Ngoài nguyên nhân đầu vào thấp thì HS đa số là hộ nghèo lại phải trọ học xa nhà, thiếu sự quan tâm chỉ bảo của gia đình nên các em không xác định động cơ, thái độ học tập. Nhiều học sinh bị hổng kiến thức từ cấp dưới, lên cấp THPT kiến thức nặng hơn, khó tiếp thu hơn nên nhiều HS chán nản, áp lực, mệt mỏi, căng thẳng mỗi khi đến tiết học Văn. Trước thực trạng đó tôi đã khảo sát về thái độ HS học tập môn Văn 10, năm học 2020-2021: hai lớp 10D, 10L (tháng 09/2020) Tổng số Hứng thú Ít hứng thú Không hứng thú 73 HS 15= 20,5% 27= 37% 31= 42,5% Như vậy qua số liệu trên thấy được số HS hứng thú, thích học giờ Văn là một con số khiêm tốn. Đa số HS không “mặn mà” với giờ học, thiếu ý thức xây dựng bài. Điểm khảo sát đầu vào năm học 2020- 2021: Điểm giỏi Điểm Khá Điểm TB Điểm yếu- kém Lớp Số Số Số HS Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Số HS Tỉ lệ HS HS 10D (38 HS) 0 0% 0 0% 6 15,8% 32 84,2% 10L (35 HS) 0 0% 0 0% 3 8,6% 32 91,4% Trước thực trạng đó, tôi rất băn khoăn và trăn trở là làm sao cho học sinh của mình học tập tiến bộ môn Ngữ văn hơn? Làm sao cho các em yêu thích môn học này hơn? Để giải quyết được điều này, tôi đã phân tích, nghiên cứu và sáng tạo trong việc vận dụng phương pháp vào giảng dạy, tạo cho mỗi tiết dạy Ngữ văn trở thành những tiết học mà học sinh mong đợi. Nhờ sự đầu tư cơ sở vật chất của nhà trường tôi đã thuận tiện tiến hành áp dụng một số phương pháp dạy học tích cực có ứng dụng Công nghệ thông tin vào việc giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong đó việc tổ chức vận dụng trò chơi trong dạy học đã đạt được kết quả như mong đợi. Đó là học sinh càng yêu thích môn học này hơn và kết quả học tập càng cao hơn. 9
  10. 3. Giải pháp của sáng kiến đã được vận dụng trong môn Ngữ văn 10 tại trường THPT Tương Dương1 3.1. Giải pháp chung 3.1.1. Nguyên tắc áp dụng phương pháp trò chơi trong giờ dạy Văn Giáo viên cần chú ý đến đặc thù của từng phân môn; lưu ý mối quan hệ giữa trò chơi với hệ thống câu hỏi; vận dụng linh hoạt, hợp lí, đúng mức và đúng lúc để không xáo trộn nhiều không gian lớp học, nhanh chóng ổn định lớp học khi trò chơi kết thúc. Trò chơi phải phù hợp với nội dung, mục tiêu cần đạt, không vận dụng cho tất cả các tiết học, đôi khi gây phản cảm, phản tác dụng; trò chơi bao giờ cũng kết thúc bằng phần thưởng cho người (đội) thắng 3.1.2. Lựa chọn thời gian vận dụng trò chơi. Khi áp dụng phương pháp trò chơi vào trong giờ học, giáo viên phải biết lựa chọn thời điểm nội dung bài cần áp dụng trò chơi cho thích hợp, cụ thể là: a. Sử dụng trò chơi vào phần khởi động đầu giờ học : Cách vận dụng đó, vừa kiểm tra được kiến thức bài cũ để giải quyết trò chơi, đồng thời bước đầu nhận ra nội dung kiến thức bài học mà các em sắp được học. Bên cạnh đó, còn tạo tâm lý thoải mái, phấn khởi, học sinh hào hứng học tập hơn, giải tỏa tâm lý mệt mỏi, căng thẳng tinh thần do giờ học trước hoặc mệt mỏi do hoàn cảnh xung quanh gây ra. b. Sử dụng trò chơi nhằm hình thành tri thức mới: Trò chơi thường được tổ chức sau khi đã tìm hiểu hoạt động 1 (tìm hiểu chung,tìm hiểu ngữ liệu...), từ những kiến thức thực tế qua hoạt động 1, vận dụng những kiến thức đó, giáo viên tổ chức trò chơi cho học sinh khám phá, phát hiện ra tri thức mới, tri thức đó nằm ngay trong nội dung bài học. c. Sử dụng trò chơi để hình thành kỹ năng: Xác định mục đích của việc tổ chức trò chơi nhằm hình thành kỹ năng cho các em, chúng ta tổ chức trò chơi trên cơ sở vận dụng những tri thức của bài vừa học. Từ đó, giúp học sinh hình thành được những kỹ năng lựa chọn, cách giải quyết khi gặp những tình huống trong cuộc sống cũng như một số kỹ năng quan trọng khi làm bài... d. Sử dụng trò chơi nhằm luyện tập, củng cố tri thức, hình thành thái độ: Khác với việc tổ chức trò chơi vào các thời điểm và mục đích khác nhau như trên, ở thời điểm tổ chức trò chơi để luyện tập củng cố tri thức, hình thành thái độ có mục đích khác đó là: để học sinh thâu tóm được nội dung bài học, giúp khắc sâu, nhớ rõ hơn nội dung vừa học xong. Thời điểm tổ chức trò chơi với mục đích này thiết nghĩ vào cuối giờ học là hợp lý nhất. 10
  11. 3.1.3. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh Từ thực trạng học tập môn Ngữ văn chưa đạt hiệu quả cao, tôi đã tiến hành phương pháp tổ chức trò chơi trong quá trình giảng dạy. Để trò chơi đạt hiệu quả cần có sự chuẩn bị của cả giáo viên và học sinh. a. Giáo viên - Chuẩn bị trước giờ học: + Giáo viên phải nghiên cứu kỹ tiết dạy để từ đó có định hướng lựa chọn các hình thức tổ chức hoạt động trò chơi cho thích hợp. + Có những quy định rõ về hình thức, số người chơi, luật chơi.... + Thiết kế trò chơi trên powerpoint hoặc trên bảng phụ, giấy A0.... + Dự kiến thời gian tổ chức trò chơi + Những lưu ý đối với học sinh khi chơi - Quy trình thực hiện trên lớp Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi. Bước 2: Hướng dẫn chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau: - Tổ chức người tham gia trò chơi: Số người tham gia, số đội tham gia (mấy đội chơi), quản trò, trọng tài. - Các dụng cụ dùng để chơi (cờ, thẻ…) - Cách chơi: Từng việc làm cụ thể của người chơi hoặc đội chơi, thời gian chơi, những điều người chơi không được làm… - Cách xác nhận kết quả và cách tính điểm chơi, các giải của cuộc chơi (nếu có) Bước 3: Thực hiện trò chơi Bước 4: Nhận xét sau cuộc chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau: - Giáo viên hoặc trọng tài là HS nhận xét về thái độ tham gia trò chơi của từng cá nhân/ đội, những việc làm chưa tốt của các cá nhân/ đội để rút kinh nghiệm. - Trọng tài công bố kết quả chơi của từng cá nhân/ đội và trao phần thưởng cho cá nhân/ đội đoạt giải. - Một số học sinh nêu kiến thức, kỹ năng trong bài học mà trò chơi đã thể hiện. *Một số điều cần lưu ý Sử dụng trò chơi trong học tập là phương pháp có thể vận dụng để dạy học Ngữ văn ở tất cả các phân môn Văn -Tiếng Việt -Tập làm văn. Dùng để khởi động, để 11
  12. củng cố hoặc thậm chí là hình thành kiến thức mới. Khi sử dụng phương pháp này, GV cần chú ý một số điểm sau: - Lựa chọn hoặc tự thiết kế trò chơi đảm bảo những yêu cầu + Mục đích của trò chơi phải thể hiện mục tiêu của bài học hoặc một phần của bài học. + Hình thức chơi đa dạng giúp HS được thay đổi các hoạt động học tập trên lớp, giúp HS phối hợp các hoạt động trí tuệ với các hoạt động vận động. + Câu hỏi trong các phần chơi phải đa dạng, trọng tâm, có tình huống, phù hợp với trình độ của HS; thu hút, kích thích sự tìm tòi hợp tác của HS; đồng thời đảm bảo tính hệ thống, tính tích hợp kiến thức + Luật chơi đơn giản để HS dễ nhớ, dễ thực hiện. Cần đưa ra các cách chơi có nhiều HS tham gia để tăng cường kỹ năng học tập hợp tác. + Các dụng cụ chơi cần đơn giản, dễ làm hoặc dễ tìm kiếm tại chỗ - GV với tư cách là người dẫn chương trình phải tự tin, chân tình, thân thiện; biết làm chủ thời gian, kiểm soát được tiến trình hoạt động; biết đảm nhận nhiều vai trò khác nhau: người tư vấn, người xúc tác, người lắng nghe, người bạn, người thầy… - Tổ chức chơi vào thời gian thích hợp của bài học để vừa làm cho học sinh hứng thú học tập vừa hướng cho học sinh tiếp tục tập trung các nội dung khác của bài học một cách có hiệu quả. b. Học sinh: - Có ý thức học tập cao, sẵn sàng hợp tác - Trước mỗi phần chơi, Hs phải nắm chắc thể lệ trò chơi do giáo viên đưa ra để tuân thủ thực hiện một cách nghiêm ngặt và đúng quy tắc. -Nếu là trò chơi mang tính chất tập thể thì đòi hỏi mỗi thành viên phải có tinh thần trách nhiệm và ý thức cao khi tham gia chơi. - Tham gia các phần chơi với tâm lý thoải mái, thân thiện, nhiệt tình; thể hiện tinh thần giao lưu, học hỏi. 3.2. Áp dụng một số trò chơi trong dạy học: 3.2.1. Trò chơi : Xâu chuỗi (hoạt động cá nhân hoặc cặp đôi) * Đặc điểm: Đây là một trò chơi mới là phiên bản của trò chơi Vua tiếng Việt (trên VTV3). Trò chơi có thể sử dụng trong các hoạt động khác nhau trong tiết dạy học môn Văn. Với trò chơi này giáo viên cho các vần, hoặc từ trong tiếng Việt 1 cách ngẫu nhiên và yêu cầu HS sắp xếp, xâu chuỗi thành từ hoặc câu có nghĩa (Các từ hoặc câu liên quan đến kiến thức đã hoặc sẽ học) 12
  13. Trò chơi này có thể áp dụng trong phần khởi động hoặc làm các bài tập ôn tập hoặc luyện tập củng cố kiến thức. Với trò chơi này sẽ huy động được hầu hết các HS trong lớp, kể cả HS yếu kém vì giáo viên đã cung cấp sẵn ngữ liệu, HS chỉ cần nhớ kiến thức để tái hiện lại một cách chính xác. *Chuẩn bị: - Giáo viên chuẩn bị các ngữ liệu chơi trên giáo án Powerpoint với câu hỏi phù hợp: Trò chơi được gợi ý qua các từ ngữ đã bị đảo trật tự trong câu một cách ngẫu nhiên không theo thứ tự với từ đứng đầu câu là từ được viết hoa, từ đứng cuối có dấu chấm. * Cách chơi: - Bước 1: Giáo viên công bố tên trò chơi và mục đích trò chơi: Trò chơi này góp phần củng cố khả năng diễn đạt, nhanh nhạy của HS đồng thời còn phát huy được những kiến thức mà học sinh đã biết. - Bước 2: Hướng dẫn chơi + Chọn hình thức chơi (cá nhân hay cặp đôi) + Cách chơi: Sau khi GV chiếu ngữ liệu, GV yêu cầu HS ghép thành 1 câu thơ, câu ca dao đã học hoặc sẽ học trong bài. Thời gian suy nghĩ trả lời từ 15 giây đến 45 giây, tùy vào từng bài tập. Sau khi tìm được đáp án chính xác, GV có thể hỏi thêm về ý nghĩa câu thơ hoặc hình ảnh thơ. Nếu đội nào (cá nhân) trả lời sai sẽ nhường quyền cho đội khác - Bước 3: Thực hiện trò chơi - Bước 4: Giáo viên nhận xét, thưởng điểm hoặc phần thưởng khác VD1: Áp dụng trò chơi trong bài tập 5 trang 102 sgk Ngữ văn 10: Ôn tập văn học dân gian Việt Nam - Trong bài tập 5 yêu cầu HS tìm các câu ca dao mở đầu bằng từ “Thân em…” hoặc “Chiều chiều….”. Mục đích của trò chơi: kích thích sự tham gia của những HS có học lực yếu và trung bình với tinh thần hứng khởi, thay đổi không khí lớp học - Chuẩn bị: Để HS dễ dàng tìm ra đáp án ngay trên lớp, giáo viên cung cấp ngữ liệu bằng cách đảo trật tự của các từ ngữ (trình chiếu) - Cách chơi: Gv tổ chức trò chơi theo cặp đôi, yêu cầu HS ghép các từ ngữ đã chiếu thành câu ca dao cần tìm với thời gian suy nghĩ là 45 giây cho mỗi câu. Sau khi HS trả lời đúng đáp án, giáo viên nhận xét chốt đáp án và thưởng điểm Câu 1: a. 13
  14. như Thân hạt em rơi. Mưa b. Hạt ra cày. ruộng các hạt vào đài  Đáp án: a. Thân em như hạt mưa rơi. b. Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày. Câu 2: a. Chiều ra ngõ chiều sau. đứng b. mẹ về Trông quê đau ruột chín chiều. => Đáp án a. Chiều chiều ra đứng ngõ Sau. b. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều. Câu 3: a. có chăng bến ơi nhớ Thuyền b. một dạ khăng đợi thuyền Bến thì khăng 14
  15.  Đáp án: a. Thuyền ơi có nhớ bến chăng b. Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền VD2: Áp dụng phần Khởi động trước khi học tiết 85 PPCT: Truyện Kiều, Phần 2: Tác phẩm, đoạn trích Trao duyên (Nguyễn Du), Ngữ văn 10 tập 2 - GV yêu cầu HS tìm tên các nhân vật xuất hiện trong Truyện Kiều qua các chữ cái mà GV cung cấp Với trò chơi này để tăng tính hiệu quả thì GV yêu cầu HS xâu chuỗi theo chủ đề - Cách chơi: HS ghép các chữ cái với nhau để tìm tên nhân vật trong thời gian suy nghĩ 15 giây. HS nào có đáp án nhanh nhất và chính xác nhất sẽ được khen ngợi hoặc trả lời nhiều câu đúng sẽ có điểm thưởng 15
  16. 3.2.2. Trò chơi: Ô chữ bí mật (Giải ô chữ) * Đặc điểm: Trò chơi này khá quen thuộc và đã được áp dụng nhiều nhưng nó lại được sự đón nhận rất nhiệt tình và hứng khởi của các em học sinh. Chính vì thế, nó mang lại hiệu quả cũng rất cao. Trò chơi này thích hợp với một giờ văn học hoặc tiếng Việt. Có thể áp dụng trò chơi này để vào bài hoặc dùng ôn tập ở cuối bài. * Chuẩn bị: Giáo viên hoặc học sinh soạn ra một bảng ô chữ cùng các câu hỏi đi kèm tương ứng với kiến thức của các ô hàng ngang cần thực hiện các sile trò chơi trên Powerpoint. * Cách chơi: - Bước 1: GV công bố tên trò chơi, mục đích của trò chơi là kích thích được sự hứng khởi, khả năng ghi nhớ kiến thức cũ hoặc tìm kiếm kiến thức mới của HS 16
  17. - Bước 2: Hướng dẫn chơi + Giáo viên tổ chức trò chơi theo cá nhân hoặc theo nhóm. + Cách chơi: Giáo viên giới thiệu qua ô chữ gồm có bao nhiêu hàng ngang, hàng dọc từ chìa khoá gồm bao nhiêu chữ cái, sau đó giáo viên lần lượt đọc từng câu hỏi gợi ý để học sinh (nhóm) xung phong giải ô chữ. Nếu bạn nào (nhóm) trả lời đúng thì sẽ mở ô chữ và sẽ được cộng điểm hoặc tuyên dương còn nếu trả lời sai thì sẽ nhường cơ hội cho các bạn còn lại. Ai tìm ra được ô từ khóa chính xác và nhanh nhất sẽ là người chiến thắng. Với trò chơi này chúng ta có thể áp dụng cho tất cả các bài học đặc biệt là ở các bài giảng văn, áp dụng chơi vào đầu giờ để giới thiệu bài mới nhằm gây hứng thú với học sinh hoặc luyện tập để các em khắc sâu nội dung bài học. Thời gian suy nghĩ, thảo luận và điểm số cho mỗi câu hỏi do GV quy định - Bước 3: Thực hiện trò chơi - Bước 4: Kết thúc phần chơi, GV đánh giá, biểu dương, động viên tinh thần và tổng kết điểm của HS tham gia chơi VD1: Tổ chức trò chơi trong phần khởi động bài “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão - Ngữ văn 10, tiết 41PPCT * Mục đích: củng cố lại kiến thức đã học ở tiết trước và tìm từ khóa cho tiết học mới * Cách chơi: Giáo viên chia ra nhóm nhỏ (theo bàn) - Yêu cầu của trò chơi: Học sinh nắm được những nội dung cơ bản về bài khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX. Khi kết thúc trò chơi học sinh tìm ra từ khóa là “Đông A”. GV dùng từ khóa để dẫn dắt vào bài. - Giáo viên dùng máy chiếu cho HS (đại diện nhóm) lựa chọn câu hỏi để tìm từ hàng ngang. Nếu HS (nhóm) nào không trả lời được theo thời gian quy định (45 giây) thì phải nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trò chơi. - HS nhóm nào tìm được kiến thức ở ô hàng ngang thì được cộng điểm, tìm được ô hàng dọc khi chưa giải hết ô hàng ngang sẽ thắng cuộc (cộng điểm hoặc nhận quà) * Cụ thể: Bảng ô chữ như sau: Câu 1: Gồm 8 chữ cái Điền từ còn thiếu trong câu sau: Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX còn được gọi là văn học.…… Đáp án: Trung đại Câu 2: Gồm 6 chữ cái 17
  18. Đây là hình thức chữ viết xưa của người Việt, dựa vào chữ Hán mà đặt ra. Đáp án: Chữ Nôm Câu 3: Gồm 7 chữ cái Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV mang nội dung yêu nước với âm hưởng nào? Đáp án: Hào hùng Câu 4: Gồm 6 chữ cái Văn học Việt Nam từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVII mang nội dung yêu nước với âm hưởng nào? Đáp án: Ngợi ca Câu 5: Gồm 12 chữ cái Tác phẩm nào được mệnh danh là “bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên” của đất nước ta? Đáp án: Nam quốc sơn hà Từ khóa hàng dọc: ĐÔNG A T R U N G Đ Ạ I C H Ữ N Ô M H À O H Ù N G N G Ợ I C A N A M Q U Ố C S Ơ N H À 18
  19. Sau khi lật mở các ô chữ, từ khóa sẽ mở ra: VD2: Áp dụng ở phần Luyện tập sau khi học xong bài “Đọc Tiểu Thanh ký” (Nguyễn Du) - Tiết 40 PPCT - Ngữ văn 10- Tập1 - Sau khi học xong bài “Đọc Tiểu Thanh ký”- Tiết 40 - Ngữ văn 10- Tập 1, giáo viên chia lớp thành các nhóm và tiến hành tổ chức trò chơi để củng cố bài học. - Cách chơi: Giáo viên tổ chức trò chơi cá nhân và phổ biến luật chơi: Sau khi chiếu sile, HS xung phong để chọn ô số. Ứng với mỗi ô số là câu hỏi với gợi ý đáp án sẽ có bao nhiêu chữ cái. HS trả lời đúng sẽ được điểm thưởng, nếu trẻ lời sai sẽ nhường quyền cho HS khác. Thời gian suy nghĩ cho mỗi câu hỏi là 45 giây Gv gợi ý: ô chữ hàng dọc chúng ta cẩn tìm hôm nay gồm 7 chữ cái, đây là một trong những giá trị nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Du. Để tìm được ô chữ này chúng ta có 7 câu hỏi gợi ý ở hàng ngang: Câu 1: Gồm 6 chữ cái Đây là tập thơ Tiểu Thanh còn sót lại sau khi chết? Đáp án: Phần dư Câu 2: Gồm 8 chữ cái Đây là tên của nhân vật được đề cập đến trong bài thơ? Đáp án: Tiểu Thanh Câu 3: Gồm 5 chữ cái: Địa danh được nhắc đến trong bài “Đọc Tiểu Thanh ký”? Đáp án: Tây Hồ 19
  20. Câu 4: Gồm 5 chữ cái: Hãy điền từ còn thiếu vào chỗ trống: “Đau đớn thay phận........... Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”? Đáp án: Đàn bà Câu 5: Gồm 3 chữ cái Từ “độc” trong phần nguyên tác của bài thơ Đọc Tiểu Thanh ký dịch ra phần phiên âm có nghĩa là gì? Đáp án: Đọc Câu 6: Gồm 5 chữ cái Đề tài mà Nguyễn Du quan tâm trong các sáng tác của ông? Đáp án: Phụ nữ Câu 7: Gồm 7 chữ cái Đoạn thơ sau Nguyễn Du muốn nhắc đến nhân vật nào trong Truyện Kiều? Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu Nỗi niềm tưởng đến mà đau, Thấy người nằm đó biết sau thế nào? Đáp án: Đạm Tiên Từ khóa hàng dọc : Nhân đạo P H Ầ N D Ư T I Ể U T H A N H T Â Y H Ồ Đ À N B À Đ Ọ C P H Ụ N Ữ Đ A M T I Ê N 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2