intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng trí thông minh đa dang vào dạy học truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam (Ngữ văn 11)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:44

14
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu sáng kiến "Vận dụng trí thông minh đa dang vào dạy học truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam (Ngữ văn 11)" nhằm giúp học sinh có khả năng tự nhận thức đúng về bản thân mình: có khả năng gì nổi trội, không so sánh với người khác, chỉ so với bản thân mình - trong sự tiến bộ của mình. Từ đó, học sinh có niềm tin vào chính bản thân mình đồng thời tin tưởng vào người khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng trí thông minh đa dang vào dạy học truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam (Ngữ văn 11)

  1. SỞ GD&ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT NGUYỄN SỸ SÁCH ----------------  SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM VẬN DỤNG TRÍ THÔNG MINH ĐA DANG VÀO DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN “HAI ĐỨA TRẺ” CỦA THẠCH LAM (NGỮ VĂN 11) Môn : Ngữ Văn Tổ bộ môn : Ngữ văn – Ngoại ngữ Tên tác giả : Phan Thị Hà Năm thực hiện : 2021 - 2022 Số điện thoại : 0366 374 701 Nghệ An 2022
  2. MỤC LỤC TT NỘI DUNG TRANG 1. Mục lục…………………………………………………….. 1 2. A. Mở đầu ……………………………………………….. 3 I. Lí do chọn đề tài ………………………………………... 3 3. II. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu……………………….… 4 4. III. Mục đích, ý nghĩa của đề tài…………………………… 4 5. IV. Phương pháp nghiên cứu ….…………………………… 5 6. V. Cấu trúc của đề tài ………………………………………. 5 7. B. Nội dung 6 8. I. Cơ sở của đề tài 6 9. 1. Cơ sở lí luận 6 10. 1.1. Định hướng phát triển năng lực là quan điểm chủ đạo 6 trong việc thiết kế chương trình GDPT 2018………………. 11. 1.2 Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong việc bồi dường năng lực 6 giải quyết vấn đề thực tiễn…………………………………. 12. 2. Cơ sở thực tiễn 11 13. 2.1. Một số khó khăn của học sinh trong việc học môn Ngữ 11 văn ở trường THPT Nguyễn Sỹ Sách 14. 2.2. Một số khó khăn của giáo viên trong việc giảng dạy môn 12 Ngữ văn ở trường THPT Nguyễn Sỹ Sách 15. II. Vận dụng trí thông minh đa dạng vào dạy học truyện 13 ngắn “Hai đứa trẻ”……………………………………….. 16. 1. Lựa chọn một số loại hình trí thông minh phù hợp để vận 13 dụng trong dạy học truyện ngắn “Hai đứa trẻ”……………… 17. 2. Xác định rõ các bước tổ chức thực hiện khi dạy học truyện 16 ngắn “Hai đứa trẻ” theo hướng vận dụng trí thông minh đa dạng………………………………………………………... 18. 3. Hướng dẫn cách thức phát triển ở mỗi loại hình trí thông 18 minh, góp phần hình thành năng lực cụ thể ở học sinh……. 2
  3. 19. III. Triển khai thực hiện 18 20. 1. Hình thành ý tưởng……………………………………… 18 21. 2. Khảo sát thực tiễn……………………………………….. 19 22. 3. Đúc rút kinh nghiệm…………………………………….. 20 23. 4. Áp dụng thực tiễn………………………………………... 20 24. 5. Đánh giá hiệu quả………………………………………... 21 25. IV. Thẩm định của Hội đồng khoa học cấp trường……… 21 26. C. Kết luận…….…….…….…….…….…….…….…….… 24 27. I. Đóng góp của đề tài ……………………………….…….. 24 28. II. Hướng dẫn sử dụng đề tài ……………………………… 24 29. III. Đề xuất…………………………………………………. 24 30. Phụ lục……………………………………………………... 26 31. Phụ lục 1: Thiết kế giáo án “Hai đứa trẻ” theo hướng vận 26 dụng trí thông minh đa dạng…..……………………………. 32. Phụ lục 2: Phiếu điều tra kết quả kết quả học tập văn bản 36 “Hai đứa trẻ”……………………………………………….. 33. Phụ lục 3: Kịch bản “Những kiếp người tàn”……………… 37 34. Phụ lục 4: Một số sản phẩm của học sinh………………….. 40 35. Phụ lục 5: Lời bài hát “Hai đứa trẻ”……………………….. 42 36. Tài liệu tham khảo…….…….…….…….…….…….……... 43 3
  4. A. MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Một trong những vấn đề cốt lõi của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là phải chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học. Từ đó rèn luyện cho học sinh năng lực vận dụng kiến thức nhằm giải quyết các vấn đề trong học tập và trong thực tiễn. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm chú trọng phát triển kỹ năng, năng lực của học sinh là phương hướng phù hợp với nhịp độ phát triển của thời đại đổi mới của đất nước. Nắm được phương pháp trên và đưa nó ứng dụng vào giảng dạy, học tập môn Ngữ văn ở trường THPT đối với các nhà quản lý giáo dục và đặc biệt đối với các giáo viên đứng lớp là điều hết sức quan trọng để có thể góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong thời kì hiện đại. 2. Trong trường phổ thông, Ngữ văn là một môn học có đặc thù riêng, vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Do đó dạy học Ngữ văn là phải thể hiện được tài năng sư phạm, kĩ năng sư phạm của người giáo viên để đưa học sinh hòa mình trong tác phẩm, rung động với nó, lắng nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Từ đó, học sinh có thể khám phá ý nghĩa từng câu, từng chữ, cảm nhận sức sống của từng hình ảnh, hình tượng nhân vật, theo dõi được diễn biến cốt truyện… làm cho một văn bản khô khan trở thành một thế giới sống động đầy sức cuốn hút. Và để làm được điều đó, giáo viên phải là người biết thiết kế, tổ chức các hoạt động để học sinh có thể tự chiếm lĩnh được kiến thức, hình thành cho học sinh những năng lực cần thiết … Làm được như thế thì giờ học tác phẩm văn học, hay còn gọi là giờ Đọc - hiểu văn bản mới đến được cái đích cần đến. Như vậy, dạy học Ngữ văn là làm sao để học sinh lĩnh hội được tri thức một cách tốt nhất thông qua “hoạt động tích cực”. Tức là học sinh phải được trực tiếp tiếp xúc, tìm hiểu, khám phá vấn đề. Để lĩnh hội tri thức, học sinh có thể đọc, phân tích văn bản thông qua hoạt động chỉ đạo của giáo viên. Nhưng để mở rộng, khắc sâu kiến thức thì rất cần đến việc sử dụng linh hoạt các phương pháp, phương tiện dạy học, từ đó từng bước nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn nói riêng, chất lượng giáo dục trong mỗi cơ sở giáo dục nói chung. 3. Việc lựa chọn phương pháp dạy học để phát triển năng lực học sinh (dạng thức thông minh) là một phương pháp cực kì quan trọng trong giai đoạn giáo dục có nhiều đổi mới như hiện nay. Trước đây, trí thông minh con người thường được đo bằng chỉ số IQ, chủ yếu đánh giá năng lực tư duy của con người thông qua những bài trắc nghiệm trên giấy. Tuy nhiên năm 1983, giáo sư tâm lí học người Mĩ - Howard Gardner đã phát hiện ra rằng trí thông minh của con người là rất rộng lớn với nhiều loại hình thông minh khác nhau: Ngôn ngữ, logic/toán học, âm nhạc, không gian, vận động, giao tiếp, nội tâm và tự nhiên… Do đó khi nghiên cứu mang tên “Thuyết đa trí tuệ” của giáo sư Howard Gardner được công bố thì người ta nhận thấy những 4
  5. đóng góp khoa học của ông đã đem đến những nhận thức mới về trí tuệ con người. Theo “Thuyết đa trí tuệ” thì trí thông minh trở thành “khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra sản phẩm mà các giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay nhiều môi trường văn hóa và trí thông minh cũng không thể chỉ được đo lường duy nhất qua chỉ số IQ”. Việc tồn tại tất cả các trí thông minh với mức độ cao, thấp khác nhau sẽ ảnh hưởng đến thiên hướng tiếp thu năng lực trí tuệ nào hiệu quả hoặc kém hiệu quả. Thêm nữa, trí thông minh không phải là cái bất biến. Thông qua đào tạo có thể tạo điều kiện phát triển hoặc làm thui chột năng lực trí tuệ của học sinh. Vì thế, có thể xem việc kế thừa những thành tựu trong nghiên cứu của Howard Gardner về trí thông minh đa dạng như một gợi ý để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp trong tất cả các môn học, trong đó có Ngữ văn. Trong quá trình dạy học của bản thân, tôi đã từng trăn trở, tìm tòi và thể nghiệm việc vận dụng trí thông minh đa dạng (hay còn gọi là thuyết đa trí tuệ) của giáo sư Howard Gardner trong dạy học các văn bản văn học và đã có những thành công đáng kể nhằm đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng môn Ngữ văn ở trường THPT Nguyễn Sỹ Sách. Vì vậy tôi xin trình bày đề tài: Vận dụng trí thông minh đa dang vào dạy học truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam (Ngữ văn 11). Đề tài này là công trình nghiên cứu của bản thân tôi, chưa được cá nhân, tập thể và công trình khoa học giáo dục nào công bố trên các tài liệu sách báo và diễn đàn giáo dục hiện nay. II. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 2.1. Phạm vi nghiên cứu - Vận dụng trí thông minh đa dạng (hay còn gọi là thuyết đa trí tuệ) trong dạy học văn bản “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam trong chương trình Ngữ văn 11. 2.2. Đối tượng nghiên cứu - Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam Ngữ văn 11, tập 1 - Học sinh lớp 11C4, trường THPT Nguyễn Sỹ Sách và một số lớp ở các trường cụm huyện Thanh Chương, Nghệ An. III. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI 1. Đối với giáo viên: Tạo được hứng thú say mê học tập, kích thích sự sáng tạo, chủ động của học sinh, đặc biệt là phát huy được những năng lực tiềm ẩn trong học sinh khi vận dụng các phương pháp dạy học hiện đại. Thông qua cách dạy học này, giáo viên có thể phát hiện năng lực riêng của từng em, từ đó nuôi dưỡng, giáo dục các em trưởng thành bằng năng lực chính của mình. Phát hiện và đồng hành cùng các em trong việc tìm ra các năng lực sở trường để kết hợp với nhà trường tạo dựng niềm tin, đam mê cũng như sự sáng tạo của học sinh. 5
  6. Định hướng nghề nghiệp cho học sinh ngay từ lúc bước vào trường THPT (lớp 10, thậm chí sớm hơn nữa, lớp 6,7,8…). Đồng thời không gây áp lực về bệnh thành tích, học sinh không nhất thiết cứ phải giỏi Toán, Tiếng Việt mới là “học sinh giỏi”. Đánh giá năng lực học sinh dựa trên Lí thuyết đa trí tuệ giúp mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh, giữa giáo viên với phụ huynh, giữa phụ huynh và con cái, giữa học sinh với nhau trở nên thân thiện, gần gũi và có ý nghĩa vô cùng mạnh mẽ, tác động tới tâm lí, tinh thần của ở độ tuổi rất nhạy cảm này. 2. Đối với học sinh: - Giúp học sinh có khả năng tự nhận thức đúng về bản thân mình: có khả năng gì nổi trội, không so sánh với người khác, chỉ so với bản thân mình - trong sự tiến bộ của mình. Từ đó, học sinh có niềm tin vào chính bản thân mình đồng thời tin tưởng vào người khác. Học sinh yêu thích đến trường, mạnh dạn, tự tin.... - Giúp học sinh có cơ hội phát triển tối đa năng lực của bản thân ngay từ lúc còn nhỏ: Việc đánh giá học sinh dựa trên lí thuyết đa trí tuệ sẽ có nhiều tác dụng: phát triển tư duy, trí thông minh, phát triển cảm xúc... của học sinh; giúp cho kết quả học tập có tính bền vững; khai thác và làm phong phú được vốn sống và kinh nghiệm của học sinh; giúp học sinh giải quyết được các tình huống khác nhau của cuộc sống, nâng cao chất lượng cuộc sống của mình; làm cho việc học tập trở nên tự giác, thú vị hơn, thích thú hơn, hấp dẫn hơn. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp, đối chiếu. - Phương pháp thu thập, khảo sát, so sánh số liệu. - Phương pháp giảng dạy thực nghiệm. V. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI Ngoài Mở đầu và Kết luận, nội dung đề tài tập trung vào một số vấn đề chính như sau: 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài 2. Vận dụng trí thông minh đa dạng vào dạy học truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam (Ngữ văn 11). 3. Triển khai thực hiện 4. Thẩm định của Hội đồng khoa học cấp trường 6
  7. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận 1.1. Định hướng phát triển năng lực là quan điểm chủ đạo trong việc thiết kế Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018. Nội dung dạy học chuyển từ việc học sinh học được gì sang việc học sinh làm được gì (Bộ GD-ĐT, 2018) là nội dung quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông 2018. Do đó, năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn là năng lực quan trọng cần được rèn luyện, giúp học sinh có khả năng giải quyết các vấn đề một cách linh hoạt trên cơ sở vận dụng những kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm đã biết vào các vấn đề cụ thể. Bên cạnh đó, khi đề cập vấn đề năng lực thì năng lực được hiểu chính là khả năng của mỗi cá nhân. Mỗi học sinh có một đặc điểm riêng biệt về nhận thức, về năng lực… nên không thể hình thành năng lực ở cá nhân những người học khác nhau từ một con đường chung nhất. Lí thuyết đa trí tuệ của Gardner đã xác định mỗi người đều có cả 8 dạng trí tuệ, nhưng trong số đó, sẽ có một vài dạng nổi trội hơn những dạng khác; những dạng trí tuệ này không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà đan xen lẫn nhau, có thể thay đổi tuỳ theo yếu tố tác động lên nó (Gardner, 2011). Đây là cơ sở để có thể vận dụng lý thuyết đa trí tuệ vào quá trình dạy học nói chung và quá trình bồi dưỡng giải quyết vấn đề thực tiễn nói riêng. Quan điểm giáo dục của Việt Nam là hướng đến sự toàn diện, không chỉ cung cấp tri thức mà quan trọng hơn cả là góp phần hoàn thiện nhân cách của con người - những Con Người thực thụ, để từ đó mỗi người có thể biết cách làm việc, biết cách chung sống, biết cách khẳng định mình, môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông cũng không nằm ngoài hướng đi ấy. Đặc biệt bộ môn Ngữ Văn đang có những thay đổi quan trọng về cách dạy, cách học, cũng như chương trình nội dung sách giáo khoa, để phù hợp với xu thế chung của thời đại. Giáo viên và học sinh cũng đã có ý thức từng bước đổi mới phương pháp trong quá trình dạy và học. 1.2. Vận dụng lí thuyết đa trí tuệ trong bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn 1.2.1. Lí thuyết đa trí tuệ Lý thuyết về trí thông minh của con người được nhìn nhận bằng nhiều cách, mang tính đa dạng, được nghiên cứu và công bố bởi tiến sĩ Howard Gardner. Theo Gardner, trí thông minh (intelligence) được ông quan niệm như sau "là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra các sản phẩm mà các giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay nhiều môi trường văn hóa" và trí thông minh cũng không thể chỉ được đo lường duy nhất qua chỉ số IQ. Howard phản bác quan niệm truyền thống về khái niệm thông minh, vốn thường vẫn được đồng nhất và đánh giá dựa trên các bài trắc nghiệm IQ. Ông cho rằng khái niệm này chưa phản ánh đầy đủ các khả năng tri thức đa dạng của con người. Theo 7
  8. ông, ở trường, một học sinh giải quyết dễ dàng một bài toán phức tạp chưa chắc đã thông minh hơn đứa trẻ khác loay hoay làm mãi không xong bài toán đó. Cậu học sinh thứ hai rất có thể sẽ giỏi hơn trong các “dạng” thông minh khác. Lý thuyết “đa trí tuệ” của ông cho rằng, mỗi cá nhân hầu như đều đạt đến một mức độ nào đó ở từng “phạm trù” trong hệ thống các dạng thông minh. Mức độ này thấp hay cao thể hiện hạn chế hay ưu thế của cá nhân đó trong lĩnh vực này. Đặc biệt, mức độ này không phải là “hằng số” trong suốt cuộc đời của họ mà sẽ có thể thay đổi (nâng cao hay giảm đi) tùy vào điều kiện trau dồi. Thuyết đa trí tuệ (sau đây gọi là thuyết trí thông minh đa dạng) của Howard Gardner lấy cơ sở từ những nghiên cứu của nhà phân tâm học Eric Erikson, nhà xã hội học David Riesman và nhà tâm lý và nhận thức học Jerome Bruner. Ông đã học khóa học về nghiên cứu bản năng của con người, đặc biệt con người suy nghĩ như thế nào. Trong học thuyết trí thông minh đa dạng, Gardner đã thiết lập được các yêu cầu cần thiết đặc trưng mà mỗi loại trí thông minh phải đạt được để có đủ điều kiện xác định đó là một loại trí thông minh. Sau đây là 4 đặc điểm ông đưa ra khi nghiên cứu các loại trí tuệ ở con người: - Mỗi trí thông minh có khả năng được biểu tượng hoá - Mỗi trí thông minh đều có một lịch sử phát triển của riêng nó. - Mỗi trí thông minh đều sẽ tổn thương và biến mất khi có các tác động xâm phạm và gây hại đến những vùng đặc trưng riêng biệt của nó trong bộ não người. - Mỗi loại trí thông minh có những nền tảng giá trị văn hoá riêng của nó. 1.2.2. Các dạng thông minh được sử dụng để bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn Mô hình dạy học vận dụng trí thông minh đa dạng và giải quyết vấn đề thực tiễn có nhiều điểm tương đồng, vì vậy việc vận dụng trí thông minh đa dạng vào dạy học bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc vận dụng quá nhiều dạng thông minh để bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn cho học sinh sẽ dẫn đến quá tải và rất khó xây dựng phương pháp tập trung cụ thể, việc đánh giá cũng trở nên tốn kém và phức tạp hơn đẫn đến khó kiểm soát chất lượng đánh giá. Để hạn chế vấn đề trên, nên chọn một số dạng thông minh đặc trưng phù hợp để vận dụng bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn cho học sinh. Lí thuyết về trí thông minh đa dạng và việc vận dụng vào thực tế đã được nhiều nhà nghiên cứu trong nước quan tâm. Đã có những nghiên cứu về mối liên hệ trực tiếp giữa trí thông minh đa dạng với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo ở người học (Trần Khánh Đức, 2010), vận dụng Lý thuyết đa trí tuệ vào trong chương trình phổ thông thông qua việc giới thiệu về lý thuyết trí thông minh đa dạng, cách đánh giá các dạng năng lực 8
  9. trí tuệ của học sinh và đề xuất việc vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học (Trần Đình Châu và Đặng Thị Thu Thủy, 2013). Có 8 loại hình trí thông minh trong học thuyết của Howard Gardner: - Thông minh ngôn ngữ Thông minh ngôn ngữ bao gồm khả năng nói và viết, khả năng học ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ để đạt được mục tiêu. Trí thông minh này bao gồm cả khả năng sử dụng ngôn ngữ hiệu quả để thể hiện bản thân bằng hùng biện hoặc qua thi ca; hoặc có thể dùng ngôn ngữ để nhớ thông tin. Các nhà văn, nhà thơ, luật sư và diễn giả là những người mà theo Howard Gardner có trí thông minh ngôn ngữ tốt. - Thông minh logi-toán học Thông minh logi-toán học bao gồm khả năng phân tích các vấn đề một cách logic, thực hiện các hoạt động liên quan đến toán học tốt, xem xét các vấn đề rất khoa học. Theo Howard Gardner thì những người có trí thông minh này có khả năng phát hiện, suy diễn ra các trình tự, lý do và tư duy logic tốt, cách tư duy theo dạng nguyên nhân – kết quả. Trí thông minh này có mối liên quan chặt chẽ với những ý tưởng khoa học và toán học, khả năng sáng tạo các giả thuyết, tìm ra các mô hình số học hoặc quy tắc dựa trên các khái niệm, đồng thời yêu thích các quan điểm dựa trên lý trí trong cuộc sống nói chung. - Thông minh về âm nhạc Thông minh về âm nhạc bao gồm các kỹ năng biểu diễn, sáng tác, và cảm nhận âm nhạc. Thông minh âm nhạc thúc đẩy khả năng nhận biết và sáng tác âm điệu, cao độ và nhịp điệu. Theo Howard Gardner thông minh âm nhạc song song với thông minh về ngôn ngữ. Ngoài ra, trí thông minh về âm nhạc còn có trong tiềm thức của bất cứ cá nhân nào, miễn là người đó có khả năng nghe tốt, có thể hát theo giai điệu, biết dành thời gian cho âm nhạc và nghe được nhiều tiết mục âm nhạc khác nhau với sự chính xác và sáng suốt của các giác quan - Thông minh về thể chất Thông minh về thể chất là khả năng sử dụng cơ thể hoặc một phần cơ thể con người để giải quyết vấn đề, bao gồm cả khả năng của trí não điều khiển các hoạt động đó. Howard Gardner thấy rằng có sự liên hệ giữa hoạt động của trí óc và hoạt động thể chất. Các vận động viên thể thao, những người làm nghề thủ công, những thợ cơ khí và các bác sĩ phẫu thuật là những người sở hữu khả năng này của tư duy. Những người thuộc loại tài năng này rất khéo léo và thành công trong nghề thêu may, nghề thợ mộc hay nghề tạo mẫu. Hoặc họ có thể ham thích và theo đuổi những hoạt động của cơ thể như đi bộ đường dài, khiêu vũ, chạy bộ, cắm trại, bơi lội hoặc đua thuyền. Họ là những người thực hành, nhạy cảm, thường xuyên muốn vận động cơ thể của họ và có “phản ứng bản năng” với các tình huống, sự vật. - Thông minh về không gian 9
  10. Thông minh về không gian có liên quan đến suy nghĩ bằng hình ảnh, hình tượng và khả năng cảm nhận, chuyển đổi và tái tạo lại những góc độ khác nhau của thế giới không gian trực quan. Những người sở hữu loại trí thông minh về không gian ở mức độ cao thường có sự nhạy cảm sắc bén với những chi tiết cụ thể trực quan và có thể hình dung được một cách sống động, vẽ ra hay phác họa những ý tưởng của họ dưới dạng hình ảnh, đồ họa, cũng như họ có khả năng tự định hướng bản thân trong không gian ba chiều một cách dễ dàng. - Thông minh về giao tiếp xã hội Đây là năng lực hiểu và làm việc được với những người khác. Đặc biệt là có khả năng cảm nhận và dễ chia sẻ với tâm trạng, tính cách, ý định và mong muốn của những người khác. Một cá nhân có trí thông minh về giao tiếp có thể rất giàu lòng trắc ẩn và đầy tinh thần trách nhiệm đối với xã hội, hoặc là người có sức lôi cuốn mọi người và tập thể, họ còn có khả năng thấu hiểu những người khác và từ đó nhìn ra viễn cảnh của thế giới bên ngoài bằng chính cặp mắt của những con người đó. Trong thực tế, họ rất tuyệt vời với vai trò của người môi giới, người hoà giải hoặc là thầy giáo, tư vấn tâm lý. - Thông minh nội tâm Một người mạnh mẽ về loại trí tuệ này có thể dễ dàng tiếp cận và nhìn rõ được những cảm xúc của chính bản thân mình, phân biệt được giữa nhiều loại trạng thái tình cảm bên trong và sử dụng chính những hiểu biết về bản thân mình để làm phong phú thêm và vạch ra con đường cho cuộc đời mình. Họ có thể là người rất hay tự xem xét nội tâm và ham thích được trầm tư suy nghĩ, được ở trong trạng thái tĩnh lặng hay trong các trạng thái tìm hiểu tinh thần một cách sâu sắc khác. Mặt khác họ có thể là người có tính độc lập mạnh mẽ, tính thẳng thắn cao độ và cực kỳ tự giác, có kỷ luật. Trong bất cứ trường hợp nào, họ thuộc dạng tự lập và thích làm việc một mình hơn là làm việc với người khác. - Thông minh về tự nhiên Thông minh về tự nhiên giúp cho con người nhận thức, phân loại và rút ra được những đặc điểm của môi trường. Những người có trí thông minh về tự nhiên luôn hòa hợp với thiên nhiên và thích thú với sự nuôi trồng, khám phá thiên nhiên, tìm hiểu về các sinh vật. Những người này thích cắm trại, làm vườn, leo núi, khám phá thế giới và không hứng thú với những đề tài không gắn với môi trường. Tóm lại, từ thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner cho chúng ta một cách thức mới đa dạng hơn, phong phú hơn để hiểu về trí tuệ của con người, từ đó khi chúng ta kết hợp những trí tuệ này để phục vụ cho công tác giảng dạy sẽ đạt hiệu quả hơn. Một là thông qua thuyết đa trí tuệ có thể kiểm tra xem năng lực thật sự của bản thân, tìm ra phương pháp giảng dạy hiệu quả hơn; hai là thông qua việc hiểu biết về năng lực trí tuệ của học sinh để hiểu hơn về sức học của người học, ba là người dạy cần tự nghĩ ra cách thức, quá trình giảng dạy đặc biệt để dạy, cũng như để phù hợp yêu cầu cho những học sinh có trí tuệ đặc thù, bốn là có thể bồi dưỡng, hoặc tư vấn kế 10
  11. hoạch học tập cho học sinh, năm là có thể đánh giá trình độ của người học một cách hợp lý hơn. 1.2.3. Một số lưu ý khi vận dụng trí thông minh đa dạng vào dạy học. - Theo Howard Gardner - có vô vàn cách để học và hiểu được một vấn đề. Mỗi người trong chúng ta đều có cá tính, sở thích, thị hiếu khác nhau, và do đó, chúng cũng sẽ có cách học khác nhau. Giáo viên và các bậc phụ huynh cần hiểu biết và đánh giá đúng những sự khác biệt này. Thông qua quan sát, các bậc cha mẹ, thầy cô có thể biết được con mình, học trò mình có dạng nổi trội về mặt nào theo Lý thuyết đa trí tuệ và chúng ta có thể phát triển các hoạt động phù hợp để phát triển khả năng của con em. Tìm hiểu bản chất của trí thông minh và làm sao đo lường được phạm vi trí tuệ. Giáo sư Howard Gardner - Đại học Harvard đã đưa ra thuyết “Trí thông minh đa dạng” (Multiple Intelligences) và nói rằng mỗi đứa trẻ đều có những khả năng đặc biệt cần phải được phát hiện và bồi dưỡng. Cũng theo quan điểm cá nhân, Howard Gardner cho rằng ở trường, trẻ phải học quá nhiều môn học, mỗi môn lại bao gồm rất nhiều tài liệu. Như vậy, trong một năm học, lượng kiến phải tiếp thu và ghi nhớ quả là một con số khổng lồ. Trẻ khó mà có thể ghi nhớ hết được số kiến thức đó, và khi rời khỏi trường học, gần như tất cả mọi thứ đều sẽ bị lãng quên. Theo ông, trường học cần phải thay đổi phương pháp cũng như khối lượng bài học dạy cho trẻ. Làm sao để trẻ ghi nhớ và vận dụng tối đa được những gì mình học vào trong thực tế. Có vô vàn cách thức để chúng ta học và hiểu được một vấn đề. Một số người phát triển tốt trong suy nghĩ về không gian, một số người lại phát triển ngôn ngữ tư duy, những người khác lại tốt về toán học, nếu những người này được quan tâm, kèm cặp và dạy theo những cách phù hợp, họ sẽ phát huy được tối đa tiềm năng của bản thân. - Trí thông minh đa dạng và phong cách học tập Phụ huynh vốn quan tâm đến vấn đề giáo dục và phong cách học tập của con cái. Các nhà giáo dục cũng không ngừng tìm kiếm cách thức để nâng cao chương trình giảng dạy của họ. Dù là ở nhà hay trong lớp học thì cả cha mẹ và thầy cô đều muốn dạy dỗ trẻ em hiệu quả nhất. Nhiều giáo viên đã sử dụng nghiên cứu của ông trong việc giảng dạy và làm việc. Mỗi chúng ta đều sở hữu đầy đủ tất cả các loại trí thông minh nên việc tìm ra một phong cách học tập có thể giúp người học phát triển đầy đủ các loại hình trí thông minh, đồng thời nhấn mạnh phương pháp phát huy tiềm năng trí tuệ theo khả năng của người học giúp họ thành công trong cuộc sống. Nhiều nhà giáo dục đã thiết kế chương trình giảng dạy, phân chia các lớp học và thậm chí cấu trúc lại toàn bộ hệ thống trường dựa trên việc vận dụng thuyết đa trí tuệ. Rất nhiều cuốn sách và tài liệu giáo dục đã tham gia phân tích lý thuyết này và đưa ra những gợi ý cho việc áp dụng chúng trong các lớp học. 11
  12. Ở Việt Nam, cũng có nhiều tác giả nghiên cứu vận dụng trí thông minh đa dạng vào dạy học. Có thể kể đến như: + Đỗ Thị Nga (2006), Khảo sát năng lực trí tuệ của học sinh lớp 5 tại thị xã Đồng Xoài – Tỉnh Bình Phước năm học 2005 – 2006, Luận văn thạc sĩ ngành Tâm lí học, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM, TP. HCM. + Phan Văn Nhân (2013), Dạy học theo thuyết đa trí tuệ, Tạp Chí khoa học Giáo dục, (98), tr. 9 - 11. + Bùi Thanh Thủy (2014), Ứng dụng thuyết đa trí tuệ (multiple intelligences) vào việc thiết kế một số mẫu dạy học môn Tiếng Việt, Văn, Toán lớp 3 CGD, đề tài cấp Bộ, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. - Định hướng nghề nghiệp, tương lai cho học sinh theo trí thông minh đa dạng. Việc xác định chính xác các trí thông minh cho học sinh từ sớm sẽ là nền tảng để bắt tay vào hành động để trang bị cho con mình một xuất phát điểm thuận lợi nhất từ nhỏ. Qua đó bậc phụ huynh xác định được năng khiếu cho trẻ từ nhỏ, cũng như định hướng phát triển cho trẻ ngay từ trước khi đi học. + Xác định năng khiếu: dựa vào các loại hình thông mình mà trẻ phát triển để chọn môn nghệ thuật phù hợp. Ví dụ thông minh vận động – bơi lội, đá bóng, bóng rổ… thông minh âm nhạc – đàn, hát, nhảy múa… + Xác định ngành nghề: phối hợp các trí thông minh để định hướng nghề nghiệp về sau cho trẻ. Ví dụ: thông minh ngôn ngữ + thông minh tương tác tốt, trẻ có thể làm lĩnh vực quản trị sau này… + Chọn trường/ môn học: tìm kiếm các trường, môn học phù hợp với khả năng của trẻ. Ví dụ: trẻ thông minh nội tâm và ngôn ngữ sẽ học tốt môn Văn… 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Một số khó khăn của học sinh trong việc học môn Ngữ văn ở trường THPT Nguyễn Sỹ Sách. Qua nghiên cứu tài liệu và thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy ở học sinh còn có một số khó khăn như sau: Thứ nhất, nhiều học sinh và phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn Ngữ văn. Số đông học sinh đều tập trung vào các môn học tự nhiên mà không quan tâm đến các môn học xã hội, trong đó có môn Ngữ văn. Nhiều em có năng khiếu môn Văn nhưng ngại không theo học do nhận thức xã hội và quan điểm nghề nghiệp. Số học sinh theo học khối C ở trường THPT Nguyễn Sỹ Sách không nhiều, chỉ có khoảng 30 - 35 học sinh khối C trên 250 - 260 học sinh theo học khối A, B (tỉ lệ chỉ từ 12 – 13,5%). Vì thế có nhiều em có năng lực tốt ở môn Văn nhưng vẫn chọn khối tự nhiên, dẫn đến nguồn lực học sinh giỏi Văn ngày càng ít đi. 12
  13. Thứ hai, đa phần học sinh THPT học tập môn Ngữ văn là rất thụ động. Các em không quan tâm đến các hoạt động để tự tìm đến tri thức mà quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì mà giáo viên đã giảng. Điều này dẫn đến phản ứng nhận thức của học sinh sẽ chậm đi, học sinh ít tò mò tìm hiểu nội dung, ít đọc văn bản, ít tìm hiểu về những nội dung học tập mới, vấn đề mới. Từ đó làm triệt tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, làm cho người học không có thói quen suy nghĩ, thường diễn đạt bằng ý vay mượn, lời sẵn có, nô lệ của sách vở, không đưa ra được những nhận định mang tính tư duy, khái quát; không biết lập luận, suy luận khi giải quyết vấn đề trong những trường hợp đơn giản. Thứ ba, nhiều học sinh không hứng thú hoặc ít quan tâm đến các nội dung, hoạt động học tập diễn ra trên lớp học. Thực tế cho thấy nếu học sinh không quan tâm đến các hoạt động diễn ra trên lớp thì sẽ không nắm được nội dung kiến thức và không hình thành được cho mình những kĩ năng cần thiết như kĩ năng hợp tác, kĩ năng phân tích, giải quyết vấn đề… Thứ tư, nhiều em có tâm lí e ngại khi tham gia các hoạt động sinh hoạt tập thể và hoạt động xã hội công ích. Đặc biệt là các hoạt động hỗ trợ phát triển năng lực và phẩm chất trí tuệ, dẫn đến thiếu tự tin, thiếu kĩ năng cần thiết để giải quyết những vấn đề thực tiễn và phần nào ảnh hưởng đến sự phát triển phẩm, năng lực của mỗi cá nhân học sinh. Thứ năm, rất ít học sinh biết rung động trước những tác phẩm văn chương được trích học trong chương trình Ngữ văn THPT. Do đó hầu hết học sinh chưa khai thác hết được những giá trị văn chương của các tác phẩm văn học ấy. Thực tế đó còn dẫn đến hiện tượng khi làm bài của học sinh, các em đã suy luận một cách chủ quan hoặc dung tục hóa văn chương. Một bộ phận không nhỏ học sinh làm bài sai kiến thức cơ bản, “lấy râu ộng nọ chắp cằm bà kia”. Hiện tượng nhầm lẫn chi tiết của tác phẩm này với tác phẩm khác, sai tên tác giả, tác phẩm, lẫn lộn nhà văn này với nhà văn khác là khá phổ biến trong các bài làm của học sinh. Thứ sáu, phần lớn học sinh trường THPT Nguyễn Sỹ Sách là học sinh ở vùng nông thôn, hiếu học, cần cù chăm chỉ nhưng thiếu điều kiện học tập, thiếu công cụ nghiên cứu. Các em rất ít quan tâm đến việc tự tìm hiểu kiến thức Văn học thông qua các phương tiện hiện đại như tranh ảnh, video, tài liệu trên mạng xã hội. Việc tiếp cận và khai thác năng lực số, chuyển đổi số còn gặp nhiều khó khăn. 2.1. Một số khó khăn của giáo viên trong việc giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT Nguyễn Sỹ Sách. Thứ nhất, trường THPT Nguyễn Sỹ Sách chia học sinh thành nhiều đối tượng khác nhau phù hợp với khả năng và nguyện vọng chọn nghề nghiệp của các em ở các khối A,B,C,D và khối đại trà. Thế nhưng trong quá trình thiết kế bài dạy, giáo viên chưa chú ý đến đối tượng học sinh, giáo án còn mang tính đồng loạt cho tất cả học sinh, chưa quan tâm tới sự khác biệt của học sinh về năng lực nhận thức, phong cách học tập, đặc điểm trí tuệ, động cơ học tập, thể chất… Những học sinh với năng 13
  14. lực trung bình sẽ cảm thấy bị quá tải về kiến thức trong khi những học sinh với năng lực khá giỏi lại chưa có cơ hội tìm hiểu sâu hơn. Thứ hai, việc đổi mới phương pháp dạy - học chưa đồng bộ, bên cạnh những giáo viên tích cực trong việc đổi mới phương pháp thì vẫn có những giáo viên còn chưa tích cực hoặc việc đổi mới còn mang tính chất hình thức, đối phó là chính. Thậm chí có một vài thầy cô giáo qua một thời gian đổi mới phương pháp dạy học thì quay trở lại với phương pháp dạy học cũ. Lí do của thực tại này là thời gian và công sức cho việc chuẩn bị một giờ dạy học theo phương pháp mới là quá nhiều, vả lại cần phải có sự phối hợp tích cực của người học thì giờ dạy theo phương pháp mới mới thành công. Thứ ba, nhiều giáo viên chưa chú trọng đến việc tiếp thu, vận dụng kiến thức của học sinh cũng như việc chỉ ra cho người học một con đường tích cực, chủ động để thu nhận kiến thức. Do đó, có những giờ dạy được giáo viên chỉ “truyền thụ một chiều”, rồi đọc chậm cho học sinh chép lại kiến thức có sẵn ở giáo án. Khi học sinh có những phát hiện, tìm tòi mới mẻ thì không được ghi nhận (vì nó khác với phần chuẩn bị của giáo viên) thậm chí là bác bỏ ý kiến đó làm cho người học nhụt chí trong việc phát biểu cảm nhận về tác phẩm văn học. Vì vậy giờ học tác phẩm văn chương vẫn chưa thu hút được sự chú ý và sự cộng tác của người học, làm cho một bộ phận học sinh tỏ ra bàng quan, thờ ơ với văn chương. Thứ tư, sự thiếu thốn về phương tiện, thiết bị dạy - học bộ môn Ngữ văn ở trường THPT còn nhiều. Máy chiếu, ti vi, tranh, ảnh, sơ đồ, video minh họa cho bài giảng, tài liệu tham khảo…còn quá ít, chưa đủ để phục vụ công tác dạy học theo phương pháp mới. Chính vì vậy, giờ dạy còn gặp nhiều khó khăn khi triển khai. Tình trạng dạy chay, học chay vẫn còn diễn ra phần nhiều trong các giờ học. Trên đây là cơ sở để người giáo viên tìm ra phương pháp dạy học phù hợp, nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung. Đặc biệt, qua thực tế tìm hiểu các ưu điểm của trí thông minh đa dạng và thực tiễn dạy học, tôi đã vận dụng Trí thông minh đa dạng để đạt hiệu quả trong quá trình dạy học môn Ngữ văn nói chung, văn bản “Hai đứa trẻ” nói riêng. Bởi trong thực tế, năng lực không nên phát triển riêng rẽ, cần được bồi dưỡng thông qua đa dạng hóa các hoạt động dạy học sẽ giúp người học có cơ hội được thực hành, biết cách giải quyết vấn đề ở các hoàn cảnh khác nhau. Phương pháp giảng dạy truyền thống với vai trò người thầy làm trung tâm phát thông tin và học trò bị động tiếp nhận thông tin đã trở nên lạc hậu trước yêu cầu đào tạo của xã hội. Vì vậy, ứng dụng Trí thông minh đa dạng vào công tác dạy học học rất phù hợp với chủ trương “Lấy người học làm trung tâm”, đề xướng cách dạy để người học tự phát hiện và vận dụng các trí thông minh của bản thân nắm vững bài học, đảm bảo hiệu quả và sự hưng phấn của người học trong học tập. II. VẬN DỤNG TRÍ THÔNG MINH ĐA DẠNG VÀO DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN “HAI ĐỨA TRẺ” CỦA THẠCH LAM. 14
  15. 1. Lựa chọn một số loại hình trí thông minh phù hợp để vận dụng trong dạy học truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. 1.1. Dạy học dựa vào trí thông minh ngôn ngữ. Trong dạy học Ngữ văn, việc vận dụng trí tuệ ngôn ngữ giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ được chia thành hai dạng: ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ nói được thể hiện qua thông báo, tường thuật, miêu tả, nêu đặc điểm, giải thích, trao đổi thảo luận, tranh luận, thuyết trình...Ngôn ngữ viết được thể hiện qua các hoạt động ghi chép. Phát triển trí thông minh ngôn ngữ là một cách để phát huy khả năng sử dụng ngôn ngữ của học sinh. Cùng với kiểu tư duy logic toán học, năng lực về ngôn ngữ được xếp vào một trong số những trí thông minh được chú ý và coi trọng nhất. Do đó, phát triển trí thông minh ngôn ngữ sẽ giúp học sinh học tập và sau này sẽ làm việc tốt hơn. Chẳng hạn: Khi dạy Cảnh phố huyện lúc đêm khuya, giáo viên đưa ra vấn đề: Tìm những chi tiết dùng để miêu tả ánh sáng và bóng tối. Từ đó hãy nêu cảm nhận về khung cảnh thiên nhiên phố huyện lúc chiều tàn? Giáo viên có thể tiến hành hoạt động dạy học như sau Bước 1: yêu cầu học sinh đọc văn bản và gạch chân/ ghi lại những từ ngữ, câu văn được dùng để miêu tả ánh sáng bóng tối, ghi lại cảm nhận của bản thân về khung cảnh lúc này. Bước 2: Sử dụng kỹ thuật khăn trải bàn để học sinh trong nhóm thảo luận, khai thác, chọn lọc, thống nhất ý kiến Bước 3: Đại diện học sinh thuyết trình Bước 4: Giáo viên sửa bài và hướng dẫn học sinh ghi chép kiến thức. 1.2. Dạy học dựa vào trí thông minh không gian Do đặc điểm của việc học tập Ngữ văn trên lớp là không trực tiếp quan sát các sự việc, hiện tượng nên việc vận dụng trí tuệ không gian để tái hiện lại hình ảnh có ý nghĩa rất quan trọng. Trong quá trình dạy học, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh sử dụng công nghệ thông tin: phim hoạt hình, tranh ảnh, tranh vẽ, phim ảnh để hỗ trợ việc giảng dạy, tạo nên sự phong phú, đa dạng và hấp dẫn trong giờ học. Như chúng ta đã biết, thông minh về không gian có liên quan đến suy nghĩ bằng hình ảnh, hình tượng và khả năng cảm nhận, chuyển đổi và tái tạo lại những góc độ khác nhau của thế giới không gian trực quan. Vì thế việc giáo viên cho học sinh tái hiện lại nội dung bài học bằng hình ảnh không những tạo được sự hứng thú trong giờ học mà còn phát triển cho học sinh năng lực về không gian. Giáo sư Ardner nói rằng trí thông minh không gian là do một vài kĩ năng được sinh ra, nhưng trong khi nó có thể là một trong những trí thông minh quan trọng hơn mà lại thường bị bỏ quên nhiều nhất. Tạo ra những bài học nhận ra trí thông minh không gian có thể là chìa khóa để giúp một số học sinh thành công trong mọi lĩnh vực. 15
  16. Chẳng hạn: Trong bài “Hai đứa trẻ” khi dạy Cảnh phố huyện lúc chiều tàn, giáo viên có thể chiếu cho học sinh xem một số hình ảnh về cảnh chiều tàn, kiếp người tàn bên cạnh kết hợp với ngôn ngữ miêu tả, tường thuật. Việc trình chiếu các hình ảnh hoặc cho học sinh thiết kế sáng tạo hình ảnh là một cách để giúp học sinh phát huy được trí tưởng tượng của mình về không gian. - Phương tây đỏ rực như lửa - Tiếng trống thu không - Mấy đứa trẻ con nhà cháy. vang ra để gọi buỗi chiều. nghèo ở ven chợ cúi lom - Những đám mây ánh hồng - Văng vẳng tiếng ếch nhái khom trên mặt đất đi lại như hòn than sắp tàn. kêu ran ngoài đồng ruộng. tìm tòi. - Dãy tre làng trước mặt đen - Trong cửa hàng hơi tối, lại và cắt hình rõ rệt trên nền muỗi đã bắt đầu vo ve. trời. 1.3. Dạy học dựa vào trí thông minh thể chất (vận động) Cần phải thấy rằng, thông minh về thể chất là khả năng sử dụng cơ thể hoặc một phần cơ thể con người để giải quyết vấn đề, bao gồm cả khả năng của trí não điều khiển các hoạt động đó. Bởi giữa hoạt động của trí óc và hoạt động thể chất có liên hệ chặt chẽ với nhau. Vận dụng trí thông minh thể chất vào dạy học Ngữ văn có thể sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau. Đối với dạy học tác phẩm văn học, đặc biệt là truyện ngắn thì sân khấu hoá tác phẩm có ưu thế nổi trội. Sân khấu hoá là một hình thức nghệ thuật tương tác dựa trên hoạt động diễn kịch, đề cao tính tương tác và khả 16
  17. năng sáng tạo của học sinh, tạo cơ hội cho các em phát huy trí tuệ hình thể - động năng, trí tuệ ngôn ngữ cũng như trí tuệ giao tiếp. Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức các trò chơi để học sinh vận động cơ thể như Tiếp sức, Đoán ý đồng đội… Chẳng hạn: Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh chọn chủ đề sân khấu hoá “Những kiếp người tàn” khi dạy văn bản “Hai đứa trẻ”. Giáo viên giao cho học sinh nhiệm vụ đọc tác phẩm và xây dựng kịch bản. Từ đó học sinh sẽ hình dung được nội dung cần xây dựng, chọn nhân vật, viết lời thoại, và học cách diễn xuất… Giáo viên có thể khuyến khích học sinh sáng tạo để vở kịch thêm vui, hài hước nhưng không làm sai lệch nội dung của tác phẩm. Tiếp đó, giáo viên hướng dẫn học sinh luyện tập, biểu diễn trước lớp. Điều này vừa giúp học sinh khắc sâu kiến thức, nhớ được nhiều chi tiết, hình ảnh trong tác phẩm, vừa thể hiện được năng khiếu của cá nhân. 1.4. Dạy học dựa vào trí thông minh âm nhạc Đối với môn học nếu có sự kết nối kiến thức thông qua âm nhạc, sẽ tạo được không khí học tập và nâng cao hiệu quả tiếp thu kiến thức. Để vận dụng loại trí thông minh này có thể có nhiều cách như ghi âm, sử dụng các ca khúc, clip, đọc thơ… Đặc biệt, là phương pháp viết lời cho nhạc, tức là trên cơ sở những giai điệu có sẵn mà chuyển thể nội dung bài học thành lời của bài hát - đây là phương pháp dành cho những em có sự phát triển vượt trội về trí tuệ âm nhạc. Theo Howard Gardner thông minh âm nhạc song song với thông minh về ngôn ngữ. Ngoài ra, trí thông minh về âm nhạc còn có trong tiềm thức của bất cứ cá nhân nào, miễn là người đó có khả năng nghe tốt, có thể hát theo giai điệu, biết dành thời gian cho âm nhạc và nghe được nhiều tiết mục âm nhạc khác nhau với sự chính xác và sáng suốt của các giác quan. Cho nên phát huy trí thông minh âm nhạc cho học sinh chính là một phương pháp nhằm phát hiện năng lực vốn có của học sinh. Từ đó giúp các em tự tin thể hiện khả năng của bản thân mình trước tập thể. Chẳng hạn: Trong giảng dạy, giáo viên cho học sinh hát bài “Hai đứa trẻ” được viết lại lời trên nền nhạc bài hát “Giấc mơ trưa” (nhạc sĩ Giáng Sonl) để tạo không khí thoải mái cho học sinh và việc tiếp nhận kiến thức trở nên dễ dàng hơn. Thậm chí để phát huy năng lực âm nhạc của học sinh, giáo viên có thế gợi ý cho học sinh chuẩn bị trước, sáng tạo lời nhạc phù hợp với nội dung bài học. 2. Xác định rõ các bước tổ chức khi dạy học truyện ngắn “Hai đứa trẻ” theo hướng vận dụng trí thông minh đa dạng. Khi dạy truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, giáo viên cần phải tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Giáo viên xác định các đơn vị kiến thức bài học phù hợp với loại “trí tuệ” nào trong quá trình vận dụng. Với truyện ngắn Hai đứa trẻ, giáo viên lựa chọn 3 đơn vị kiến thức sau để tiến hành vận dụng các loại hình trí thông minh đa dạng 17
  18. Đơn vị kiến thức Loại hình trí thông minh có thể vận dụng Cảnh phố huyện lúc chiều tàn Ngôn ngữ, không gian, vận động, logic Cảnh phố huyện lúc đêm khuya Ngôn ngữ, không gian, vận động, âm nhạc Cảnh phố huyện lúc chuyến tàu đêm đi Ngôn ngữ, không gian, vận động qua Bước 2: GV cần chuẩn bị các thiết bị dạy học một cách chu đáo Trên cơ sở xác định các loại hình thông minh trong bài dạy, giáo viên cần xác định các loại thiết bị/công cụ cần thiết cho bài học. Để học sinh lĩnh hội được tri thức một cách tốt nhất thông qua “hoạt động tích cực” thì việc sử dụng thiết bị nào là rất quan trọng. Thông qua thiết bị, học sinh phải được trực tiếp tiếp xúc, tìm hiểu, khám phá vấn đề. Để lĩnh hội tri thức, học sinh có thể đọc, phân tích văn bản thông qua hoạt động chỉ đạo của giáo viên. Nhưng để mở rộng, khắc sâu kiến thức thì rất cần đến việc sử dụng các phương tiện/ đồ dùng dạy học như: máy chiếu, tranh ảnh, các đoạn video, bảng biểu, phiếu thảo luận, phần mềm PowerPoint, mesenger, zalo … Bước 3: Chia nhóm và thống nhất nội quy học tập theo nhóm nhằm phát hiện trí thông minh của học sinh Đây là công việc đơn giản nhưng lại rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả quá trình học tập của học sinh. Giáo viên tiến hành cho học sinh làm trắc nghiệm về các loại hình trí thông minh. Sau khi có kết quả, tùy thuộc vào mức độ khó - dễ của kiến thức, thời gian và đặc biệt trong vận dụng giáo viên phải chú trọng đến nội dung để có thể chia nhóm cho phù hợp nhằm phát huy được trí thông minh đa dạng của từng em. Giáo viên giới thiệu nội dung học tập ở các nhóm. Giới thiệu phiếu học tập - phiếu hỗ trợ và cách làm việc làm việc trên các phiếu học tập,… Bước 4: Tổ chức cho các nhóm làm việc Giáo viên phải yêu cầu các nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Học sinh có thể làm việc cá nhân, theo cặp hay theo nhóm tùy theo yêu cầu nhiệm vụ học tập của giao viên giao cho. Bước 5: Tổng kết kết quả học tập Sau khi các nhóm đã hoàn thành nhiệm vụ theo quy định, từng nhóm trình bày kết quả cuối cùng mà nhóm hoàn thành trước lớp. Sau khi một nhóm lên trình bày kết quả nhóm hoàn thành, các nhóm còn lại nhận xét, đánh giá kết quả của nhóm vừa báo cáo. 18
  19. Khi các nhóm đã báo cáo xong, giáo viên trình chiếu nội dung cho từng nhóm, các nhóm đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ của các nhóm bạn, trên cơ sở đó các đánh giá – cho điểm các nhóm khác đối với hai tiêu chí: đánh giá tính tích cực của nhóm và đánh giá nội dung nhóm đó đã làm được. 3. Hướng dẫn cách thức phát triển ở mỗi loại trí thông minh, góp phần hình thành năng lực cụ thể ở từng học sinh. Để phát triển trí thông minh đa dạng ở học sinh, ngoài nội dung kiến thức bài học trên lớp, giáo viên cần xem xét tính phù hợp về tâm lí, ý thức, điều kiện của học sinh ở trường THPT Nguyễn Sỹ Sách để hướng dẫn thêm cho học sinh những cách thức phát triển ở mỗi loại trí thông minh trong học tập và đời sống. 3.1. Trí thông minh ngôn ngữ Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi lại ngay các ý tưởng mà học sinh vừa nghĩ ra khi tiếp cận nội dung bài học trong cuốn sổ nhỏ. Ngoài ra khi giáo viên tổ chức chơi các trò với từ ngữ, chơi ô chữ, điền từ, tìm từ, đảo chữ hoặc các trò đố chữ khác thì học sinh cần cần tham gia đầy đủ. Chăm chỉ đọc sách hoặc đọc bất cứ thứ gì mà các em thích: sách, báo, tác phẩm. Rồi từ đó tập viết, viết gì mình thích, viết ít nhất 250 từ mỗi ngày về bất cứ vấn đề nào trong cuộc sống. Tham gia diễn kịch, quay video để rèn luyện việc sử dụng ngôn ngữ một cách điêu luyện. 3.2. Trí thông minh không gian Giáo viên hướng dẫn học sinh muốn phát huy trí thông minh không gian hãy sưu tập những hình ảnh, những trò chơi có sử dụng tư duy không gian 3 chiều, chơi trò xếp hình, trò chơi rubick. Học chụp ảnh và sử dụng máy quay phim để ghi lại những ấn tượng xung quanh cuộc sống, trang trí lại góc học tập của bản thân. Học sinh nào có điều kiện hơn thì tham gia các lớp vẽ, điêu khắc, học tô màu, chụp ảnh, quay phim, thiết kế đồ họa hoặc một vài lớp học nghệ thuật về hình họa. 3.3. Trí thông minh thể chất Để phát triển trí thông minh thể chất, giáo viên hướng dẫn học sinh nên tham gia các hoạt động thể thao ở trường, ở địa phương hoặc tham gia các hoạt động trải nghiệm thực tế. Các bạn nữ có thể tham gia các công việc bằng tay đòi hỏi độ khéo léo như thêu thùa, may vá, tô tượng… 3.4. Trí thông minh âm nhạc Giáo viên hướng dẫn học sinh có thể hát mọi lúc mọi nơi khi rảnh rỗi; tham dự các phong trào văn nghệ của chi đoàn, đoàn trường; dành thời gian để nghe những thể loại âm nhạc yêu thích; mua nhạc cụ gõ nhịp để có nền tảng âm nhạc ban đầu, thường xuyên ca hát với gia đình với bạn bè khi vui chơi hay gặp mặt; đi sâu tìm hiểu những nhạc sĩ và ca khúc nổi tiếng… III. TRIỂN KHAI THỰC HIỆN 1. Hình thành ý tưởng 19
  20. - Từ học kỳ 1 năm học 2020 - 2021, khi thiết kế bài dạy “Hai đứa trẻ”, tôi đã có ý tưởng vận dụng trí thông minh đa dạng vào bài dạy. - Sau đó, tôi tiến hành khảo sát các mức độ phát triển trí thông minh ở học sinh của trường THPT Nguyễn Sỹ Sách và 2 trường lân cận. 2. Khảo sát thực tiễn Lớp Học sinh Học sinh Học sinh Học sinh Trường phát triển phát triển phát triển phát triển THPT trí thông trí thông trí thông trí thông minh ngôn minh không minh thể minh âm ngữ trong gian trong chất trong nhạc trong “Hai đứa “Hai đứa “Hai đứa “Hai đứa trẻ” trẻ” trẻ” trẻ” 11C1 10/42 7/42 8/42 5/42 Nguyễn Sỹ ( 23,8%) ( 16,7%) (19,0%) (11,9%) Sách 11C4 12/40 5/40 8/40 5/40 (30%) (12,5%) (20,0%) (12,5%) 11C7 4/38 3/38 10/38 2/38 (10,5%) (7,9%) (26,3%) (5,3%) 11C 11/40 5/40 9/40 4/40 Đặng Thúc (27,5%) (12,5%) (22,5%) (10,0%) Hứa 11D 12/41 5/41 10/41 6/41 (29,3%) (12,2%) (24,4%) (14,6%) 11E 7/39 3/39 15/39 5/39 (17,9%) (7,7%) (38,4%) (12,8%) 11C1 10/41 6/41 7/41 5/41 Đặng Thai ( 24,3%) ( 14,6%) (17,0%) (12,2%) Mai 11C4 11/40 4/40 9/40 5/40 (27,5%) (10%) (22,5%) (12,5%) 11C8 5/38 2/38 12/38 2/38 (13,2%) (5,2%) (31,5%) (5,3%) Qua kết quả khảo sát, tôi nhận thấy: Về ưu điểm học sinh phát triển trí thông minh ngôn ngữ và thể chất có tỉ lệ cao hơn trí thông minh không gian và âm nhạc nhưng tỉ lệ nhìn chung vẫn thấp so với yêu cầu thực tiễn. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2