intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng thang tư duy Bloom trong đánh giá kĩ năng nói và nghe ở các tiết dạy - học nói và nghe chương trình GDPT 2018, Ngữ văn 10

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:73

12
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài đúc rút những kinh nghiệm của nhóm tác giả trong việc vận dụng thang tư duy Bloom trong việc kiểm tra, đánh giá kĩ năng nói và nghe của học sinh trong các tiết dạy – học nói và nghe; góp phần đem đến phương pháp và hình thức dạy học mới mẻ, hiện đại và hiệu quả cho các tiết dạy – học nói và nghe. Từ đó, nâng cao chất lượng giờ dạy – học cũng như kĩ năng, năng lực và phẩm chất của người học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng thang tư duy Bloom trong đánh giá kĩ năng nói và nghe ở các tiết dạy - học nói và nghe chương trình GDPT 2018, Ngữ văn 10

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: VẬN DỤNG THANG TƯ DUY BLOOM TRONG ĐÁNH GIÁ KĨ NĂNG NÓI VÀ NGHE Ở CÁC TIẾT DẠY - HỌC NÓI VÀ NGHE CHƯƠNG TRÌNH GDPT 2018, NGỮ VĂN 10 Lĩnh vực: Ngữ văn Năm học 2022 - 2023
  2. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NGUYỄN ĐỨC MẬU SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: VẬN DỤNG THANG TƯ DUY BLOOM TRONG ĐÁNH GIÁ KĨ NĂNG NÓI VÀ NGHE Ở CÁC TIẾT DẠY - HỌC NÓI VÀ NGHE CHƯƠNG TRÌNH GDPT 2018, NGỮ VĂN 10 Lĩnh vực: Ngữ văn Nhóm tác giả: Mai Thị Nga Trần Thị Mai Hiên Đơn vị: THPT Nguyễn Đức Mậu Năm học: 2022 - 2023
  3. BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT Kí hiệu viết tắt Viết đầy đủ GV Giáo viên HS Học sinh KN Kĩ năng GDPT 2018 Giáo dục phổ thông 2018 TP Tác phẩm ĐT Đoạn trích THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông TN Thực nghiệm ĐC Đối chứng KNTTVCS Kết nối tri thức với cuộc sống i
  4. MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ ...................................................................................................... 1 I. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1 II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 2 II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 3 IV. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3 V. Đóng góp mới của sáng kiến ................................................................................ 4 VI. Cấu trúc của sáng kiến ........................................................................................ 4 B. NỘI DUNG .......................................................................................................... 4 I. Cơ sở của đề tài .................................................................................................... 4 1. Cơ sở lý luận ......................................................................................................... 4 1.1. Thang tư duy Bloom trong hoạt động dạy - học ................................................ 4 1.2. Vận dụng thang tư duy Bloom trong dạy học môn Ngữ văn chương trình GDPT 2018................................................................................................................ 6 2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................................... 7 2.1. Thực trạng vận dụng thang tư duy Bloom trong dạy học chương trình Giáo dục phổ thông 2018 môn Ngữ văn lớp 10, các tiết Nói và Nghe. ................................... 7 2.2. Khả năng vận dụng thang tư duy Bloom trong dạy học chương trình Giáo dục phổ thông 2018 môn Ngữ Văn lớp 10, các tiết Nói và Nghe.................................... 8 II. Một số biện pháp vận dụng thang tư duy Bloom trong dạy học chương trình Giáo dục phổ thông 2018 môn Ngữ Văn lớp 10, các tiết Nói và Nghe.................11 1. Vận dụng thang tư duy Bloom trong việc đặt mục tiêu dạy - học tiết nói và nghe. …………………………………………………………………………………….11 2. Vận dụng thang tư duy Bloom trong việc đánh giá kĩ năng nói và nghe của học sinh bằng Rubric...................................................................................................... 16 3. Vận dụng thang đo tư duy Bloom trong việc đánh giá kĩ năng nói và nghe bằng hệ thống câu hỏi. ..................................................................................................... 22 III. Thực nghiệm sư phạm..................................................................................... 26 1. Mục đích và yêu cầu thực nghiệm ...................................................................... 26 2. Nội dung thực nghiệm ......................................................................................... 27 3. Tiến trình thực nghiệm và kết quả thực nghiệm ................................................. 28 IV. Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất .................... 41 1. Mục đích khảo sát ............................................................................................... 41 2. Nội dung và phương pháp khảo sát..................................................................... 41 3. Thời gian khảo sát và đối tượng khảo sát ........................................................... 42 5. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất ... 43 C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................................... 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 51 PHỤ LỤC .................................................................................................................... ii
  5. A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài 1. Bản chất của giáo dục là phát triển tư duy cho người học, giúp người học trong một thời gian ngắn có thể có những kĩ năng, năng lực và phẩm chất nhất định về một lĩnh vực nào đó như: hiểu, biết, vận dụng, đánh giá, phân tích, sáng tạo. Trong hoạt động dạy – học ở nhà trường, việc phát triển tư duy cho học sinh là mục tiêu cốt lõi nhất. Trong nền giáo dục hiện đại, các nhà giáo dục thực sự quan tâm đến một thành tựu nghiên cứu về phát triển tư duy trong dạy – học là thang đo tư duy Bloom. Việc vận dụng thang tư duy Bloom trong dạy – học đã đem đến những hiệu quả thiết thực: góp phần quyết định đến mục tiêu giáo dục là phát triển năng lực người học; đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học; phát triển toàn diện các phẩm chất, nhân cách, chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn…, đặc biệt là đáp ứng được yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông 2018 môn Ngữ văn hiện nay. 2. Môn Ngữ văn với đặc thù vừa là bộ môn nghệ thuật vừa là bộ môn công cụ (ngôn ngữ và giao tiếp). Cốt lõi của văn học là hướng người học đến các giá trị chân, thiện, mĩ. Nhưng điều đó không có nghĩa là chỉ dùng chỉ số EQ (cảm xúc) để hiểu và cảm nhận văn học. Dạy và học môn Ngữ văn đòi hỏi phải dựa trên nền tảng, công cụ lí luận, đặc trưng thể loại, cấu trúc ngữ pháp, thao tác lập luận, kiến thức văn học sử… Tất cả những yêu cầu trên cần được khẳng định bằng thước đo, chuẩn mực mà thang đo tư duy Bloom là một trong những công cụ đánh giá hiệu quả hoạt động dạy và học Ngữ văn. Mặt khác, bản chất của chương trình giáo dục phổ thông Ngữ văn 2018 là phát triển năng lực phẩm chất thông qua việc rèn luyện các kĩ năng Đọc – Viết – Nói và Nghe. “Chương trình lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục xuyên suốt ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo định hướng năng lực và đảm bảo tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp học, lớp học” (tr3, 4). So với chương trình giáo dục phổ thông Ngữ văn 2006 thì chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã đặc biệt quan tâm đến kĩ năng Nói và Nghe trong bốn kĩ năng cơ bản cần rèn luyện của môn Ngữ văn. Điều này được thể hiện qua số tiết dạy – học nói và nghe trong chương trình GDPT 2018, Ngữ văn 10 ở cả ba bộ sách. Việc đề xuất và thực hiện các biện pháp để rèn luyện kĩ năng đọc – viết – nghe và nói đã được các thầy, cô giáo dạy Ngữ văn quan tâm. Tuy nhiên, để rèn luyện các kĩ năng trên đạt hiệu quả thì cần có một thang đo tư duy cụ thể, khoa học, chuẩn mực để đánh giá được các kĩ năng của học sinh, đặc biệt là kĩ năng Nói và Nghe. Đây là vấn đề hoàn toàn mới mẻ và thú vị mà nhóm tác giả đã thực nghiệm trong sáng kiến này. 3. Trong thời gian dạy – học chương trình Ngữ văn 10, Bộ sách KNTTVCS, chúng tôi có nhiều trăn trở, tìm tòi và thực nghiệm các phương pháp và hình thức dạy học mới. Trong đó, việc làm thế nào để dạy – học hiệu quả một giờ nói và nghe vừa là một thách thức vừa là một cơ hội. Thực tế, có rất nhiều giáo viên dạy Ngữ văn đã rất tâm huyết với việc dạy học kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Tuy nhiên, 1
  6. đây là năm đầu tiên giáo viên dạy ngữ văn bậc THPT mới thực sự trực tiếp dạy riêng một tiết nói và nghe trong chương trình sgk Ngữ văn mới. Cho nên, sẽ không tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc, những tiết dạy bị “cháy” hoặc bị “lụt”, những định hướng còn sơ sài nên chưa phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Việc học sinh nói trở thành việc đọc lại các bài viết sẵn, việc học sinh nghe trở thành việc ghi chép lại những điều bạn đọc. Chính vì vậy, kĩ năng nói và nghe của các em học sinh chưa được như mục tiêu và kì vọng của chương trình Ngữ văn mới. Mặt khác, kĩ năng nói và nghe chưa đạt yêu cầu thì năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực ngôn ngữ trong các giờ dạy – học trên ở học sinh vẫn còn hạn chế. 4. Với tâm thế của một giáo viên đã được tiếp cận và trực tiếp dạy học chương trình giáo dục phổ thông 2018, môn Ngữ văn, chúng tôi rất tâm huyết với những tiết dạy Nói và Nghe. Đây không phải là những kĩ năng mới được đưa vào chương trình Ngữ văn mà đã được thực hành trong rất nhiều tiết dạy đọc – hiểu văn bản. Tuy nhiên, điểm mới của chương trình GDPT 2018 là tách kĩ năng nói và nghe thành các tiết độc lập trong từng bài học. Điều này cho thấy, chương trình GDPT 2018 chú trọng rèn luyện song song kĩ năng đọc – viết – nói và nghe. Có rất nhiều chuyên đề, sáng kiến và các bài nghiên cứu đề xuất các biện pháp rèn luyện kĩ năng nói và nghe nhưng chúng tôi chưa thấy có những bài nghiên cứu đề xuất các phương pháp đánh giá kĩ năng nghe – nói của học sinh. Trong nhiều năm đảm nhiệm giảng dạy môn Ngữ văn nói chung và dạy học chương trình GDPT 2018, Ngữ văn lớp 10 năm nay, chúng tôi đã không ngừng tìm tòi, học hỏi và tích lũy những kinh nghiệm, ứng dụng các phương pháp dạy học hiện đại, vận dụng các thành tựu lí luận dạy học mới nhất, đặc biệt thực nghiệm một cách nghiêm túc và khoa học việc vận dụng thang tư duy Bloom trong dạy – học các tiết nói và nghe. Từ đó, chúng tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm, tích lũy được một số kỹ năng và đã đạt được một số thành công nhất định trong quá trình dạy học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học các tiết nói và nghe, tạo được hứng thú và say mê cho HS. Vì thế, chúng tôi xin được trình bày kết quả nghiên cứu, thực nghiệm qua đề tài: “Vận dụng thang tư duy Bloom trong đánh giá kĩ năng nói và nghe ở các tiết dạy - học nói và nghe chương trình GDPT 2018, Ngữ văn 10” II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu các tiết dạy nói và nghe trong chương trình Ngữ văn 10, sách Kết nối tri thức với cuộc sống, trong đó tập trung vào phương diện sau: - Cách thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá mức độ đạt được của kĩ năng nói và nghe ở từng học sinh và ở từng lớp học trong các tiết dạy học Nói và Nghe. - Ứng dụng thang đo tư duy Bloom trong quá trình kiểm tra, đánh giá kĩ năng nói và nghe ở trên. 2.2. Phạm vi nghiên cứu 2
  7. - Trong đề tài, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu và thực nghiệm các tiết dạy – học nói và nghe trong chương trình Ngữ văn 10, sách KNTTVCS. Đề tài không phải tập trung vào rèn luyện kĩ năng nói và nghe mà tập trung vào đánh giá, kiểm tra mức độ đạt được của kĩ năng nói và nghe trong các tiết học trên. - Về không gian, nhóm tác giả nghiên cứu và thực nghiệm ở một số lớp 10 của các trường THPT trên địa bàn Huyện và Thị xã (gồm 7 trường THPT) - Về thời gian, nhóm tác giả nghiên cứu từ tháng 9/2022 đến giữa tháng 4/2023 II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Đề tài đúc rút những kinh nghiệm của nhóm tác giả trong việc vận dụng thang tư duy Bloom trong việc kiểm tra, đánh giá kĩ năng nói và nghe của học sinh trong các tiết dạy – học nói và nghe - Đề tài góp phần đem đến phương pháp và hình thức dạy học mới mẻ, hiện đại và hiệu quả cho các tiết dạy – học nói và nghe. Từ đó, nâng cao chất lượng giờ dạy – học cũng như kĩ năng, năng lực và phẩm chất của người học. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu các phương pháp, các hình thức và phạm vi vận dụng thang tư duy Bloom trong các tiết dạy nói và nghe ở các tiết dạy – học nói và nghe. - Đánh giá hiệu quả, tính cấp thiết và tính khả thi trong việc thực hiện phương pháp, hình thức vận dụng này ở một số tiết dạy thực nghiệm trong phạm vi không gian và thời gian nghiên cứu. IV. Phương pháp nghiên cứu Công trình này được thực hiện dựa trên một số phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản sau: - Tổ chức và tham gia các buổi sinh hoạt chuyện môn cấp trường, cấp cụm để cùng trao đổi kinh nghiệm dạy – học. - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi có vai trò làm cơ sở chủ đạo cho kết luận - giải thích thực trạng và lập luận trong phần giải pháp. - Phương pháp phỏng vấn (ý kiến của chuyên gia là những giáo viên ngữ văn trực tiếp dạy chương trình lớp 10). Phương pháp này có vai trò tăng tính khách quan, làm rõ thực trạng để rút ra kết luận. - Phương pháp thống kê, khảo sát, khảo sát về cơ sở thực tiễn và khảo sát về tính cấp thiết, tình khả thi sau khi thực nghiệm - Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp. Những phiếu khảo sát (đính kèm ở phần phụ lục) là một công cụ hữu dụng để chúng chúng tôi có thể tìm hiểu thực trạng một cách rộng khắp và hiệu quả nhất đối tượng nghiên cứu. Phiếu được xây dựng dựa trên kinh nghiệm từ năm trước cũng như từ nguồn tham khảo của một số cá nhân có chuyên môn liên quan. Tiêu chí 3
  8. đánh giá và đáp án của phiếu khảo sát là hoàn toàn do chúng tôi đặt ra, vì trước đây chưa có tài liệu hay phiếu khảo sát nào liên quan đề cập đến đề tài này. V. Đóng góp mới của sáng kiến - Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn trong việc vận dụng thang đo tư duy Bloom trong dạy học môn Ngữ văn chương trình GDPT 2018 nói chung và các tiết nói và nghe nói riêng - Thực nghiệm và đánh giá hiệu quả, đề xuất biện pháp, cách thức ứng dụng thang đo tư duy Bloom trong dạy học các tiết Nói và Nghe, góp phần nâng cao chất lượng dạy - học chương trình phổ thông mới trong những năm đầu tiên thực hiện. VI. Cấu trúc của sáng kiến Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của sáng kiến sẽ được triển khai qua 3 phần Phần I - Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài Phần II - Hệ thống biện pháp “Vận dụng thang tư duy Bloom trong đánh giá kĩ năng nói và nghe ở các tiết dạy - học nói và nghe của chương trình GDPT 2018, Ngữ văn 10” Phần III - Thực nghiệm sư phạm Phần IV – Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi của đề tài B. NỘI DUNG I. Cơ sở của đề tài 1. Cơ sở lý luận 1.1. Thang tư duy Bloom trong hoạt động dạy - học Thang đo Bloom về các cấp độ tư duy được Benjamin Bloom, một giáo sư của trường Đại học Chicago đưa ra vào năm 1956. Trong đó Bloom có nêu ra sáu cấp độ nhận thức (gọi là thang đo tư duy Bloom). Thang đo này đã khẳng định ưu điểm của phương pháp dạy học nhằm khuyến khích và phát triển các kỹ năng tư duy của HS ở mức độ cao. Trong lĩnh vực giáo dục, thang cấp độ tư duy có thể được xem là một công cụ nền tảng để từ đó xây dựng và sắp xếp các mục tiêu giáo dục, xây dựng các chương trình, qui trình giáo dục và đào tạo, xây dựng và hệ thống hóa các câu hỏi, bài tập dùng để kiểm tra, đánh giá quá trình học tập. Thang cấp độ tư duy đầu tiên được xây dựng bởi Benjamin S.Bloom (1956), thường được gọi tắt là Thang Bloom hay Bảng phân loại Bloom (Bloom’s Taxonomy) bao gồm 6 cấp độ sau: 1. Biết (Knowledge); 2. Hiểu (Comprehension); 3. Vận dụng (Application) ; 4. Phân tích (Analysis) ; 5. Tổng hợp (Synthesis) ; 6. Đánh giá (Evaluation) . Nhận thấy thang trên chưa thật sự hoàn chỉnh, vào giữa thập niên 1999 Lorin Anderson, một học trò của Benjamin Bloom, đã cùng một số cộng sự đề xuất sự điều chỉnh như sau (Pohl, 2000): 4
  9. 1. Nhớ (Remembering) 2. Hiểu (Understanding) 3. Vận dụng (Applying) 4. Phân tích (Analyzing) 5. Đánh giá (Evaluating) 6. Sáng tạo (Creating) Các cấp độ tư duy này được định nghĩa như sau: 1. Nhớ: Bao gồm việc người học có thể nhớ lại các điều đặc biệt hoặc tổng quát, trọn vẹn hoặc một phần các quá trình, các dạng thức, cấu trúc… đã được học. Ở cấp độ này người học cần nhớ lại đúng điều được hỏi đến, ví dụ lặp lại đúng một định luật mà chưa cần phải giải thích hay sử dụng định luật ấy. Các từ khóa thường sử dụng khi đánh giá cấp độ nhận thức này là: trình bày, nhắc lại, mô tả, liệt kê… 2. Hiểu: Ở cấp độ nhận thức này người học cần nắm được ý nghĩa của thông tin, thể hiện qua khả năng diễn giải, suy diễn, liên hệ. Ví dụ: Giải thích một định luật, phân biệt cách sử dụng các thiết bị, viết tóm tắt một chương mục, trình bày một quan điểm. Từ khóa đánh giá: giải thích, phân biệt, khái quát hóa, so sánh… 3. Vận dụng: Người học có khả năng áp dụng thông tin đã biết vào một tình huống, một điều kiện mới. Ví dụ: Vận dụng một định luật để giải thích một hiện tượng; áp dụng các công thức, các định lí để giải một bài toán; thực hiện một thí nghiệm dựa trên một qui trình. Từ khóa: vận dụng, tính toán, chứng minh,… 4. Phân tích: Người học có khả năng chia các nội dung, các thông tin thành những phần nhỏ để có thể chỉ ra các yếu tố, các mối liên hệ, các nguyên tắc cấu trúc của chúng. Ví dụ: Lý giải nguyên nhân thất bại của một doanh nghiệp, hệ thống hóa các văn bản pháp qui, xây dựng biểu đồ phát triển của một doanh nghiệp. Từ khóa: phân tích, lý giải, so sánh, phân biệt, hệ thống hóa… 5. Đánh giá: Người học có khả năng đưa ra nhận định, phán quyết của bản thân đối với một vấn đề dựa trên các chuẩn mực, các tiêu chí đã có. Ví dụ: Phản biện một nghiên cứu, một bài báo; đánh giá khả năng thành công của một giải pháp; chỉ ra các điểm yếu của một lập luận. Từ khóa: bình luận, tổng hợp, so sánh… 6. Sáng tạo: Đạt được cấp độ nhận thức cao nhất này người học có khả năng tạo ra cái mới, xác lập thông tin, sự vật mới trên cơ sở những thông tin, sự vật đã có. Ví dụ: Thiết kế một mẫu nhà mới, xây dựng một hệ tiên đề mới; xây dựng hệ thống các tiêu chí để đánh giá một hoạt động; đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế; xây dựng cơ sở lý luận cho một quan điểm; lập kế hoạch tổ chức một sự kiện mới. Từ khóa: thiết kế, xây dựng, đề xuất…. Đối chiếu 6 cấp độ nhận thức đã phân tích với các mục tiêu về kiến thức, kỹ 5
  10. năng từ đó phát triển năng lực, phẩm chất cho người học khi người học đạt được cấp độ nhận thức nhớ và hiểu thì cũng đồng nghĩa với các mục tiêu kiến thức đã thỏa mãn. Để đạt các mục tiêu về kỹ năng người học cần có được hai cấp độ nhận thức cao hơn là vận dụng và phân tích. Và để đạt các mục tiêu cuối cùng là hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, người học cũng cần có được các cấp độ nhận thức cao nhất là khả năng đánh giá và khả năng sáng tạo. Như vậy để kiểm tra đánh giá đạt được hiệu quả thì trước hết GV cần phải xác định được mục tiêu bài học mà HS cần đạt đến và mức độ đánh giá tư duy nhận thức của HS. 1.2. Vận dụng thang tư duy Bloom trong dạy học môn Ngữ văn chương trình GDPT 2018 Với việc phân hóa các thang đo tư duy của tiến sĩ - nhà giáo dục Mỹ Benjamin Samuel Bloom ở trên, chúng ta hoàn toàn có thể vận dụng vào quá trình dạy học ở các nền giáo dục khác nhau, ở bất cứ các môn học nào, ở bất cứ các cấp học nào, đặc biệt ở môn Ngữ văn chương trình GDPT 2018. Sáu thang đo tư duy của Bloom mà sau này được học trò của Bloom là Anderson điều chỉnh không chỉ là những thang đo tư duy - nhận thức đơn thuần mà còn là những thang đo kĩ năng, năng lực và phẩm chất của người học trong từng tiết học, môn học. Môn Ngữ văn với những đặc thù riêng, vừa là môn học công cụ (ngôn ngữ và giao tiếp) vừa là môn học nghệ thuật (chân - thiện - mĩ) nên đòi hỏi GV không chỉ nắm vững kiến thức mà còn biết vận dụng các phương pháp dạy học hợp lí để đạt được hiệu quả cao nhất. Thang đo tư duy Bloom có thể được xem là một thành tựu lớn về phương pháp dạy học hiện đại, là nền tảng lí luận khoa học để GV dạy môn Ngữ văn vận dụng trong hầu hết các khâu của quá trình dạy học, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn. Dưới đây là những phạm vi có thể vận dụng thang đo tư duy Bloom trong dạy học môn Ngữ văn chương trình GDPT 2018: TT Phạm vi vận dụng Các hoạt động vận dụng cụ thể thang đo tư duy Bloom Đặt mục tiêu dạy - GV xây dựng kế hoạch bài dạy (soạn giáo án) 1 học - HS tự đặt mục tiêu bài học - GV vận dụng ở phương pháp phát vấn, gợi mở đàm Đặt hệ thống câu thoại và câu hỏi hoạt động nhóm. 2 hỏi - HS vận dụng trong hoạt động đặt câu hỏi phản biện - GV vận dụng vào việc đánh giá kết quả học tập của Xây dựng các HS sau một tiết học, một chuyên đề hay một học kì. 3 chuẩn kết quả học tập của học sinh -HS vận dụng vào việc đánh giá các bài nói của bạn trong các tiết đọc, viết, nói và nghe. 6
  11. Kiểm tra đánh giá - GV vận dụng trong việc ra đề kiểm tra, thiết lập ma 4 năng lực, phẩm trận các bài kiểm tra thường xuyên, kiểm tra giữa kì và chất người học kiểm tra cuối kì - GV đánh giá, cho điểm trong hoạt động dự giờ thao Đánh giá năng lực 5 giảng, dự giờ thi thực hành của đồng nghiệp, tự đánh người dạy (COT) giá bản thân sau tiết dạy của mình. Với phạm vi vận dụng rộng rãi ở trên, thang đo tư duy Bloom góp phần quan trọng vào việc định hướng cụ thể và khoa học cho GV Ngữ văn thực hiện các khâu: thiết kế bài dạy (soạn giáo án), thực hiện dạy học (đặt câu hỏi trong quá trình dạy ở lớp), kiểm tra đánh giá năng lực HS (trong và sau quá trình dạy). Có được thang đo tư duy Bloom, GV Ngữ văn sẽ khắc phục được những khó khăn mang tính đặc trưng môn học như cách đặt mục tiêu dạy học chưa khoa học, chưa rõ ràng, hệ thống câu hỏi còn cảm tính, đáng giá HS chỉ bằng thói quen và kinh nghiệm. Khắc phục được những khó khăn đó, GV Ngữ văn cũng sẽ thực hiện được những giờ dạy học văn có hiệu quả, phát huy được những ưu thế của môn học. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng vận dụng thang tư duy Bloom trong dạy học chương trình Giáo dục phổ thông 2018 môn Ngữ văn lớp 10, các tiết Nói và Nghe. Việc vận dụng thang đo tư duy Bloom trong dạy học vốn đã phổ biến trong hơn năm thập kỉ qua ở các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới và đã khẳng định được ưu điểm của phương pháp dạy học này - khuyến khích và phát triển các kĩ năng tư duy bậc cao ở người học. Ở Việt Nam chúng ta hiện nay, nhiều GV đã tích cực tìm tòi và vận dụng sáng tạo phương pháp dạy học này, đặc biệt phải kể đến các GV ở các trường THPT quốc tế, các trường chuyên, trường điểm. Hơn thế, ở một số ít trường học, thang đo tư duy Bloom còn trở thành tiêu chí đánh giá giờ dạy của GV (COT), cũng có một số ít các đề tài nghiên cứu, các sáng kiến đề cập đến khả năng vận dụng thang tư duy Bloom trong dạy học, tiêu biểu như đề tài “Vận dụng một số dạng câu hỏi theo các thang bậc tư duy của bloom trong dạy học ngữ văn 8 trung học cơ sở” của tác giả Lê Thị Hạnh. Trong đề tài này, tác giả đã đề xuất các dạng câu hỏi dựa trên mức độ tư duy cho một số bài dạy đọc hiểu văn bản Ngữ văn THCS, góp phần khắc phục những hạn chế trong việc đặt câu hỏi của giáo viên. Một số bài viết có giá trị khác trên các trang mạng giáo dục là những bài nghiên cứu nhỏ của một số nhà giáo dục, một số giảng viên. Ở đó, các tác giả tập trung nghiên cứu thang đo tư duy Bloom ở khía cạnh đặt câu hỏi, đặt mục tiêu hoặc kiểm tra đánh giá năng lực. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn chưa tìm thấy những đề tài nghiên cứu về thang đo tư duy Bloom trong dạy học các tiết nói và nghe trong chương trình GDPT 2018. Điều này cũng bình thường bởi vì đây là chương trình GDPT được áp dụng năm đầu tiên ở lớp 10 THPT. Việc vận dụng thang tư duy Bloom trong dạy học môn Ngữ Văn nói chung, các tiết nói và nghe vẫn đang ở mức thử nghiệm, tìm tòi và nghiên cứu. Thực trạng này vừa là cơ hội vừa là thử thách để các nhà giáo 7
  12. dục, các GV tâm huyết đổi mới giáo dục bắt tay vào việc vận dụng, ứng dụng thang đo tư duy Bloom trong dạy học môn Ngữ văn. Để thấy rõ hơn thực trạng trên, chúng tôi tiến hành khảo sát bằng phiếu trả lời trắc nghiệm online trên Google Form và nhận được kết quả dưới đây (khảo sát ý kiến của 68 GV Ngữ văn trên địa bàn cả nước). Link khảo sát https://forms.gle/T9HjsCHR1RsvVJsw7 Kết quả khảo sát trên cho thấy thực tế tỉ lệ GV Ngữ văn từng nghiên cứu hoặc được tập huấn và vận dụng về phương pháp dạy học theo thang đo tư duy Bloom cao hơn (27.9,% đến 29, 4%) so với tỉ lệ GV từng vận dụng và có những thành công (7,4%). Các GV cũng đặc biệt quan tâm đến phương pháp dạy học này. Có đến 65,5% Gv quan tâm và 25,5% GV rất quan tâm (trong tổng số 55 GV tham gia khảo sát) đến việc vận dụng thang đo tư duy Bloom trong dạy học Ngữ văn. Mặt khác, phần dạy học các tiết nói và nghe trong chương trình Ngữ văn 2018 ở lớp 10 là phần nội dung chương trình hoàn toàn mới. Trong chương trình Ngữ văn 2006, hầu hết các hoạt động nói và nghe được thực hiện một phần nhỏ trong các tiết dạy học đọc hiểu văn bản, khi GV thiết kế hoạt động thuyết trình, làm việc nhóm và ở 2 tiết “Phát biểu theo chủ đề” và “Phát biểu tự do” (Ngữ văn 12). Nhưng nhìn chung hoạt động nói và nghe vẫn đang ở mức độ rất ít. Chương trình Ngữ văn GDPT 2018 đã thiết kế hoạt động nói và nghe thành từng tiết dạy độc lập ở mỗi bài, đặt song song với hoạt động đọc viết nhằm phát triển đồng đều và toàn diện các kĩ năng: Đọc, viết, nói và nghe. Đây được xem là điểm sáng, là đổi mới và ưu thế của môn Ngữ văn GDPT 2018. Thực tế này đặt ra cho chúng ta yêu cầu về việc nghiên cứu, ứng dụng và thực nghiệm những phương pháp dạy học hiện đại, những lý luận dạy học tiên tiến góp phần định hướng, khắc phục khó khăn của GV trong dạy học các tiết nói và nghe cũng như nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học ở các tiết học mới mẻ này. 2.2. Khả năng vận dụng thang tư duy Bloom trong dạy học chương trình Giáo dục phổ thông 2018 môn Ngữ Văn lớp 10, các tiết Nói và Nghe. Từ thực trạng vận dụng thang đo tư duy Bloom trong dạy học môn Ngữ văn GDPT 2018 nói chung và các tiết nói và nghe được trình bày ở trên, chúng tôi có thể khẳng định khả năng vận dụng thang đo tư duy Bloom vào dạy học môn Ngữ văn nói chung và phần nói và nghe nói riêng là khả quan, thiết thực và hiệu quả. Thống kê số tiết Nói và nghe từ PPCT Ngữ văn 10 tại trường THPT chúng tôi giảng dạy, có 9/ 105 tiết/ năm học (xem phụ lục 4) 8
  13. TT Tiết Tên bài 1 10 Giới thiệu, đánh giá nội dung nghệ thuật của một tác phẩm truyện 2 21 Giới thiệu, đánh giá nội dung nghệ thuật của một tác phẩm thơ 3 33 Thảo luận về một vấn đề có ý kiến khác nhau 4 42 Trình bày kết quả nghiên cứu về một vấn đề 5 52 Lắng nghe và phản hồi về kết quả thuyết trình một bài nghiên cứu 6 65 Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau 7 76 Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau 8 90 Thảo luận về văn bản nội qui hoặc văn bản hướng dẫn nơi công cộng 9 103 Thuyết trình một vấn đề xã hội có sử dụng kết hợp phi ngôn ngữ So với các môn khoa học tự nhiên, việc vận dụng các thang đo tư duy từ bậc thấp nhất (nhớ) đến bậc cao nhất (sáng tạo) vẫn dễ dàng hơn so với các môn khoa học xã hội, đặc biệt là môn Ngữ văn. Tuy nhiên với yêu cầu ngày càng cao về chuẩn đầu ra của chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, việc dạy học môn ngữ văn không chỉ dừng ở việc cảm thụ văn chương mà phải đạt được năng lực vận dụng, phân tích, đánh giá và sáng tạo khi học. Trong các tiết nói và nghe, HS đều phải đạt ở mức độ hiểu, biết, vận dụng và đánh giá được nội dung và hình thức hoạt động nói và nghe của chính mình và của các bạn trong lớp. Đồng thời, có thể nói một cách sáng tạo và nghe một cách sáng tạo để đạt hiệu quả cao nhất. Kết quả khảo sát khả năng vận dụng thang đo tư duy Bloom trong dạy học tiết nói và nghe dưới đây thể hiện rõ tính khả quan của phương pháp dạy học và phạm vi dạy học mà chúng tôi đề xuất. Kết quả cho thấy trong số 62 GV được khảo sát về khả năng vận dụng thang đo tư duy Blom trong dạy học môn Ngữ văn 2018, có 61,5% GV đánh giá “có khả năng”, 25% đánh giá “có khả năng cao” và 13,5% đánh giá bình thường, 0% đánh giá không có khả năng. 9
  14. Khi khảo sát sâu hơn khả năng vận dụng thang đo tư duy Bloom trong các tiết nói và nghe trong chương trình Ngữ văn GDPT 2018, lớp 10 hiện hành có 54 GV tham gia khảo sát, trong đó có 63% GV cho rằng có ưu thế và 29,6% cho rằng có nhiều ưu thế, trong khi chỉ có 7,4% cho là bình thường và 0% cho là không có ưu thế. Tương tự, khảo sát việc vận dụng thang đo tư duy Bloom trong dạy học nói và nghe có cần thiết và hiệu quả không, có đến 55,6% Gv cho là cần thiết và hiệu quả, 31,5% cho là rất cần thiết và hiệu quả. Kết quả ở trên cho thấy hầu hết các GV đều đánh giá cao đề tài nghiên cứu và tính thực tiễn, tính ứng dụng và tính khả thi của đề tài nghiên cứu. Mặt khác, có một số kết quả nghiên cứu việc vận dụng thang đo tư duy Bloom vào hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở các bậc học khác nhau đã đem lại những hiệu quả thiết thực. Từ đó, chúng tôi mạnh dạn đánh giá khả năng vận dụng lí luận dạy học này vào dạy học các tiết nói và nghe, chương trình GDPT 2018 môn Ngữ văn là rất cao. Từ đó, chúng tôi tiến hành tìm tòi, nghiên cứu và đúc kết được những biện pháp và phạm vi vận dụng ở phần II của đề tài. Chúng ta không thể nào mong rằng học sinh nói chung, sẽ tự mình tiến lên được sáu bậc thang tư duy của Bloom trong quá trình học môn Ngữ văn. Vì thế, GV cần vận dụng các thang đo tư duy Bloom trong dạy học càng nhuần nhuyễn, nhịp nhàng càng dễ dàng dẫn dắt HS đạt đến các thang tư duy bậc cao. Vì thực tế bản chất của giáo dục là phải giúp HS phát triển trình độ nhận thức của mình lên từng bậc cao hơn, và cuối cùng phát triển được khả năng suy nghĩ độc lập của mỗi học sinh. Bản chất đó thể hiện rất rõ trong việc dạy học môn Ngữ văn chương trình GDPT 2018. Trong những năm gần đây, cùng với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện dạy học hiện đại như: máy tính, máy chiếu, bảng, biểu và các phần mềm dạy học…, các GV đã ngày càng đầu tư vào nhiều khâu trong quá trình dạy học như: soạn giáo án điện tử, dạy máy chiếu (ti vi) đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá học sinh. Những thay đổi trên đem đến cho môn Ngữ văn ở trường THPT một sức sống mới. Tuy nhiên, rất cần một nền tảng lí luận dạy học khoa học, tiên tiến và hiệu quả làm định hướng để những đổi mới trên thực sự hiệu quả. Vận dụng thang tư duy Bloom vào các khâu của quá trình dạy học là một hoạt động thiết thực và hiệu quả trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, đặc biệt là dạy học nói và nghe ở lớp 10, GDPT 2018. 10
  15. II. Một số biện pháp vận dụng thang tư duy Bloom trong dạy học chương trình Giáo dục phổ thông 2018 môn Ngữ Văn lớp 10, các tiết Nói và Nghe 1. Vận dụng thang tư duy Bloom trong việc đặt mục tiêu dạy - học tiết nói và nghe Mục tiêu bài học là những tiêu chí, mục đích mà HS phải chỉ ra, phải thể hiện và phải làm được sau bài học. “Mục tiêu bài học là một lời phát biểu mô tả kết quả thực hiện đã dự định của người học vào cuối buổi dạy” (Robert F. Mager, 1994). Mục tiêu bài học là kết quả cuối cùng mà người học cần đạt được sau mỗi tiết học, bài học và chuyên đề dạy – học. Trong bất cứ một bài học nào, GV đều cần đặt ra mục tiêu bài học để HS hiểu rõ, nắm vững và làm được sau bài học. Mục tiêu bài học là bước đầu tiên và quan trọng trong quá trình thiết kế kế hoạch dạy học của GV. Khi đặt ra mục tiêu bài học, người dạy phải căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng, năng lực, phẩm chất cần đạt cũng như đối tượng HS cụ thể. Việc xác định mục tiêu dạy học có ý nghĩa hết sức quan trọng, một bài học thiếu mục tiêu hoặc xác định mục tiêu không rõ ràng, không đúng thì sẽ dẫn đến GV không xác định được đích đến, không biết mình đang đi đâu. Vì vậy, từ trước đến nay, tất cả các bài học đều được đặt mục tiêu trong sách giáo khoa (qua mục Yêu cầu cần đạt/ yêu cầu) và trong kế hoạch dạy học (qua mục Mục tiêu cần đạt). Chương trình GDPT 2018 đã đề cao việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người học, lấy người học là chủ thể trung tâm của hoạt động học. Vì thế, GV cần có sự thay đổi về nhận thức và cách đặt mục tiêu bài học để đem đến những kết quả cụ thể trong hoạt động dạy – học. Nếu trước đây, mục tiêu bài học thường là: GV giúp học sinh hiểu được/ biết được/ nắm được… Đây là mục đích cần làm của GV chứ không phải mục tiêu cần đạt của HS. Vì thế, đặt mục tiêu cần đạt phải đảm bảo hai yêu cầu sau: Thứ nhất, phải đề ra mục tiêu cho người học cần đạt được; thứ hai, phải dùng các động từ cụ thể, chính xác, có tính đo lường rõ ràng để người học thực hiện (Hiểu được, biết được, trình bày được, vận dụng được, đánh giá được, phân tích được và sáng tạo được). Khi vận dụng thang đo tư duy Bloom trong việc đặt mục tiêu bài học sẽ hoàn toàn đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản trên. 1.1. Đặt mục tiêu về kiến thức Đặt mục tiêu về kiến thức trong nghiên cứu và đề xuất của chúng tôi được vận dụng cụ thể ở từng đơn vị kiến thức nhỏ trong một bài dạy. Có thể đặt mục 11
  16. tiêu cho hoạt động khởi động, cho các thao tác của hoạt động hình thành kiến thức mới hoặc ở các yêu cầu về phần luyện tập, vận dụng trong một kế hoạch dạy học tiết nói và nghe. Để có những đề xuất và định hướng đầy đủ, chính xác hơn cho phần đặt mục tiêu bài học, chúng tôi đã chia 9 tiết nói và nghe trong toàn bộ chương trình Ngữ văn 10, GDPT 2018 thành 4 nhóm chủ đề khác nhau dưới đây (dựa vào Phân phối chương trình tại trường chúng tôi giảng dạy, xem phụ lục 4) Nhóm chủ đề nói và nghe Ngữ văn 10 Nhóm 1: Nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá nội dung nghệ thuật của một tác phẩm văn học (truyện hoặc thơ) (Tiết 10, 21) Nhóm 2: Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội/ một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau (Tiết 33, 65 và 76) Nhóm 3: Nói và nghe: Trình bày, lắng nghe, phản hồi kết quả nghiên cứu về một vấn đề (Tiết 42, 52) Nhóm 4: Nói và nghe: Thảo luận, thuyết trình về một văn bản nội qui hoặc văn bản hướng dẫn nơi công cộng hoặc một vấn đề xã hội có sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ (Tiết 90, 103) Mục tiêu bài học theo B.J.Bloom đề xuất như sau: Nhớ, hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá, sáng tạo. Từ đó khi viết mục tiêu về kiến thức cho các tiết dạy nói và nghe có thể sử dụng các động từ phù hợp với từng cấp độ về kiến thức. Ở đây, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu việc đặt mục tiêu bài học cho nhóm nội dung Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Tiết 33, tiết 65) Mức độ Nội dung kiến thức cần đạt của nói và Các động từ thường được của thang nghe sử dụng Bloom Nhớ và - HS nhớ và hiểu được nội dung bài nói Trình bày, nhắc lại, nêu, kể Hiểu - HS Tóm tắt được nội dung bài nói, lại, liệt kê, khái quát hóa, khái quát được các luận điểm của bài phân biệt, giải thích nói. Vận dụng - HS vận dụng được những kiến thức về - Vận dụng, văn nghị luận để thuyết phục người - Chứng minh, nghe về ý kiến của mình - Giải thích, - HS lí giải được tính đúng đắn của vấn đề xã hội mà mình chọn bằng lý lẽ và - Bàn luận, liên hệ… dẫn chứng. 12
  17. Phân tích - HS phân tích được những khía cạnh - Phân tích, lý giải, so sánh, khác nhau của vấn đề xã hội – ý kiến - Lập biểu đồ, Phân biệt, mà mình lựa chọn và thuyết phục. - Hệ thống hóa… Đánh giá - HS đưa ra những đánh giá, những ý - Đánh giá, bình luận, so kiến và kiến giải riêng của bản thân từ sánh, tổng hợp, nêu ý kiến những khía cạnh đã phân tích ở trên. Sáng tạo - HS tạo ra những sản phẩm nói (Ví dụ - Viết/ ghi chép bằng sơ đồ như tranh, ảnh, kịch bản, video, slide, tư duy, hình ảnh minh họa… trang web có giá trị thực tế) - Vẽ , tạo/ thiết kế bài nói - Hs tạo ra sản phẩm nghe - Đóng vai/ nhập vai minh họa cho nội dung bài nói. - Làm video/ làm slide thuyết trình… Trong giáo án thực nghiệm, chúng tôi đặt phần mục tiêu bài học tương ứng với mỗi phần kiến thức và ở mỗi mục tiêu có những tiêu chí cụ thể để đánh giá người học. 1.2. Đặt mục tiêu về kĩ năng Đặt mục tiêu kĩ năng là yêu cầu quan trọng nhất của các tiết nói và nghe. CT GDPT môn Ngữ văn 2018 cũng đã nêu rõ quan điểm xây dựng: “Lấy các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của CT theo định hướng NL và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp/ lớp. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học được tích hợp vào hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập VB; phục vụ trực tiếp cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe”(Tr13.8). Mặt khác, CT GDPT môn Ngữ văn 2018 được xây dựng theo hướng mở: “CT chỉ quy định các YCCĐ về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp; quy định các kiến thức cơ bản, cốt lõi về văn học, tiếng Việt và một số ngữ liệu bắt buộc. Việc lựa chọn nội dung dạy học để biên soạn SGK dành quyền chủ động cho tác giả; việc tổ chức dạy học, soạn đề thi, kiểm tra đánh giá… dành quyền chủ động cho các cơ sở giáo dục và GV miễn là đáp ứng các YCCĐ được quy định trong CT.”(Tr15.8). Với những định hướng trên, GV cần đặt mục tiêu bài học không chỉ về kiến thức mà còn về kĩ năng: Nghe, nói, đọc viết trong việc phát triển các phẩm chất năng lực cho người học. Đặc biệt, trong các tiết nói và nghe, mục tiêu bài học chủ yếu tập trung vào việc hình thành, phát triển và hoàn thiện hai kĩ năng quan trọng (nói và nghe) trong trục bốn kĩ năng (đọc, viết, nói và nghe) 13
  18. Điểm khác biệt lớn nhất của Chương trình GDPT 2018 so với Chương trình GDPT 2006 là sự chuyển hướng hoàn toàn từ chương trình coi trọng truyền đạt kiến thức sang chương trình chú trọng phát triển phẩm chất và năng lực, lấy các kĩ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết làm trục chính. Trong đó, Chương trình GDPT 2018 đã quy định rõ thời lượng dành cho hoạt động nói và nghe là 10% số tiết của năm học. Lộ trình dạy học kĩ năng nói và nghe trong chương trình có sự nhất quán, liên tục cả ba cấp học. Ở cấp THPT, Chương trình định hướng người dạy tiếp tục phát triển các năng lực đã hình thành ở cấp trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao hơn: Nói và nghe linh hoạt; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung cũng như hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có chủ kiến, cá tính, có thái độ tranh luận phù hợp. Chương trình GDPT 2018 quy định cụ thể về các kĩ năng cần đạt trong học tập nói và nghe ở cấp phổ thông như sau: Về kĩ năng nói: - Yêu cầu về âm lượng, tốc độ, sự liên tục trong lời nói với hành động hỗ trợ lời nói. - Yêu cầu về diễn đạt, trình bày. - Yêu cầu về thái độ - Yêu cầu về cử chỉ, điệu bộ, các phương tiện phi ngôn ngữ hỗ trợ Về kĩ năng nghe - Yêu cầu về cách lắng nghe - Yêu cầu về cách ghi chép nội dung nói - Yêu cầu về cách phản hồi nội dung nói/ hình thức nói/ các vấn đề nảy sinh trong hoạt động nói - Yêu cầu về cách đặt câu hỏi cho người nói/ cách trả lời hoặc giải đáp với người nói trong quá trình trao đổi - Yêu cầu về thái độ nghe - Yêu cầu về sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ nghe, sử dụng các phương tiện kĩ thuật hỗ trợ nghe. Từ các yêu cầu cụ thể trên, chúng ta có thể dựa vào thang tư duy Bloom để xác định cụ thể các mức độ cần đạt của kĩ năng này như sau: Mức độ của Kĩ năng nói Kĩ năng nghe thang Bloom Nhớ và Phân biệt được nói thông Phân biệt được nghe thông Hiểu thường và nói chuyên biệt thường và nghe chuyên biệt trong các tiết học nói và nghe trong các tiết học nói và nghe môn Ngữ văn môn Ngữ văn - Hiểu rõ nội dung bài nói. 14
  19. Vận dụng Vận dụng tối đa vốn ngôn ngữ, Vận dụng tối đa các hình thức cách diễn đạt trong văn nghị lắng nghe và ghi chép. luận Phân tích - Chia nội dung nói thành các - Nắm được các luận điểm và luận điểm rõ ràng, dễ hiểu, dễ nội dung trọng tâm của bài nói tiếp nhận - Chỉ ra điểm mạnh và điểm - Nhấn mạnh được các luận yếu, ưu và nhược điểm, mặt tốt điểm quan trọng, giúp người và mặt hạn chế về nội dung , nghe nắm được nội dung trọng cách thức của bài nói. tâm của bài nói Đánh giá Thể hiện sự đánh giá vấn đề Nghe được các khía cạnh: phong thảo luận thông qua ngôn ngữ, cách trình bày, giọng điệu, âm cử chỉ, lời nói phù hợp lượng để đánh giá được sức thuyết phục của người nói. Sáng tạo Có thể đa dạng hóa các hình Có thể đa dạng hóa hình thức thức nói, kết hợp nói với hình ghi chép, phản hồi như vẽ sơ đồ, ảnh, trang phục… kể câu chuyện… Cần lưu ý là kĩ năng nói và nghe luôn tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau. Người nói cần tạo ra được kết nối, tương tác với người nghe, tích cực nhận thông tin phản hồi. Khi nắm bắt được những tri thức nền về chủ đề, thông tin bổ ích về kĩ năng nói và nghe, HS sẽ dần phát triển và hoàn thiện dần các KN nói và KN nghe , từ đó, sẽ tự điều chỉnh hành vi để thực hành nói và nghe tốt hơn. 1.3. Đặt mục tiêu về năng lực, phẩm chất Trong hoạt động nói và nghe của môn Ngữ văn, có nhiều năng lực và phẩm chất cần hình thành và phát triển. Khi đặt mục tiêu về năng lực phẩm chất, GV cần chú ý ứng dụng 6 thang đo tư duy Bloom trong đặt mục tiêu, ở đây chúng tôi chỉ rõ cách đặt như sau: 1.3.1. Mục tiêu về năng lực: Môn Ngữ văn nói chung cũng như các môn học khác trong chương trình GDPT 2018 đều hướng tới hình thành và phát triển các năng lực chung và năng lực đặc thù. Trong các tiết nói và nghe, GV có thể đặt mục tiêu dựa trên các thang đo tư duy Bloom bằng các động từ nhớ/ hiểu/ vận dụng/ phân tích/ đánh giá/ sáng tạo. Năng lực chung: -Tự chủ và tự học: Tự quyết định cách giải quyết vấn đề học tập, tự đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, giải quyết vấn đề học tập của bản thân và các bạn. - Giao tiếp và hợp tác: Tăng cường khả năng trình bày, diễn đạt ý kiến, ý tưởng trước lớp, tổ nhóm học tập, tương tác tích cực với các bạn trong tổ nhóm, khi thực 15
  20. hiện nhiệm vụ hợp tác. - Giải quyết vấn đề và sáng tạo: Chủ động đề ra kế hoạch học tập, thực hiện nhiệm vụ học tập cá nhân và nhóm học tập, xử lí linh hoạt sáng tạo các tình huống phát sinh khi thực hiện nhiệm vụ học tập. Năng lực cốt lõi: Nói và nghe - Biết thảo luận về một vấn đề đời sống có ý kiến khác nhau - Nghe và nắm bắt được nội dung truyết trình, quan điểm của người nói. Biết nhận xét về nội dung và hình thức thuyết trình. Nói nghe tương tác Biết thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau; đưa ra được những căn cứ thuyết phục để bảo vệ hay bác bỏ một ý kiến nào đó. 1.3.2. Đặt mục tiêu về phẩm chất: - Chăm chỉ, nghiêm túc và tích cực trong các hoạt động nói và nghe - Tự tin thể hiện bản thân, tự chịu trách nhiệm về ý kiến phát biểu của bản thân. - Biết lắng nghe, tôn trọng người đối thoại. - Biết hài hòa các quan điểm khác nhau giữa các bạn trong lớp khi thảo luận. 2. Vận dụng thang tư duy Bloom trong việc đánh giá kĩ năng nói và nghe của học sinh bằng Rubric 2.1. Sử dụng Rubric Rubric là một từ ngữ có nguồn gốc từ Latin là Ruber, nghĩa là đỏ (red – trong tiếng anh). Rubric còn được xem là tiêu đề của các đoạn văn trong sách cổ, được in màu đỏ. Từ nghĩa gốc đó, hiện nay Rubric trong dạy học được coi là một công cụ để đánh giá/ đo lường/ chấm điểm của các giáo viên trong các tiết dạy học nhằm góp phần hỗ trợ việc đánh giá một cách chi tiết, khoa học một sản phẩm hoặc một hoạt động học tập của học sinh. Đây là một phương tiện và cách thức dạy học mới mẻ và hiệu quả trong quá trình đổi mới giáo dục, đặt người học vào vị trí chủ thể, trung tâm của hoạt động học và đề cao việc hoàn thiện các kĩ năng, năng lực và phẩm chất của người học. Sử dụng Rubric trong dạy học có vai trò to lớn trong việc tăng cường sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau giữa giáo viên và học sinh. GV và HS bao giờ cũng sẽ cùng nhau xây dựng rubric để việc đánh giá cho điểm HS trở nên công bằng, dân chủ, khoa học và chính xác. Tính ưu việt của Rubric thể hiện ở chỗ cùng một lúc có thể vừa cho điểm, vừa xếp loại kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập. Trong quá trình kiểm tra đánh giá các mức độ tư duy của HS ở môn Ngữ văn thường sử dụng một trong hai loại Rubric: định tính hoặc định lượng. Mô hình Rubric định tính, đánh giá mức độ tư duy nhận thức của HS có thể được thiết kế thành hai cột: - Cột thứ nhất ghi mức độ điểm số mà HS đạt được. 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2