intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Dạy học về giải toán có lời văn ở lớp 2 theo hướng tiếp cận và phát triển năng lực học sinh

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

61
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói riêng và trong môn Toán 2 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài toán có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Dạy học về giải toán có lời văn ở lớp 2 theo hướng tiếp cận và phát triển năng lực học sinh

  1. PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1 Lí do chọn đề tài Mục tiêu giáo dục Tiểu học là GD học sinh phát triển toàn diện, có những kiến   thức và kỹ năng cơ bản để làm tiền đề cho việc phát triển bền vững và học lên các  cấp học cao hơn. Giáo dục phải hướng tới phát triển các năng lực chung và năng lực  đặc thù liên quan đến từng lĩnh vực giáo dục/môn học/hoạt động trải nghiệm sáng  tạo mà mọi học sinh đều cần có trong cuộc sống, đồng thời tạo điều kiện phát triển  tốt tiềm năng của mỗi học sinh. Cấp tiểu học hướng tới hình thành và phát triển các   năng lực chung như: Tự phục vụ, tự quản; Giao tiếp, hợp tác; Tự  học và giải quyết   vấn đề. Ngoài những năng lực chung, các năng lực đặc thù môn học được nêu ở các  chương trình môn học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo như: năng lực Toán, năng  lực Âm nhạc, năng lực Mĩ thuật,…    Toán học là môn học chiếm vị  trí quan trọng trong các môn học  ở  nhà trường   phổ thông. Toán học được xem là cần thiết không chỉ vì cung cấp nền tảng cho việc  học các môn học khác hoặc là công cụ để giải quyết các vấn đề trong đời sống thực   tế, mà còn bởi lẻ  nó đóng góp nhiều nhất cho sự  phát triển trí tuệ  của mỗi cá nhân  học sinh. Chúng ta cần nhớ  rằng, giáo dục Toán học không chỉ  là giáo dục về  các  công cụ toán học, mà còn là giáo dục về “tư duy toán học”, tức là khả năng suy luận   logic, độc lập, sâu sắc, có hệ  thống. “Tư  duy toán học” đó là cái cần thiết cho mọi   người,  ở  mọi ngành nghề  khác nhau, kể cả  những người mà trong công việc không  phải đụng chạm đến “toán”. Môn Toán là môn học được dạy ở tất cả các khối lớp cấp Tiểu học, do đó vai  trò, vị trí môn Toán có nhiệm vụ không nhỏ trong phát triển nhận thức và tư duy học   sinh. Giúp học sinh nhận thức sự  vật qua việc học toán, từ  đó hiểu biết hơn, biết  cách vận dụng kiến thức toán vào thực tiễn cuộc sống phù hợp với khả  năng học  sinh ở mỗi khối lớp học.    Thực tế qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy  ở khối lớp 2, tôi nhận thấy học   sinh  khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác.  1
  2. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép  tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt  lời giải không phù hợp với đề  toán đặt ra. Chính vì thế  nhiều khi dạy học sinh đặt  câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra  đáp số.      Việc đặt lời giải ngay từ  lớp 1, 2 sẽ là một khó khăn lớn đối với mỗi giáo  viên trực tiếp giảng dạy ở lớp 1, 2  nhất là những tuần đầu dạy toán có lời văn ngay  ở việc giúp các em đọc đề, tìm hiểu đề…Một số em mới chỉ đọc được đề  toán chứ  chưa hiểu được đề, chưa trả  lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì ?...Đến  khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc không có câu lời giải… Những nguyên nhân trên không thể đổ lỗi về phía học sinh 100% được mà một phần  lớn đó chính là các phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những người thầy.  Có thể  nói, đây quả  thực là một khó khăn đối với học sinh khi học giải toán có lời  văn. Đọc một đề toán đang còn là khó đối với các em vậy mà còn tiếp tục phải: Tìm  hiểu đề  toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải, phép tính, đáp số…Với một vài kinh   nghiệm về  dạy học môn Toán đã góp phần nâng cao chất lượng học toán của học   sinh lớp 2. Đây cũng là lý do mà tôi chọn đề tài “Dạy học về giải toán có lời văn ở   lớp 2 theo hướng tiếp cận và phát  triển năng lực học sinh ”, mong tìm ra những  giải pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói  riêng và trong môn Toán 2 nói chung. Để  từ  đó, các em có thể  thành thạo hơn với  những bài toán có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên. 1.2. Điểm mới của đề tài: Đề tài “Dạy học về giải toán có lời văn ở lớp 2 theo hướng tiếp cận và phát   triển năng lực học sinh” đưa ra các giải pháp nhằm giúp cho giáo viên hướng dẫn  hs có kĩ năng thành thạo trong việc giải toán trong từng thao tác hướng dẫn học sinh  giải toán có lời văn ở lớp 2. ­ Giúp giáo viên có kĩ năng tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm khi giải các bài   toán có lời văn theo hướng tiếp cân học sinh nhằm trợ giúp học sinh tự  học, tự giải  2
  3. quyết vấn đề  và phát triển năng lực toán học cho các em thông qua việc rèn luyện   các kĩ năng tư duy, phân tích, tổng hợp; kĩ năng giao tiếp ngắn gọn, logic toán học... ­ Đề tài cũng đưa ra giải pháp giúp giáo viên  hướng dẫn học sinh có năng lực  Tự hoc va giai quyêt vân  ̣ ̀ ̉ ́ ́ , trên cơ sở kiến thức, kĩ năng được hình thành, phát triển  khả năng thực hiện các hành động có ý nghĩa đối với người học.  1.3. Phạm vi áp dụng của đề tài  Trong đề  tài này, tôi tiến hành nghiên cứu, áp dụng trong phạm vi tại trường   Tiểu học nơi tôi công tác và các đơn vị  bạn thông qua sinh hoạt chuyên môn liên  trường. Các giải pháp dạy học, những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình  giảng dạy. Đề  tài có thể  áp dụng cho tất cả  giáo viên đang dạy lớp 2  ở  các trường  tiểu học. PHẦN 2. PHẦN NỘI DUNG 2. 1 Thực trạng của việc học toán phần giải toán có lời văn của học sinh hiện   nay: Tính tới thời điểm hiện tại, học sinh đã quen và thực hiện tương đối tốt mô  hình học tập mới này. Qua thời gian thực hiện , bản thân tôi nhận thấy những mặt   thuận lợi và khó khăn sau :  1. Thuận lợi: ­  Giáo viên luôn được sự  quan tâm của Ngành cấp trên, đặc biệt là của ban  Giám hiệu nhà trường, thường xuyên động viên, khuyến khích giáo viên áp dụng   phương pháp mới vào giảng dạy. Ban Giám hiệu luôn cố gắng tạo điều kiện để giáo  viên an tâm công tác và thực hiện nhiệm vụ được giao.  ­ Cơ  sở  vật chất của nhà trường đảm bảo cho học sinh thực hiện hoạt động  học tập theo hướng tiếp cận học sinh . ­  Học sinh chăm ngoan, có ý thức cố gắng vươn lên trong học tập. Đa số phụ  huynh qua tâm đến việc học hành của học sinh. 3
  4.   ­ Giáo viên được tập huấn nhiều về các phương pháp dạy học, các buổi sinh  hoạt chuyên môn cũng bổ trợ nhiều cho việc sử dụng các phương pháp dạy học  hiệnđại. 2. Khó khăn: ­ Kĩ năng đọc văn bản của học sinh lớp 2 còn hạn chế nhưng ngay từ đầu năm  học, các em đã học giải toán có lời văn. Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ  chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài toán cho biết gì ?. Có thể nói, đây quả thực là một khó khăn đối với học sinh khi học giải toán có lời  văn. Đọc một đề toán đang còn là khó đối với các em vậy mà còn tiếp tục phải: Tìm  hiểu đề toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải, phép tính, đáp số… ­ Để  tiếp cận học sinh, hình thức tổ  chức dạy học chủ  yếu là học nhóm.  Nhưng các em chưa ý thức được việc học theo nhóm.Chia các nhóm nhỏ, lời nói xì  xào nhiều khi lại là cơ  hội để  các em trò chuyện , lãng phí thời gian. Cũng không  tránh khỏi tình trạng các em chỉ thảo luận một cách đối phó nếu giáo viên không tiếp  cận , trợ  giúp. Lúc này nhìn bề ngoài có vẻ học tích cực chủ  động. Nhưng trong tư  duy các em thì chưa chắc. Vậy làm thế  nào để  các em thật sự  hành động trong tư  duy? Làm sao kiểm soát được tư  duy của các em? Đó là câu hỏi đặt ra vẫn chưa có   lời giải. Vì vậy hầu hết quá trình học tập theo nhóm còn mang tính chất hình thức,   chưa thật sự hiệu quả. ­ Số học sinh khá, giỏi thường muốn quyết định quy trình, hình thức, nội dung   làm việc của nhóm, chưa thật sự  đề  cao sự  tương tác bình đẳng và tầm quan trọng  của ý kiến từng thành viên trong nhóm. Chính vì vậy gây tâm lý bất hợp tác, chán  nản cho các thành viên còn lại, dẫn đến nhiều em chưa có ý thức hợp tác nhóm. 3. Thực trạng lớp tôi giảng dạy: Đầu năm học 2019 ­2020  tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 2C.  Qua thực tế  việc làm bài của học sinh, tôi nhận thấy kết quả  việc giải toán có lời  văn  và các năng lực của học sinh lớp 2C có 19 học sinh như sau: Nội dung khảo sát Đầu năm học 2019 ­ 2020 4
  5. SL % Tóm tắt bài toán 5 26,3 Giải và trình bày được 7 36,8 Có lời giải hay,sáng tạo hơn, ngắn gọn  2 10,5 hơn Năng   lực   tự   học,   tự   khám   phá,   giải  6 31,5 quyết vấn đề(T). Năng lực hợp tác(T) 7 26,3 * Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trong giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2: ­ Về phía nhà trường: + Cơ  sở  vật chất của nhà trường: Tuy nhà trường đã có đủ  phòng học nhưng   thiết bị nhà trường còn có nhiều hạn chế. + Về  đội ngũ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy   song còn gặp nhiều khó khăn do trình độ giáo viên còn chưa đồng đều. ­ Về phía gia đình học sinh: + Là một xã địa bàn rộng, có 2 khu vực, khu vực lớp tôi thuộc khu vực lẽ  thường bị  lũ lụt, ngập nước,  dân cư  chủ  yếu sống bằng nghề  nông, nghề  chài đời  sống kinh tế  còn nhiều khó khăn. chính điều đó đã  ảnh hưởng không nhỏ  đến việc   học tập cũng như chất lượng học tập của các em. + Nhiều gia đình đi làm ăn xa gửi con cho ông bà chăm sóc do ông bà đã già yếu  nên không quán xuyến được việc học hành của các cháu.  + Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình còn có quan điểm   '' khoán  trắng '' cho nhà trường.   + Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nên việc học hành của  các em nếu không có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì khó có hiệu quả cao. ­Vê phía học sinh: + Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 2. Vì  kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề  toán và hiểu  đề còn thụ động, chậm chạp… 5
  6. + Thực tế  trong một tiết dạy 35­ 40 phút, thời gian dạy kiến thức mới mất   nhiều –phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả  lời không được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán. + Việc dạy học nhóm  ở  lớp 1 chưa được sử  dụng nhiều, học sinh chưa biết  cách hợp tác để giải quyết vấn đề nên các năng lực của học sinh còn hạn chế. 2.2 Các giải pháp để giúp học sinh hoàn thành tốt dạng toán có lời văn. 2.2.1 Chuẩn bị cho việc giải toán.: Để  giúp cho học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc giải toán  thì chúng ta  không chỉ  hướng dẫn học sinh trong giờ toán mà một yếu tố  không kém phần quan  trọng đó là luyện kĩ năng nói trong giờ Tiếng việt. * Chúng ta đã biết, học sinh lớp 2 còn thụ động, rụt rè trong giao tiếp. Chính vì  vậy, để các em mạnh dạn tự tin khi phát biểu, trả lời người giáo viên cần phải: luôn  luôn gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các trò chơi học tập, được trao   đổi, luyện nói nhiều trong các giờ Tiếng việt giúp các em có vốn từ lưu thông; trong   các tiết học các em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn mà không rụt rè,  tự  ti. Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc cho học   sinh: Đọc nhanh, đúng, tốc độ, ngắt nghỉ  đúng chỗ  giúp học sinh có kĩ năng nghe,  hiểu được những yêu cầu mà các bài tập nêu ra. * Theo chương trình sách giáo khoa mới đến tuần 23 học sinh lớp 1 mới tập   giải toán có lời văn. Ở lớp 1 yêu cầu học sinh nhìn tranh nêu phép tính, tập nêu tiếp   câu hỏi để  hoàn chỉnh đề  toán, tập viết câu lời giải  ở  dạng đơn giản và chưa yêu   cầu lời giải hay, chính xác. Trong khi thời gian dành cho cả tiết học là không quá 40   phút, với nhiều yêu cầu kiến thức khác nhau nên các em chưa được rèn luyện nhiều.   Vì vậy, khi lên lớp 2 những tuần đầu khi học đến phần giải toán có lời văn, nhiều   em lúng túng kể cả một số em có lực học khá. Mặc dù giáo viên đã hướng dẫn các   em nêu đề toán, tìm hiểu đề và gợi ý nêu miệng lời giải nhưng cách trình bày, sự trau   chuốt lời giải của các em chưa được thành thạo. Hiểu được những thiếu sót đó của   các em,  ở  những tiết toán có bài toán giải tôi thường đến tận từng đối tượng học   6
  7. sinh để  hướng dẫn kĩ và kết hợp trình bày mẫu nhiều bài giúp các em ghi nhớ  và   hình thành kĩ năng. Ví dụ1: Sau khi đọc đề toán ở trang 11 SGK Toán 2: “ Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát. Hỏi   cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?”. ­ Học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán(Theo cặp đôi và từng cặp chia  sẻ trước lớp): Lớp 2A có :          18 học sinh. Lớp 2B có :           21 học sinh.           Hỏi có tất cả :       ? học sinh.     ­ Học sinh nêu miệng câu lời giải: Cả hai lớp có tất cả số học sinh đang tập hát là:  Học sinh nêu miệng phép tính: 18 + 21 = 39 (bạn) Ví dụ 2:    ­ Học sinh được làm quen với việc tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời  sau đó nêu cách giải rồi tự  giải.  Ở  dạng bài này, giáo viên cũng cần cho học sinh   luyện nêu miệng đề toán nhiều lần để các em ghi nhớ một bài toán. Bài tập 2 (trang 25 ­ SGK toán 2) An có:                      11 bưu ảnh. Bình nhiều hơn An:  3 bưu ảnh. Bình có:                   …bưu ảnh.              ­ Cho học sinh đọc thầm, đọc miệng tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời theo  yêu cầu theo cặp đôi sau đó chia sẻ trước lớp: An có 11 bưu ảnh.Bình có số bưu ảnh  nhiều hơn số bưu ảnh của An là 3 cái. Hỏi Bình có tất cả có bao nhiêu cái bưu ảnh?          Sau đó cho các em luyện cách trả lời miệng: Số bưu ảnh của Bình có là: 11 + 3 = 14 (bưu ảnh) Rồi tự trình bày bài giải:  Bài giải 7
  8. Số bưu ảnh của Bình có là: 11 + 3 = 14 (bưu ảnh) Đáp số: 14 bưu ảnh. 2.2.2 Định hướng các bước giải bài toán có lời văn: a) Đọc kỹ bài toán: *Tìm hiểu nội dung bài toán Phần này rất quan trọng, vì vậy khi dạy giáo viên cần tạo điều kiện học sinh  đọc kĩ càng, đọc nhiều lần (đọc thầm trong nhóm) để  hiểu rõ đề  toán cho biết gì?   Bài toán hỏi gì? Bài toán thuộc dạng nào? Ví dụ 3: Một băng giấy màu tím dài 34 dm, băng giấy màu xanh ngắn hơn băng   giấy màu tím 16 dm. Hỏi băng giấy màu xanh dài bao nhiêu đề xi mét? Học sinh đọc đề, nắm kĩ yêu cầu đề (tự hỏi đáp nhau trong nhóm). + Bài toán cho biết gì? (Băng giấy màu tím dài: 34 dm, băng giấy màu xanh ngắn   hơn băng giấy màu tím 16 dm). + Bài toán hỏi gì? ( Băng giấy màu xanh dài bao nhiêu dm?) Có thể cho học sinh phân tích ngược (đối với học sinh nhanh): + Bài toán hỏi gì? (Băng giấy màu xanh dài bao nhiêu dm?) + Bài toán cho biết gì? (Băng giấy màu tím dài: 34 dm, băng giấy màu xanh ngắn   hơn băng giấy màu tím 16 dm).     * Nếu trong bài toán có từ  nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì tôi hướng dẫn cho  học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ  đóở  trong bài toán đang làm, sau đó  giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đăt câu hỏi đàm thoại:  “ Bài toán cho gì? Bài toán hỏi gì?” và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán… Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, tôi dùng phương pháp  giảng giải kèm theo các đồ  vật, tranh minh hoạ  để  các em tìm hiểu, nhận xét nội   dung, yêu cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu của bài toán và dựa  vào câu hỏi của bài, các em nêu miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài toán rồi  cho các em tự trình bày bài giải vào vở bài tập. 8
  9. b, Nhận dạng và phân tích bài toán để lựa chọn cách giải.  *Dạng toán nhiều hơn, ít hơn Đề  học sinh nhận diện được dạng toán này, yêu cầu đầu tiên là học sinh đọc  bài toán, xem xét một số từ ngữ quan trọng để nhận diện dạng toán này. Ví dụ 1:  *) Bố Hà 45 tuổi, mẹ Hà ít hơn bố 7 tuổi. Hỏi mẹ Hà bao nhiêu tuổi? **) Anh hơn em 5, tuổi biết em 8 tuổi. Hỏi anh bao nhiêu tuổi. ***) Bố 45 tuổi, mẹ 38 tuổi. Hỏi bố hơn mẹ mấy tuổi (hoặc mẹ ít hơn bố mấy   tuổi?). Hướng dẫn học sinh xác định bài toán:  Ở bài *) là dạng toán về it hơn. GV hướng dẫn học sinh nhận biết bằng cách:  Biết tuổi của ai? Chưa biết tuổi của ai? (Tuổi bố đã biết 45. Mẹ  chưa biết, nhưng   lại cho biết mẹ ít hơn bố  7 tuổi). Từ trên ta có thể  hướng dẫn học sinh tập tóm tắt   bài toán: Bố: 45 tuổi Mẹ ít hơn bố 7 tuổi Mẹ:……tuổi Ở bài **) là dạng toán về nhiều hơn. GV hướng dẫn tương tự học sinh nhận   biết bằng cách: Tuổi ai đã biết? Tuổi ai chưa biết? (Biết tuổi em là 8 tuổi. Tuổi anh   chưa biết, nhưng tuổi anh hơn em 5 tuổi). Từ đây ta có thể giúp học sinh biết tốm tắt  bài toán: Em: 8 tuổi Anh hơn em: 5 tuổi Anh:……tuổi Ở ví dụ ***) cũng là dạng toán nhiều hơn/ít hơn. Hướng dẫn học sinh xác định  rõ yêu cầu bài để  từ  đó hiểu được yêu càu và đặt lời giải đúng (Đã biết tuổi bố  và  tuổi mẹ, tìm số tuổi nhiều hơn của bố hoặc số tuổi ít hơn của mẹ. * Dạng toán giải liên quan về yếu tố hình học và đo lường: 9
  10. ­ Toán hình:  Ở  lớp 2 tập trung chủ  yếu giới thiệu và cách tìm chu vi của hình  tam giác và hình tứ giác. Yêu cầu học sinh biết tính tổng các cạnh đã biết hoặc tìm 1  cạnh chưa biết khi biết tổng các cạnh và số đo những cạnh đã cho. Ví dụ:  1) Tính độ dài 4 cạnh quyển vở của em. 2) Tính độ dài cạnh còn lại của một hình tứ giác biết tổng độ dài 4 cạnh  là 25cm, tổng độ dài 3 cạnh là 19cm.  ­ Toán đo lường: Các bài toán liên quan các đơn vị đo thời gian (giờ, phút, ngày,   tháng, năm), đơn vị lường lít, cân nặng.         Cần cho học sinh đọc kĩ đề  toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số  từ  khoá quan trọng nói lên những tình huống toán học bị  che lấp dưới cái vỏ  ngôn từ  thông thường như: “ ít hơn”, “ nhiều hơn”, “tất cả”… c,Chọn phép tính giải thích hợp Khi đã xác định được bài toán cái gì đã biết, cái gì phải tìm cần giúp học sinh  chọn phép tính thích hợp.  Chẳng hạn, với dạng toán “nhiều hơn/ít hơn” thì việc xác định lựa chọn phép  tính cho phù hợp, Ví dụ ở *, **) chắc chắn phải sử dụng dấu trừ. Tuy nhiên một số  bài chỉ có đảo một số từ ngữ và dữ kiện thì không phải là phép trừ mà là phép cộng.   Ví dụ: Em 8 tuổi, em ít hơn anh 5 tuổi. Hỏi anh bao nhiêu tuổi? Trong quá trình giảng dạy tôi quan sát, nếu có một nhóm đưa thẻ cứu trợ thì tôi  đến nhóm đó để hướng dẫn. Trường hợp nếu nhiều nhóm cùng đưa thẻ một lúc thì   tôi cho các em quay mặt lên bảng để hướng dẫn chung. Giáo viên nên hướng dẫn cho  học sinh suy luận từ câu hỏi bài toán đến dữ kiện đã cho. Ở ví dụ 3 (mục 2.2. điểm a) GV có thể gợi mở: Bài toán hỏi gì? (Băng giấy màu  xanh dài bao nhiêu dm?); trong đó cái gì đã biết ? (băng giấy màu xanh ngắn hơn.  Như vậy muốn biết băng giấy màu xanh dài bao nhiêu dm ta thực hiện phép tính gì? ( Thực hiện phép tính trừ 34 trừ 16). Khuyến khích học sinh tự tìm nhiều lời giải khác nhau sẽ gây hứng thú học tập   cho học sinh, sáng tạo và suy nghĩ linh hoạt, độc lập. 10
  11. Trong bài toán này học sinh có thể nêu lời giải và thực hiện phép tính như sau: Băng giấy màu xanh dài số dm là (Số dm băng giấy màu xanh dài là / Chiều dài  băng giấy màu xanh là / Độ dài băng giấy màu xanh là...)                                   34 – 16 = 18 (dm)                                                 Đáp số : 18 dm Với kết quả  này tôi hướng dẫn học sinh làm phép tính thử  lại, kiểm tra xem   băng giấy màu xanh có phải là dài 18dm. Lấy 18dm của băng giấy màu xanh cộng   với 16dm băng giấy màu tím dài hơn có bằng với chiều dài băng giấy màu tím   không? Lúc này ta xét tính hợp lí của đáp số. Khuyến khích học sinh tự nhận xét bài của nhau để khắc sâu kiến thức. Đối với những bài toán khó học sinh cần phải đọc đi đọc lại nhiều lần, trao đổi,   suy nghĩ tìm ra cách giải. d ,Trình bày bài giải: Như chúng ta đã biết, các dạng toán có lời văn học sinh đã phải tự  viết câu lời  giải, phép tính, đáp số, thậm chí cả tóm tắt nữa. Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa học, đẹp  mắt cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện yêu cầu này trước   tiên người dạy cần tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng dẫn, quy định. ­ Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi tóm tắt, sau  gần tóm tắt là trình bày bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở (có gạch chân),  câu lời giải ghi cách lề khoảng 2 ­> 3 ô vuông, chữ ở đầu câu viết hoa, ở cuối câu có   dấu hai chấm (:), phép tính viết lùi vào so với lời giải khoảng 2 ­> 3 chữ, cuối phép  tính là đơn vị tính được viết trong dấu ngoặc đơn. Phần đáp số ghi sang phần vở bên   phải (  có gạch chân) và dấu hai chấm rồi mới viết kết quả  và đơn vị  tính  (không  phải viết dấu ngoặc đơn nữa). Song song với việc hướng dẫn các bước thực hiện, tôi thường xuyên trình bày  bài mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình bày để từ đó  học sinh quen nhiều với cách trình bày. Bên cạnh đó, tôi còn thường xuyên nhận xét  11
  12. và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp; tuyên dương trước lớp những học   sinh làm đúng, trình bày sạch đẹp, cho các em đó lên bảng trình bày lại bài làm của   mình để các bạn cùng học tập… Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày như trên, tôi cũng luôn luôn nhắc nhở,  rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ ­ viết số đúng mẫu ­ đẹp. Việc kết hợp giữa  chữ  viết đẹp và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố  góp phần tạo nên sự  thành  công trong vấn đề giải toán có lời văn của các em.       2.2.3. Rèn tính độc lập, năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề cho học sinh:  Học sinh lớp 2 bắt đầu làm quen học theo nhóm theo mô hình trường học mới,   do đó giáo viên cần quan tâm việc tự đọc bài toán (kể cả bài toán là một phép tính cụ  thể  hay bài toán có lời văn), từ  đó tự  mình hiểu theo cách của mình thông qua trải  nghiệm cuộc sống đã có mà các em tự biết (qua mạng, đài, báo, ti vi,…). Có thể nói  đây là việc làm rất tốt nhằm tạo tính chủ động của người học khi tiếp cận một vấn   đề toán học nào đó thì đầu tiên phải biết đề toán, bài toán ấy đang nói lên những sự  kiện nào và ta có thể trao đổi tìm ra cách giải. Sau bước tự đọc bài toán là bước đệm  quan trọng cho việc thảo luận. Các em tự  hiểu để  từ  đó đưa cái tự  hiểu của mình  cùng bạn trong nhóm trao đổi để làm rõ nội dung và tìm ra lời giải bài toán chính xác  nhất. Từ việc  năm đ ́ ược muc tiêu bai hoc; t ̣ ̀ ̣ ự thực hiên đung nhiêm vu hoc tâp theo tai  ̣ ́ ̣ ̣ ̣ ̣ ̀ ̣ ương dân; chia se k liêu h ́ ̃ ̉ ết quả học tập vơi ban, v ́ ̣ ơi nhom; đanh gia k ́ ́ ́ ́ ết quả học tập,  ́ ́ ết quả học tập vơi nhom, thây cô giao; tim kiêm s bao cao k ́ ́ ̀ ́ ̀ ́ ự trợ giup kip th ́ ̣ ời cua ban ̉ ̣   ́ ̀ ́ ̣ ̣ ̣ be, thây cô giao va bô me; vân dung nh ̀ ̀ ững điêu đa hoc đê giai quyêt nhiêm vu hoc tâp,  ̀ ̃ ̣ ̉ ̉ ́ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ống; phat hiên nh cuôc s ́ ̣ ững tinh huông m ̀ ́ ới liên quan tới bai hoc va tim cach t ̀ ̣ ̀ ̀ ́ ự giai  ̉ quyêt. ́      Tính độc lập được quan tâm nhiều  ở  hoạt động thực hành: thể  hiện rõ các   bài tập vận dụng kiến thức­kỹ năng vừa học để  tự  giải quyết các bài tập theo yêu  cầu của GV. Đây là việc làm có tính đặc trưng của rèn kiến thức­kỹ  năng giải toán  cho học sinh một cách thành thục hoặc tương đối thành thục, góp phần làm bước   12
  13. đệm cho việc giải quyết các bài toán ứng dụng trong cuộc sống tại gia đình của các  em đang ở. Ví dụ  như  bài: Bài toán về  nhiều hơn.  Ở  bài này các em được tìm hiểu kiến  thức trọng tâm từ  Hoạt động cơ  bản sau đó các em được vận dụng vào Hoạt động  thực hành. 2.2.4. Tạo điều kiện để học sinh trao đổi, chia sẻ càng nhiều càng tốt: Mỗi bài toán có lời văn học sinh sau khi tìm hiểu để có hướng giải quyết đúng  đắn, các em ngoài yêu cầu phải độc lập suy nghĩ, tìm ra lời giải và đáp số  thì việc   tạo cơ hội cho các em chia sẻ, tranh luận là rất cần thiết. Chia sẻ trao đổi nhằm giúp   các em biết được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân khi làm bài toán, được nói lên  những điều theo quan điểm cá nhân và bảo vệ ý kiến cá nhân hoặc đúc rút điều hay   từ  bạn bè khi mình được bạn bè trong nhóm chỉ  rõ điểm chưa đúng trong khi thực   hiện giải một bài toán có lời giải và đáp số. Không những thế, qua trao đổi, tranh luận một cách dân chủ, giúp học sinh   mạnh dạn trong nói năng, trau dồi ngôn ngữ và đặc biệt các từ ngữ có tính chất toán  học chính xác, tường minh góp phần phát triển tư duy cho học sinh. Chẳng hạn: Khi giao việc cá nhận về  tự  đặt ra bài toán liên quan yếu tố  hình  học và các em tự  giải, sau đó đưa ra tranh luận trong nhóm: Em tự  nghĩ ra đồ  vật   (vườn rau, vườn cây, sân nhà em,….có hình dạng hình tứ  giác. Em tự ước lượng độ  dài mỗi cạnh. Hãy tính chu vi mảnh vườn đó?       2.2.5 Chú trọng rèn kỹ năng trình bày bài toán trước nhóm và trước toàn lớp: ­ Rèn kỹ năng trình bày cẩn thận vào vở làm bài tập: Đối với cách rèn này, yêu cầu bài làm đưa ra cho tất cả  học sinh  ở  mức tối   thiểu để  tất cả  học sinh trong lớp hoàn thành bài giải trong một đơn vị  thời gian  tương ứng và bảo đảm đạt các yêu cầu: Làm được bài toán, trình bày gọn gàng, sạch  sẽ, không cẩu thả.  ­ Rèn kỹ năng tư duy nhanh, làm toán nhanh: 13
  14. Những bài toán được đưa ra chủ  yếu  ở  phần khởi động và phần trò chơi học   tập. Do đó yêu cầu học sinh có phản ứng nhanh và có tư duy tốt khi trả lời. Phần này   không yêu cầu học sinh ghi chép nhiều mà chỉ  sử  dụng vở  nháp hoặc không để  có  thể  đưa ra kết quả  nhanh. Với cách rèn luyện này tạo ra  ở  học sinh sự  phản  ứng   nhanh kèm theo tư duy toán nhanh; đồng thời tạo không khí thi đua học toán sôi nổi,   làm bước đệm cho việc tính nhẩm sau này của học sinh sau này. ­ Rèn kỹ năng tập trung, mạnh dạn, tự tin trước tập thể:        GV cũng có thể  thay đổi bài toán bằng ký hiệu hoặc tóm tắt  ở  bảng phụ,  hoặc là đọc thật nhỏ bài toán ứng dụng thực tế để học sinh cố gắng im lặng để lắng  nghe thông tin đề bài. Các bài toán dễ (mức độ 1 và 2) thì việc ưu tiên học sinh tiếp   thu chậm, rụt rè có thể tự làm bảng nhóm và trao cơ hội cho những học sinh này trình  bày trước nhóm và có thể trước lớp. Cách rèn luyện này giúp các em rụt rè sẽ tự tin,  mạnh dạn và làm toán nhanh nhẹn hơn. ­ Rèn năng lực hợp tác nhóm để  giải quyết vấn đề:  Để  giúp học sinh hợp tác  tốt, giáo viên giao nhiệm vụ  và giải thích rõ ràng mục tiêu làm việc cho từng nhóm  để  mỗi thành viên trong nhóm hiểu được công việc cần phải làm đưa ra những câu  hỏi, ý kiến để  giải quyết nhiệm vụ  học tập, biết kiểm tra kết quả lẫn nhau và đi  đến thống nhất câu trả  lời. Việc hợp tác thành công hay không phụ  thuộc vào tinh   thần hợp tác của từng thành viên và sự chỉ đạo của nhóm trưởng.  2.2.6. Rèn kỹ  năng trình bày bài toán thông qua hướng dẫn học sinh tự làm   phiếu học tập để trưng bày theo nhóm trước lớp. Để học sinh làm được phiếu học tập thì điều không thể thiếu đó là hướng dẫn  học sinh tự  đọc các bài học theo dạng ôn tập. Các em sẽ  tự  viết tên bài toán lên tờ  giấy có dòng kẻ  ô ly số  bài tùy thuộc đề  chuẩn bị  cho các giờ  học của các tiết ôn   tập. Từ đó các em tự trang trí phiếu các em tự làm ở nhà để có thể tự giải trong giờ  học và trưng bày trước nhóm, lớp để  có thể  đưa vào góc sản phẩm học tập của   nhóm lớp các em. Đây có thể xem là giải pháp rất tốt về rèn ý thức tự chuẩn bị bài và  14
  15. năng lực trình batf bài học của học sinh. Cũng từ  đây học sinh cảm thấy học môn  toán rất thú vị. 2.2.7. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập. Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế chê  các em trong học tập, rèn luyện . Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý từng  học sinh mà cứ  quá khen sẽ  không có tác dụng kích thích. Đối với những em chậm  tiến bộ, thường rụt rè, tự  ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả  lời   hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương ngay,   để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những em học   khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới khen.Chính sự  khen, chêđúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng khích   lệ học sinh trong học tâp. Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu tố  không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong   muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta đều  biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp hai nói riêng có trí thông minh khá   nhạy bén, sắc sảo, cóóc tưởng tượng phong phú. đó là tiền đề tốt cho việc phát triển   tư  duy toán học nhưng các em cũng rất dễ  bị  phân tán, rối trí nếu bịáp đặt, căng  thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang trong thời kì phát triển hay  nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể  còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học cũng như làm một việc gìđó trong  một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có hiệu quả thìđòi hỏi người giáo viên phải   đổi mới phương pháp dạy học tức là kiểu dạy học:“ Lấy học sinh làm trung tâm”,  hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em.  2.3: Kết quả đạt được:  Sau khi áp dụng đề tài, qua thực tế việc làm bài của học sinh, tôi nhận thấy kết   quả việc giải toán có lời văn  và các năng lực của học sinh lớp 2C có 19 học sinh như  sau: 15
  16. Đầu năm học 2019 ­  Cuối kì I năm học  Nội dung khảo sát 2020 2019­2020 SL % SL % Tóm tắt bài toán 5 26,3 12 63,2 Giải và trình bày được 7 36,8 14 73,7 Có   lời   giải   hay,sáng  2 10,5 8 42,1 tạo hơn, ngắn gọn hơn Năng   lực   tự   học,   tự  khám   phá,   giải   quyết  6 31,6 12 63,2 vấn đề(T). Năng lực hợp tác(T) 7 36,8 13 68,4 So sánh bảng  khảo sát ta thấy được kết quả đáng ghi nhận của đề  tài. Với sự  nổ lực cố gắng của giáo viên và ý thức vươn lên trong học tập của các em, kết quả  học tập phần giải toán có lời văn của các em đã có chuyển biến tích cực rõ rệt. Các   em biết chủ động tự đọc bài toán không đợi giáo viên nhắc. Sau bài làm các em thực  sự tự trao đổi bài với bạn cùng nhóm, được tự làm ra các phiếu học toán và trình bày  bài toán chủ động, trưng bày bài toán để có thể tham gia nhận xét bài học các nhóm,   trong nhóm giúp học sinh phát triển năng lực và phẩm chất theo tinh thần đổi mới  của Thông tư 22. PHẦN III: KẾT LUẬN: 3.1 Ý nghĩa của đề tài:  Đề  tài đã thực sự làm cho bản thân thấy rõ sau khi áp dụng các giải pháp nêu   trên đã thực sự đem lại cho học sinh  thêm niềm say mê, yêu thích học toán. Học sinh  nắm vững kiến thức và kỹ năng thực hành, vận dụng các dạng toán giải có lời văn từ  cách tự  đọc bài toán, tóm tắt bài toán, tìm lời giải và đáp số  của bài toán yêu cầu.  Cũng từ đây, học sinh càng đọc tốt và nhanh hơn, hiểu kỹ hơn ngôn ngữ  tiếng Việt   nói chung, trong đó có ngôn ngữ  Toán học. Các năng lực toán học được phát triển  một cách toàn diện, đồng đều. 16
  17.  Để  việc dạy học giải toán có lời văn đạt hiệu quả, theo tôi trước hết người  giáo viên cần phải thực sự đặt cái tâm vào công việc giảng dạy của mình bởi vì có  tài mà không có tâm cũng trở nên vô dụng, bởi thế  mà bản thân tôi trong giảng dạy   ngoài kiến thức ra phải luôn luôn yêu nghề, yêu học sinh, luôn tự  học tự rèn và học   hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để nâng cao năng lực về chuyên môn nhằm tìm ra  được phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh. Nắm rõ đặc điểm của từng đối tượng để có biện pháp và phương pháp dạy học  thích hợp, đồng thời chú trọng rèn các kĩ năng cần thiết cho học sinh đặc biệt là kĩ   năng sống. Cách dạy học hướng phát triển năng lực  giúp các em có điều kiện phát   huy hết khả năng của mình trong việc bàn bạc, trao đổi tìm ra cách giải quyết để đi  đến kết quả. Trong dạy học toán luôn có các trò chơi khởi động nhằm giúp cho các em khắc   sâu kiến thức, gây hứng thú học tập đem lại kết quả cao. 3.2 Kiến nghị đề xuất * Với Phòng GD và ĐT: Duy trì thường xuyên các cụm sinh hoạt chuyên môn, chuyên  đề  về  đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực học tập của học   sinh. * Với gia đình, địa phương : quan tâm hơn nữa đến việc học tập của con em mình,  nhất là phần hoạt động ứng dụng, trải nghiệm thực tế.  * Với giáo viên: Dạy học phân loại đối tượng, quan tâm đến tất cả  các đối tượng  đặc biệt là học sinh trung bình, yếu thường xuyên phụ  đạo. Giáo viên luôn đầu tư,   nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học rèn luyện kĩ năng dạy học theo hướng   tiếp cận học sinh và phát triển năng lực học sinh. Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ về cách“Dạy học về giải toán có lời văn   ở lớp 2 theo hướng tiếp cận và phát triển năng lực học sinh”. Những vấn đề mà  tôi đã nêu  ở  trên chắc chắn không tránh khỏi hạn chế. Bởi mỗi cá nhân, mỗi điều  kiện môi trường học tập đều có những giải pháp riêng. Tuy nhiên, đó là những kinh   nghiệm quý báu của bản thân đã đúc rút được trong quá trình giảng dạy để  từng   17
  18. bước khắc phục hạn chế, nâng cao hiệu quả giảng dạy mà bản thân đảm nhiệm. Tôi  rất mong nhận được sự  đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo,của các bạn đồng  nghiệp để giải pháp này được hoàn thiện hơn.  Xin chân thành cảm ơn! 18
  19. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2