intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

13
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm "Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 1" nhằm tìm hiểu về thực trạng việc phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong các giờ học. Góp phần đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học ở Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường hoạt động cá nhân phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 1

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨNH QUỲNH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP, HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG VÀ SÁNG TẠO CHO HỌC SINH LỚP 1 Lĩnh vực: Lĩnh vực khác Cấp học: Tiểu học Tên tác giả: Chử Thị Phương Thảo Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh Chức vụ: Giáo viên NĂM HỌC 2021 – 2022
  2. PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục tiểu họccó vai trò hết sức quan trọng. Điều này đã được ghi rõ trong “Luật Phổ cập giáo dục tiểu học”: “Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất của trẻ em nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Có thể nói, giáo dục tiểu học chính là những viên gạch đầu tiên xây dựng một nền móng vững chắc cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Trong xu thế hiện nay, phương pháp giáo dục tập trung vào vai trò người giáo viênsang phương pháp tập trung vào vai trò của học sinh (HS); từ hình thức dạy học truyền thốngsang hình thức dạy học bằng việc tổ chức các hoạt động nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của HS. Phương pháp dạy học mới nhằm phát huy khả năng và kiến thức của HS ở mức cao nhất, ở đó các em không bị "áp đặt" phải nghe và tiếp nhận kiến thức một cách thụ động mà các em được chủ động tự chiếm lĩnh tri thức dưới sự tổ chức, định hướngcủa GV. Qua quá trình giảng dạy học sinh lớp 1 tại trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh, tôi thấy nhận thức của các em còn nhiều hạn chế, ý thức tự học, tự rèn luyện rất ít. Các em còn ỷ lại, muốn dựa vào những gì có sẵn, thụ động trong học tập. Để làm rõ vấn đề trên tôi đã chủ động quan sát tìm hiểu và tìm ra một số nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng nhiều học sinh chưa xác định được tầm quan trọng của việc học nên chưa ham học đó là: Bước vào học lớp 1, cuộc sống của trẻ có nhiều thay đổi lớn. Thứ nhất, trẻ phải làm quen với một môi trường mới, bạn bè mới, thầy cô mới và đặc biệt là những môn học mới đem lại cho các em những hiểu biết về cuộc sống. Nếu như ở mẫu giáo, chơi là hoạt động chủ đạo thì ở tiểu học, hoạt động học lại là hoạt động chủ đạo. Đây chính là thay đổi thứ hai trong đời sống của trẻ. Việc chuyển từ hoạt động chơi sang hoạt động học là một rào cản rất lớn đối với HS lớp 1. Các em thường khó tập trung trong một thời gian dài, học theo cảm hứng nên kết quả học tập còn chưa cao, nhất là ở năm học này là năm học thứ hai thực hiện chương trình GDPT 2018 trong hoàn cảnh đại dịch Covid-19 đã đặt ra nhu cầu thực sự cho việc học tập của học sinh bằng hình thức trực tuyến. Vì vậy, người giáo viên phải có biện pháp giúp trẻ có hứng thú học tập, học với niềm thích thú, say mê ở tất cả các môn học. Để làm được điều đó, người GV phải kết hợp sử dụng nhiều phương pháp dạy học (PPDH) với nhiều hình thức khác nhau để lôi cuốn, hấp dẫn trẻ vào bài học, khơi dậy ở các em lòng ham hiểu biết, tìm tòi học hỏi, tạo cho HS động cơ học tập, có nhu cầu học tập để tiếp thu những kiến
  3. thức mới. Khi có hứng thú học tập thì các em tham gia hoạt động sôi nổi, hào hứng và tích cực. Hứng thú với học tập là một yếu tố rất quan trọng và cần thiết giúp cho việc học tập của HS mang lại hiệu quả cao, tránh được sự căng thẳng và nhàm chán. Trên thực tế, hiện nay, GV thường chú trọng tới việc dạy kiến thức, kĩ năng cho HS chứ ít quan tâm đến việc HS có thích học hay không. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tiết học trở nên nhàm chán, đơn điệu, hiệu quả chưa cao. Từ tình hình thực tế người giáo viên cũng phải thay đổi hình thức dạy học, quản lý học sinh sao cho vừa đảm bảo chất lượng giáo dục vừa tạo tâm thế học tập tốt cho học sinh.Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn đề xuất đề tài: “ Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 1”. 2. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu về thực trạng việc phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS trong các giờ học. - Góp phần đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học ở Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS, tăng cường hoạt động cá nhân phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tế. - Góp phần gây hứng thú học tập cho HS, việc phát huy tính tích cực của HS trong giờ học không chỉ giúp các em lĩnh hội được tri thức mà còn giúp các em củng cố và khắc sâu các tri thức đó. 3. Đối tượng nghiên cứu. - Học sinhkhối lớp 1 năm học 2021-2022 ở trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh. - Một số biện pháp đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 1. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Trong quá trình thực hiện đề tài này,tôi đã sử dụng một số phương pháp: - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế dạy học: + Phương pháp quan sát + Phương pháp điều tra 5. Phạm vi - Thời gian nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 1A6 trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh. - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2021 đến tháng 4/2022.
  4. PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận Việc đổi mới giáo dục Tiểu học dựa trên những đường lối, quan điểm chỉ đạo giáo dục của nhà nước, đó là những định hướng quan trọng trong việc phát triển và đổi mới giáo dục Tiểu học. Những quan điểm và đường lối chỉ đạo của nhà nước về đổi mới giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng được thể hiện trong nhiều văn bản. Theo khoản 2 điều 29 Luật giáo dục 2019 đã nêu rõ mục tiêu của Giáo dục tiểu học:"nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, năng lực của học sinh; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”. Khoản 3 điều 30 Luật giáo dục 2019 đã nêu: “Phương pháp giáo dục phổ thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc điểm đối tượng học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình giáo dục.” Nghị quyết sổ 29-NQ/TW yêu cầu “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng CNTT&TT trong dạy và học”. Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì để tồn tại và phát triển con người luôn phải chủ động, tích cực cải biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển tính tích cực xã hội là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục. Tính tích cực học tập - về thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh tri thức. Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi
  5. của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những tình huống khó khăn… Tính tích cực học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như: - Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn… - Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác nhau về một số vấn đề… - Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu. Tính tích cực, chủ động học tập thể hiện ở cả hai mặt: tính chuyên cần trong hành động và tính sâu sắc trong các hoạt động trí tuệ. Cách học tích cực thể hiện trong việc tìm kiếm, xử lý thông tin và vận dụng chúng vào giải quyết các nhiệm vụ học tập và thực tiễn cuộc sống, thể hiện sự tìm tòi, khám phá vấn đề mới bằng phương pháp mới, không phải là sao chép, mà là sự sáng tạo của mỗi cá nhân. Như vậy dạy học phát huy tính tích cực học tập của học sinh, có tác dụng mạnh mẽ và to lớn trong quá trình dạy học. Trong dạy học, tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp thu các kiến thức, kĩ năng, biến những cái đó thành kiến thức, kỹ năng của mình. Học như vậy, khiến sự hiểu biết của các em vững chắc hơn, hứng thú của các em sẽ được tăng cường hơn. Dạy học phát huy tính tích cực giúp hoạt động tư duy của học sinh được khơi dậy và phát triển, giúp hình thành và phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ. 2. Cơ sở thực tiễn: 2.1. Thực trạng việc đổi mới phương pháp, hình thức dạy học trong nhà trường Qua thực tế giảng dạy, điều tra việc dạy và học của giáo viên và học sinh tôi nhận thấy một số thực trạng sau: 2.1.1.Thuận lợi: 2.1.1.1.Nhà trường: -Luôn hỗ trợ, tạo điều kiện về cơ sở vật chất,đường truyền mạng, đồ dùng dạy học hiện đại, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho việc giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh. - Quan tâm, chỉ đạo sát sao đến việcđến việc bồi dưỡng chuyên môn đặc biệt là đổi mới phương pháp, hình thức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh bằng việc tổ chức các hội thảo, chuyên đề cấp trường, cấp huyện. Chú trọng đến nội dung các buổi Sinh hoạt chuyên môn của tổ, khối. 2.1.1.2.Giáo viên:
  6. - Đội ngũ giáo viên của trường đều có trình độ chuyên môn vững vàng, thường xuyên được cử đi học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. - Thực hiện thành thạo ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy bằng việc xây dựng bài giảng điện tử; trò chơi tương tác; học liệu điện tử,… có khả năng đáp ứng yêu cầu cơ bản khi sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại. 2.1.1.3. Phụ huynh học sinh: - Đa số phụ huynh quan tâm tới việc học tập của con như chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết; chuẩn bị đồ dùng, vật liệu,… giúp con với từng bài học cụ thể. - Phối hợp với nhà trường để tạo điều kiện cho HS có môi trường học tối ưu nhất. 2.1.2.Khó khăn: 2.1.2.1.Giáo viên: - Ở một số giờ học, một số giáo viên chưa biết thiết kế và tổ chức kế hoạch dạy học theo hướng đổi mới phương pháp, vẫn quen dạy theo phương pháp cũ. - Ở một số tiết, giáo viên đã tổ chức hoạt động cho học sinh phát hiện các chi tiết, hình ảnh nhưng vẫn còn tồi tại một số vấn đề như: + Việc tổ chức hoạt động mất nhiều thời gian. + Giáo viên chưa hướng dẫn học sinh sưu tầm,chuẩn bị trước cho bài học. + Sử dụng đồ dùng chưa hợp lí, chưa khoa học do đó không phát huy được tính sáng tạo của học sinh. + Một số bài giảng điện tử chưa có chất lượng nên hiệu quả còn chưa cao. + Một số giáo viên vì trình độ ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế, hoặc chưa sử dụng thành thạo các thiết bị hiện đại nên còn lúng túng hoặc có tâm lí “e ngại” khi đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. 2.1.2.2. Học sinh: -Học sinh lớp 1 còn nhỏ nên ý thức tự giác trong việc học tập còn chưa cao, còn hạn chế về ngôn ngữ nên có em còn rụt rè. - Thời gian đầu, học sinh chưa quen với việc học trực tuyến. - Đối tượng học sinh có nhiều hoàn cảnh khác nhau, khả năng tiếp thu khác nhau. 2.2. Nguyên nhân - Nhận thức về sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và ý thức thực hiện đổi mới của một bộ phận giáo viên chưa cao. - Năng lực của một số giáo viên về vận dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học tích cựccòn hạn chế. - Việc sử dụng thiết bị dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong dạy học còn chưa tối ưu.
  7. - Kết quả khảo sát năng lực của học sinh giữa học kì I TS Giữa học kì I HS Nội dung đánh giá Tốt Đạt SL % SL % Nănglực - Tự chủ và tự học 15 31,3 33 68,7 chung - Giao tiếp và hợp tác 17 35,4 31 64,6 - Giải quyết vấn đề và 12 25 36 75 sáng tạo 48 Năng lực - Ngôn ngữ 15 31,3 33 68,7 đặc thù - Tính toán 14 29,2 34 70,8 - Khoa học 17 35,4 31 64,6 - Thẩm mĩ 13 27,1 35 72,9 - Thể chất 15 31,3 33 68,7 Nhìn vào bảng số liệu trên, có thể thấy số lượng học sinh có năng lực ở mức Tốt còn chưa cao, tỉ lệ học sinh có năng lực ở mức đạt còn khá nhiều. Chính vì vậy, chúng ta cần có những giải pháp hay hơn để giúp học HS hứng thú trong học tập, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho HS. 3. Các biện pháp đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 1 Để phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo học tập của HS đòi hỏi người GV rất nhiều điều, phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến trẻ. Ngoài ra muốn phát huy tính tích cực, tự giác học tập của HS phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức phù hợp. Vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy học tất yếu phải đổi mới hình thức tổ chức dạy học tạo cơ hội cho học sinh động não, tìm tòi, suy nghĩ làm việc, trao đổi thảo luận với bạn.Cụ thể là tôi đã sử dụng các biện pháp sau: 3.1. Biện pháp 1:Vận dụng các phương pháp dạy học truyền thống một cách hiệu quả. Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Để nâng cao hiệu quả của các phương pháp dạy học này người giáo viên trước hết cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật của từng phương pháp trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, có
  8. thể tăng cường tính tích cực nhận thức của học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo quan điểm dạy học giải quyết vấn đề. Phương pháp dạy học truyền thống là cách dạy học được truyền từ lâu đời qua nhiều thế hệ. Về cơ bản thì có thể hiểu, phương pháp này lấy trung tâm là giáo viên. Giáo viên sẽ là người thuyết trình, diễn giải kho tàng tri thức còn học sinh sẽ là lắng nghe, ghi chép và học thuộc. Trong các phương pháp dạy học truyền thống,giáo viên chính là tâm điểm còn học sinh là khách thể, là quỹ đạo xung quanh.Phương pháp dạy học này đã được tiến hành lâu đời và vẫn mang đến những hiệu quả tích cực. Tuy nhiên khi giảng dạy bằng phương pháp dạy học truyền thống cũng sẽ tồn đọng những nhược điểm như học sinh sẽ tiếp thu kiến thức theo cách thụ động, giờ học sẽ diễn ra trong sự buồn tẻ và thiên về các kiến thức lý thuyết. Học sinh sẽ ít có điều kiện được thực hành, chủ động tìm tòi nên rất khó nhớ lâu và áp dụng được trong thực tế. 3.1.1. Phương pháp thuyết trình Phương pháp thuyết trình là phương pháp dạy học mà phương tiện cơ bản dùng để thực hiện là lời nói sinh động của giáo viên. Phương pháp thuyết trình được sử dụng chủ yếu để trình bày kiến thức mới, sử dụng trong việc làm mẫu hoặc hệ thống hoá kiến thức trong ôn tập chương, phần. Phương pháp thuyết trình có ưu điểm là trong thời gian ngắn, GV có thể trình bày một khối lượng lớn các nội dung, chủ động được về thời gian và kế hoạch toàn lớp. Nếu trong thuyết trình GV lập luận gọn gàng, chặt chẽ, diễn đạt có hệ thống thì HS có thể học tập và rèn luyện các mặt đó. Tuy nhiên, phương pháp thuyết trình có những mặt hạn chế như: HS phải tiếp thu kiến thức một cách thụ động vì chỉ dùng lời nói.Nếu lời nói đơn điệu, HS dễ bị mệt. Chỉ đòi hỏi một quá trình nhận thức thụ động ở HS nên không giúp trò phát triển ngôn ngữ nói vì HS chỉ nghe. Chính vì vậy, ở bậc Tiểu học GV nên hạn chế sử dụng phương pháp này, nhất là khi học sinh tham gia học trực tuyến. Khi cần thiết, cũng chỉ nên sử dụng với mức độ vừa phải: nhịp điệu chậm, phần tài liệu thuyết trình ngắn và chiếm khoảng thời gian ngắn nhất trong một tiết học. Ví dụ, khi dạy các tiết tập đọc, trước khi vào bài GV có thể sử dụng phương pháp thuyết trình để giới thiệu, dẫn dắt. Với tiết tập đọc:Anh hùng biển cả- sách Cánh Diều, để giới thiệu bài, trước hết tôi hỏi HS những hiểu biết của bản thân về cá heo. HS trả lời theo hiểu biết của bản thân. Sau đó, GV giới thiệu: cá heo là một trong số các loài động vật thông minh và thân thiện. Cá heo là loài động vật có vú, sinh con và nuôi con bằng sữa. Cá heo có khả năng hiểu được ngôn ngữ, hành vi đơn giản của con người,… Khi thuyết trình, GV có thể sử dụng tranh, ảnh minh họa hoặc video để học sinh hứng thú và chú ý hơn. Ngoài ra GV còn có thể sử dụng phương pháp này ở để giúp HS hiểu được nghĩa của một số từ ngữ trong phần luyện đọc từ ngữ. Khi dạy tiếtTự nhiên và xã hội- sách Cánh diều - bài An toàn trên đườngsau khi HS chỉ ra được một số biển báo và đèn tín hiệu giao thông trong hình, GV có thể sử dụng phương pháp thuyết trình để giới thiệu thêm, cung cấp thêm cho HS về một
  9. số loại biển báo giao thông khác có kèm hình ảnh, video. Việc này sẽ giúp HS có thêm hiểu biết, hiểu hơn về các loại biển báo giao thông, ứng dụng vào cuộc sống. 3.1.2. Phương pháp giảng giải - minh hoạ Phương pháp giảng giải minh hoạ là phương pháp dùng lời nói để giải thích tài liệu, kiến thức có sẵn, kết hợp với việc dùng các phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích từ đó giúp HS hiểu nội dung bài học. Phương pháp này kết hợp được giữa cái cụ thể và cái trừu tượng nên có ưu thế hơn phương pháp thuyết trình trong việc gây hứng thú học tập, trong việc giúp HS hiểu, nhớ kiến thức. Trong dạy học, khi sử dụng phương pháp này GV cần lưu ý rằng càng ở lớp dưới thì thành phần minh hoạ càng phải chiếm tỉ lệnhiều hơn. Tuy nhiên phương pháp này cũng vẫn chỉ nhằm thông báo những kiến thức có sẵn cho HS. Vì vậy, HS vẫn bị đặt trong tình trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực nhận thức của các em. Ví dụ đối với tiết Toán - sách Cánh Diều - bài Làm quen với phép cộng, dấu cộngđể hình thành kiến thức về phép cộng, GV đưa ra tình huống có thao tác gộp 3 que tính ở tay phải với 2 que tính ở tay trái. Gộp lại cả hai tay và yêu cầu HS đếm xem có tất cả bao nhiêu que tính. Sau đó giáo viên dùng các chấm tròn để diễn tả các thao tác vừa thực hiện trên que tính rồi giới thiệu phép cộng (với nghĩa gộp), và dấu cộng (+). Ở tiết 2 của bài, GV sẽ sử dụng que tính và thao tác: lấy ra 4 que tính, lấy thêm 1 que tính. Đếm xem có tất cả bao nhiêu que tính? GV dùng chấm tròn để diễn tả các thao tác trên que tính rồi giới thiệu phép cộng (với nghĩa thêm). Từ việc giảng giải và minh họa trên, HS sẽ nhận biết được ý nghĩa của phép cộng với nghĩa gộp lại và nghĩa thêm. Hình thành cho HS khái quát ban đầu về phép cộng, giúp HS nắm chắc bản chất của phép cộng, ghi nhớ kiến thức. Trong các tiết thực hành, luyện tập, ôn tập, phương pháp này thường được dùng khi phát hiện các vấn đề mà dùng các phương pháp dạy học khác không hiệu quả. Khi học sinh không hiểu rõ các kiến thức hoặc hiểu chưa đầy đủ thì giáo viên nên sử dụng phương pháp này. 3.1.3. Phương pháp gợi mở vấn đáp Phương pháp gợi mở vấn đáp là phương pháp dạy học mà GV không trực tiếp đưa ra những kiến thức đã hoàn chỉnh mà hướng dẫn HS tư duy từng bước một để các em tự tìm ra kiến thức mới phải học. Phương pháp vấn đáp là phương pháp đưa ra những câu hỏi thích hợp cho HS trả lời để dần dần đi đến kết luận cần thiết. Thường người ta sử dụng phương pháp vấn đáp để tiến hành gợi mở. Phương pháp gợi mở vấn đáp tương đối thích hợp trong dạy học ở tiểu học. Nó làm cho không khí lớp học sôi nổi, sinh động; kích thích hứng thú học tập và lòng tự tin của HS; rèn luyện cho các em năng lực diễn đạt sự hiểu biết của mình bằng ngônngữ; làm cho các em thu nhận kiến thức được nhanh chóng, chắc chắn. Khi dạy tiết Toán - sách Cánh Diều - bài: Phép trừ trong phạm vi 6 (tiếp theo)dựa vào phương tiện trực quan (Các tấm thẻ phép tính) qua thao tác tìm ra được kết quả của các phép tính, GV phối hợp thao tác cùng HS xếp các thẻ thành
  10. một bảng cộng. 1 + 1 = 2; 2 + 1 = 3, vậy làm thế nào để biết được phép tính tiếp theo? (HS nói lấy 1 số cộng với 1) tương tự như vậy GV tiếp tục gợi mở để giúp HS hoàn thành được bảng cộng trong phạm vi 6. Sau khi hoàn thành, GV sử dụng các câu hỏi để giúp HS nhận ra đặc điểm của các phép cộng ở từng dòng hoặc từng cột. Từ đó có thể nhớ Bảng cộng nhanh hơn. Việcvận dụng các phương pháp dạy học truyền thống một cách hiệu quả giúp cho mỗi tiết học, mỗi hoạt động trở nên thú vị hơn, hướng tới mục đích học sinh làm trung tâm, phát huy được tính chủ động từ phía học sinh. Giáo viên là người cung cấp, gợi mở để học sinh phát hiện và giải quyết được vấn đề một cách sáng tạo. 3.2. Biện pháp 2:Vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học mới nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh. Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm và dạy học cá thể là những hình thức của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức có những chức năng riêng. Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng phương pháp thuyết trình cần được khắc phục, đặc biệt thông qua làm việc nhóm. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên đã cải tiến bài lên lớp theo hướng kết hợp thuyết trình của giáo viên với hình thức làm việc nhóm, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình, mà còn có những hình thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên biệt như phương pháp đóng vai, nghiên cứu. Mặt khác, việc bổ sung dạy học toàn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ trong một tiết học mới chỉ cho thấy rõ việc tích cực hoá “bên ngoài” của học sinh. Muốn đảm bảo việc tích cực hoá “bên trong” cần chú ý đến mặt bên trong của phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các phương pháp dạy học tích cực khác. Ví dụ: Ở tiết học vần- môn Tiếng Việt - sách Cánh Diềukhi dạy các bài dạy vần ngoài việc sử dụng phương pháp dạy học giải quyết vấn đề để cá nhân HS tự phát hiện ra được vần mới có trong bài ở phần làm quen, trong hoạt động Mở rộng vốn từ GV có thể sử dụng kết hợp các hình thức làm việc nhóm và trò chơi để HS được chia sẻ ý kiến của bản thân với các bạn. - Khi chia nhóm, có thể chia nhóm theo nhiều hình thức: + Nhóm cố định: Học sinh sẽ quay lại với bàn dưới tạo thành một nhóm. + Chia nhóm theo ngẫu nhiên: Điểm số theo thứ tự, khi thực hiện học sinh sẽ có cơ hội học hỏi, giao lưu với các bạn trong lớp. + Chia nhóm với từng năng lực của học sinh: Chia nhóm theo từng đối tượng, trình độ, nhận thức của các em.
  11. + Chia nhóm theo sở thích: Những em có chung sở thích sẽ tự động tạo thành một nhóm. + Mỗi một lần hoạt động nhóm tôi sẽ cho thay đổi nhóm trưởng và thư ký, như vậy tất cả các em sẽ được tham gia. Ngoài ra có thể kết hợp PPDH theo lối kiến tạo: Dạy học theo quan điểm của thuyết kiến tạo nghĩa là GV hướng dẫn để HS tự khám phá ra tri thức, thực hiện những nhiệm vụ học tập, từ đó kiến tạo tri thức cho bản thân. Vì vậy, các kiểu dạy học như: dạy học khám phá, dạy học họp tác, dạy học giải quyết vấn đề,... đều được coi là các PPDH vận dụng quan điểm của lí thuyết kiến tạo. Trong dạy học, HS được khuyến khích sử dụng các phương pháp riêng của họ để kiến tạo tri thức chứ không phải chấp nhận lối tư duy của người khác. Như vậy, tri thức được kiến tạo một cách tích cực bởi chủ thể nhận thức chứ không phải được tiếp nhận một cách thụ động từ môi trường bên ngoài. Trong môi trường học tập kiến tạo, HS được học nhiều hơn khi thực sự được cuốn hút vào việc học, thay vì chỉ lắng nghe thụ động. Thuyết kiến tạo coi trọng vai trò chủ động và tích cực của HS trong quá trình học tập để tạo nên tri thức cho bản thân, đặc biệt tư duy của HS dần trở nên trừu tượng và phát triển hơn, HS được thúc đẩy để hoạt động trong tiến trình học tập. Vai trò trung tâm của quá trình dạy học được chuyển từ GV sang HS, GV đóng vai trò là người cố vấn, dàn xếp, nhắc nhở và giúp HS phát triển, đánh giá những hiểu biết và việc học của mình. Ví dụ, khi dạy tiết Tự nhiên và xã hội- Sách Cánh Diều - bài Cây xanh quanh em hoạt động:Tìm hiểu một số bộ phận bên ngoài của cây. GV có thể chonhóm HS thảo luận và vẽ một cái cây hoàn chỉnh. HS trình bày: + Nhóm em đã vẽ cây gì? + Cây đó có những bộ phận nào? + Tại sao nhóm em lại vẽ cây đó như thế? + Tại sao nhóm em nghĩ cây đó lại có bộ rễ trông như vậy? HS quan sát theo nhóm cây xoài và cây cỏ mà bộ rễ đã được che kín và trả lời các câu hỏi sau: Đoán xem bộ rễ của từng cây trông như thế nào? Tại sao nhóm em lại nghĩ vậy? Trình bày dự đoán. HS thực hành quan sát rễ cây và trả lời các câu hỏi liên quan trong phiếu. Nhóm HS trình bày kết quả thực hành. HS trả lời các câu hỏi được các bạn đặt ra. HS trả lời những câu hỏi của GV. Khả năng trình bày, phân tích của HS được phát triển. HS tự tin, mạnh dạn khi bày tỏ ý kiến của bản thân. Trong dạy học trực tuyến, giáo viên cũng có thể kết hợp nhiều phương pháp dạy học để giờ học trực tuyến không còn bị nhàm chán, HS hứng thú hơn. Ví dụ, khi dạy tiết Đạo đức - Sách Cánh Diều - bài Yêu thương gia đình, ở hoạt động khám phá, giáo viên cho HS thảo luận theo nhóm 6 và cho biết bạn trong tranh đã làm gì để thể hiện tình yêu thương với người thân trong gia đình. Sau đó,
  12. bạn nhóm trưởng điều hành và cả nhóm cùng nhau chia sẻ các cử chỉ, hành động, lời nói khác thể hiệntình yêu thương với người thân trong gia đình. Dạy học theo mô hình trên đã chứa đựng sự thay đổi quan điểm là dạy học phải luôn chú ý tới những tri thức và kĩ năng đã có của HS, đó là một trong những tiền đề để tổ chức dạy học những kiến thức mới. Việc kết hợp đa dạng nhiều phương pháp dạy học sẽ mang lại hiệu quả cao trong các tiết học. HS vừa nắm được kiến thức của bài, vừa có hứng thú với bài học, yêu thích môn học, vừa phát huy được tính tích cực và sáng tạo. 3.3. Biện pháp 3: Dạy học thông qua hoạt động trải nghiệm Học qua trải nghiệm là một quá trình học diễn ra một cách tự nhiên trong mỗi người. Học qua trải nghiệm là quá trình học thông qua việc xem xét, phân tích những sự việc mỗi người đã trải qua, đã chứng kiến, đã nghe thấy, đã đọc được, hoặc xem được, để tự rút ra kinh nghiệm, bài học cho chính mình và áp dụng các bài học đó để ứng xử hợp lí, hiệu quả hơn, góp phần phát huy tiềm năng sáng tạo và khả năng thích ứng với cuộc sống, môi trường và nghề nghiệp tương lai. Ví dụ: Khi dạy bài “Em tự giác làm việc của mình” ở môn Đạo đức - Sách Cánh Diều - GV cho HS trải nghiệm với tình huống giả định tại lớp học: sắp xếp sách vở, đồ dùng học tập gọn gàng, ngăn nắp; tự gấp chăn; vệ sinh lớp học, ….hướng dẫn HS các thao tác phù hợp, nhanh gọn. Sau đó hỏi: + Em cảm thấy thế nào khi tự giác làm việc của mình? + Em nên làm những việc nào? + Vì sao nên tự giác làm việc của mình? Sau khi rút ra các việc cần làmHS sẽ rèn được các kĩ năng,đưa kiến thứcvào trong những tình huống của cuộc sống. Đối với môn Tự nhiên và xã hội - Sách Cánh diều - bài: Giữ an toàn cho cơ thể ở hoạt động Thực hành bảo vệ sự an toàn cho bản thân, sau khi tìm hiểu 3 bước giữ an toàn cho bản thân GV có thể cho HS thực hành đóng vai xử lí tình huống như: Trên đường về bị người lạ rủ rê, lôi kéo, có những hành vi gây hại cho bản thân; Nhìn thấy người lạ đang cố bắt cóc, làm hại bản thân hay bạn bè,… Phương pháp dạy học này được thể hiện rõ nhất qua môn Hoạt động trải nghiệm - Sách Cánh Diều. Ở bài Ngày Tết quê em: Hoạt động Tìm hiểu về ngày Tết quê em:các nhóm chia sẻ, thảo luận với nhau trong nhóm kể cho bạn nghe những hiểu biết của mình về ngày Tết, giới thiệu với bạn những loại bánh, kẹo, loại quả, loại cây, hoa (chuẩn bị sẵn vật thật, tranh ảnh). HS mạnh dạn, tự tin giới thiệu về các đồ vật mình đã chuẩn bị. Các nhóm hoạt động sôi nổi, hào hứng. Hoạt động Tập trang trí cho ngày TếtHS sẽ sử dụng các vậy đã chuẩn bị sẵn ở hoạt động trước sau đó trải nghiệm làm một số hoạt động thường có trong ngày Tết như:
  13. + Nhóm 1: Bày mâm ngũ quả: HS sử dụng các loại quả đã chuẩn bị, cùng nhau lựa chọn và sắp xếp để bày được mâm ngũ quảđẹp. + Nhóm 2: Bày khay bánh kẹo: nhóm sẽ chia nhau bày các loại bánh kẹo vào khay để tiếp khách vào dịp Tết. + Nhóm 3:Trang trí cây đào: HS sử dụng hoa đào (giấy, vải) đã chuẩn bị sẵn, sau đó gắn lên cành đào rồi tiếp tục trang trí bằng dây kim tuyến, móc treo,… + Nhóm 4: Viết câu đối, thiệp lời chúc: HS sẽ chọn tự tay viết câu: Chúc mừng năm mới – Vạn sự như ý bằng bút lông lên giấy đỏ. Trang trí và viết lời chúc Tết vào thiệp. Qua bài học, khi được trải nghiệm HS vô cùng hào hứng, sôi nổi, tự tin mạnh dạn xây dựng bài và ghi nhớ kiến thức một cách hiệu quả. Học qua trải nghiệm là một cách học có hiệu quả và lí thú, giúp cho người học hưng phấn và cảm thấy quá trình học tập nhẹ nhàng. Trong dạy học thông qua hoạt động trải nghiệm, GV là người điều hành, dẫn dắt HS qua các hoạt động học tập theo các bước của chu trinh học qua trải nghiệm để các em biến các trải nghiệm thành kinh nghiệm hữu ích cho bản thân sau mỗi tiết học và trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên để có những tiết học đạt được hiệu quả cao cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng của GV, người GV biết thiết kế các hoạt động dạy học, tổ chức các hoạt động linh hoạt, phù hợp. Trong năm học này, việc dạy học thông qua hoạt động trải nghiệm gặp nhiều khó khăn vì học trực tuyến, cần có sự chuẩn bị của HS, phối hợp của phụ huynh HS.Điều quan trọng để giúp việc học online trở nên hiệu quả hơn cần lập kế hoạch học tập càng chi tiết càng tốt. Tôi hướng dẫn học sinh những giờ họcsinh lập kế hoạch rõ ràng và chi tiết. Gửi phiếu giao việc, nhờ phụ huynh học sinh hướng dẫn và nhắc nhở con chuẩn bị trước. Ngoài ra tôi kết hợp với các trang hỗ trợ trực tuyến; ví dụ: padlet (dùng để chia sẻ, thảo luận nhóm), class kick (dùng để làm bài cá nhân) ...Giáo viên cũng cần phân rõ hoạt động cần học sinh làm ở nhà, sản phẩm cần có và hoạt động trên lớp để học sinh có tâm thế sẵn sàng với tiết học online. Giáo viên có thể chia nhóm cố định suốt các tiết học online để học sinh có thói quen thảo luận, giúp tăng tính tương tác trong bài giảng.Khi có kế hoạch rõ ràng học sinh sẽ thực hiện để hoàn thành được nhiệm vụ học tập của mình. 3.4. Biện pháp 4. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ trợ dạy học Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy học mới cho các trường tiểu học từng bước được tăng cường. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo viên luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy.
  14. Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Tôi luôn tìm tòi và học hỏi để sử dụng công nghệ thông tin vào bài học để gây hứng thú học tập cho HS. Thứ nhất, ở các môn học tôi luôn sử dụng bài giảng điện tử, sách điện tử, những video, hình ảnh thật, tiếng động, âm nhạc để minh họa các nội dụng có liên quan đến bài mà các em khó quan sát đến thực tế. Phân môn tập viết: để HS có thể quan sát rõ cách viết các con chữ, nét nối GV có thể sử dụng các video viết chữ ở Sách giáo khoa điện tử. Phân môn kể chuyện: sử dụng các video kể chuyện có hình làm tăng sự chú ý, hứng thú và nhớ lâu ở học sinh.Môn Tự nhiên và xã hội - sách Cánh Diều - bài: Cơ thể em, bài: Giữ an toàn cho cơ thể, GV sử dụng video để học sinh nhận biết được vùng riêng tư của con trai và con gái; nhấn mạnh hơn cho HS việc bảo vệ vùng riêng tư của cơ thể, hay thực hành bảo vệ sự an toàn cho bản thân. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (E-Learning), sử dụng các trang web tổ chức cho HS ôn luyện kiểm tranhư olm, vioedu,…Giới thiệu, cung cấp đến HS và PH kênh học trực tuyến VTV7: Tiếng Việt; Toán; Tiếng Anh https://www.youtube.com/c/VTV7tv/playlists?view=50&sort=dd&shelf_id=2 Thứ hai, việc sử dụng đồ dùng trực quan cũng rất cần thiết để nâng cao tính tích cực, chủ động và sáng tạo của HS. HS lớp 1, năm đầu tiên trẻ mới tới trường nên còn nhiều bỡ ngỡ. Đặc biệt tư duy của trẻ lớp 1 là tư duy trực quan cụ thể, đó là kiểu tư duy được hình thành trong quá trình vui chơi. Ở tuổi này các em rất dễ xúc cảm, thích cái đẹp, cái mới lạ vì vậy đồ dùng trực quan sinh động góp phần trong việc hình thành kiến thức và giáo dục. Ở môn Toán, khi dạy bài: “ Các số 1, 2, 3” GV cùng trò cần có các nhóm có 1, 2, 3 đồ vật cùng loại. Chẳng hạn: 3 bông hoa, 3 hình vuông, 3 con bướm, 3 hình tròn, … (trong bộ đồ dùng) Giáo viên cần giới thiệu từng số 1( 2, 3) Giáo viên hướng dẫn học sinh lấy và quan sát các nhóm chỉ có một phần tử(từ cụ thể đến trừu tượng, khái quát), chẳng hạn: thẻ có một con chim, thẻ vẽ một chấm tròn, một que tính, 1 hình tam giác, ... Mỗi lần cho học sinh quan sát một nhóm đồ vật, học sinh nêu, chẳng hạn: học sinh chỉ vào bức tranh và nói: “ Có một con chim, có một chấm tròn, có một hình tam giác, ...” Ở bài: Phép cộng, trừ trong phạm vi 6, phạm vi 10 (tiếp theo). Để hình thành được bảng trừ, bảng cộng trong phạm vi 6, phạm vi 10 GV sẽ chuẩn bị các thẻ phép tính, chia học sinh thành các nhóm và điền kết quả của phép tính. Sau đó lần lượt HS sẽ gắn (xếp) các phép tính theo quy luật nhất định để dần hình thành được bảng cộng, bảng trừ.
  15. Hay ở bài: Khối hộp chữ nhật, khối lập phương. HS sẽ sử dụng các khối hình để xếp thành các hình yêu thích. GV khuyến khích HS suy nghĩ và xếp nhiều hình, HS được thỏa sức sáng tạo. Thứ ba,sử dụng trò chơi học tập là hoạt động tạo hứng thú, duy trì tốt hơn sự chú ý của các em vào bài học, giảm tính chất căng thẳng của giờ học. Trong thực tế tôi sử dụng trò chơi để hình thành kiến thức, kỹ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kĩ năng đã học. Vì thế tôi luôn tìm tòi những trò chơi để các em vừa có thể học vừa chơi lại đem lại hiệu quả trong học tập. Khi sử dụng trò chơi học tập, mục tiêu và nội dung trò chơi phục vụ cho kiến thức và kĩ năng trọng tâm của bài học và mang đầy đủ tính chất của một trò chơi: Có luật chơi, cách chơi, gây hứng thú giữa học sinh và cá nhân. Đối với mỗi trò chơi, tôi đều thiết kế theo quy trình sau: Bước 1: Giới thiệu tên trò chơi, mục đích của trò chơi Bước 2: Hướng dẫn học sinh chơi trò chơi. Ở bước này giáo viên cần làm những việc sau: + Chia đội chơi, quy định số thành viên mỗi đội chơi, cử trọng tài, thư kí,... + Chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ để chơi ( giấy khổ to, thẻ từ, quân bài, cờ,...) + Giới thiệu cách chơi: quy định thời gian chơi, những điều người chơi không được làm, cách tính điểm,... + Chơi thử ( nếu cần) Bước 3: Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi Bước 4: Nhận xét, đánh giá kết quả trò chơi Để trò chơi mang lại hiệu quả cao thì khi thiết kế và tổ chức trò chơi trong giờ học cần lưu ý: - Lựa chọn trò chơi mang ý nghĩa giáo dục - Thời gian chơi mỗi trò chơi từ 3 – 5 phút - Trong mỗi tiết học không nên lạm dụng tổ chức nhiều trò chơi - Hình thức trò chơi đa dạng, phong phú. Khi tổ chức trò chơi giáo viên có thể lồng ghép vào trò chơi các nhân vật hoạt hình, các câu chuyện cổ tích quen thuộc mà trẻ yêu thích để làm cho trò chơi thêm hấp dẫn. Ví dụ: Khi dạy bài Phép cộng số có hai chữ số với số có một chữ số (SGK Toán 1, tập 2 – trang 44) tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “ Giải cứu Bạch Tuyết” như sau: Tên trò chơi:Giải cứu Bạch Tuyết
  16. 1.Mục đích - Rèn luyện kĩ năng thực hiện các phép tính cộng có nhớ số có hai chữ số với số có một chữ số - Rèn kĩ năng phản xạ nhanh cho học sinh 2.Chuẩn bị: Giáo viên thiết kế trò chơi trên PowerPoint gồm 1 bức tranh có hình nàng Bạch Tuyết và 4 ô cửa bí mật. Các ô cửa có chứa đề bài như sau: - Ô cửa 1: 44 + 2 = ? - Ô cửa 2: 23 + 5 = ? - Ô cửa 3: 60 + 7= ? - Ô cửa 4: 82 + 5= ? 3.Cách chơi - Trò chơi này, tôi tổ chức cho cả lớp cùng tham gia. Học sinh nào giơ tay nhanh sẽ được quyền trả lời. - Giới thiệu trò chơi như sau: Các em ạ! Mụ phù thủy độc ác nham hiểm đã nhốt nàng Bạch Tuyết ở một nơi bí mật. Để giải cứu được nàng Bạch Tuyết chúng mình phải hành trình mở lần lượt 4 ô cửa bí mật này. Mỗi ô cửa đều có chứa 1 phép tính hoặc 1 bài toán. Sau khi mở được 4 ô cửa nàng Bạch Tuyết sẽ được giải cứu. Các em có muốn giúp nàng Bạch Tuyết không nào? Trong quá trình dạy học trực tuyến, tôi dựa theo nội dung của từng bài, từng mạch kiến thức và điều kiện thời gian trong mỗi tiết học để thiết kế trò chơi tương tác sao cho phù hợp. Ví dụ:Một số trò chơi tương tác GV có thể thường xuyên sử dụng như: Quizizz: Đây là trò chơi trên web, học sinh không phải cài đặt gì chỉ cần ấn vào link điền tên mình là chơi được. Có nhiều hình ảnh và dạng câu hỏi. Học sinh thao tác trực tiếp lên màn hình. Đặc biệt, việc soạn 1 trò chơi trên quizizz rất nhanh. Trong Quizizz có sẵn kho câu hỏi, bài tập tương tác mà giáo viên cả nước đã làm. Chúng ta chỉ cần gõ tên nội dung mình muốn rồi nhấn tìm kiếm sẽ hiển ra nhiều lựa chọn. Thầy cô thấy câu nào hợp với nội dung mình cần thì ấn nút “add” sẽ tự động đưa câu đó vào bài thầy cô thiết kế. Cứ nhặt như vậy chỉ vài phút là có một trò chơi rất hay, nhiều hình ảnh và thú vị. Khi chơi lại có nhạc, có thứ tự bảng điểm nên các con rất thích, rất thi đua. Khi thi xong, tôi chụp ảnh 3 bạn đứng nhất để nêu tên, tặng sao và đưa ảnh lên nhóm zalo lớp ngay. Class point: ClassPoint là 1 phần mềm bổ trợ được tích hợp và sử dụng trực tiếp trên Microsoft PowerPoint giúp bạn thực hiện các thao tác hỗ trợ việc giảng dạy hoặc báo cáo online. Bên cạnh tính năng tuyệt vời đó thì ClassPoint còn giúp bạn tạo phòng học online và cho phép học sinh, sinh viên tham gia vào phòng học của
  17. bạn. Các dạng bài tập: Trắc nghiệm, điền từ, trả lời ngắn, vẽ, tải hình ảnh. Khi chơi xong, có thể thấy được bảng xếp hạng của những học sinh có câu trả lời đúng và nhanh nhất. Thứ tư,trong thời gian học trực tuyến tôi đãsử dụng phần mềm Azotavà eNetViet để chấm, chữa, nhận xét, đánh giá bài làm của học sinh Để sử dụng được các ứng dụng trên giáo viên tiến hành các bước: - Bước 1: Sau mỗi bài học, tôi sẽ gửi lên nhóm lớp danh sách học sinh cần nộp bài để cô giáo nhận xét. Mỗi môn/ phân môn, tôi sẽ gửi danh sách 5-10 học sinh, cứ lần lượt luân phiên môn Toán, các phân môn trong môn Tiếng Việt và các môn học khác. - Bước 2: Yêu cầu phụ huynh chụp khổ dọc bài làm của học sinh rồi gửi theo link Azota hoặc eNetViet của cô giáo để được nhận xét, đánh giá. - Bước 3: Giáo viên sử dụng phần mềm Azota hoặc eNetViet để chấm, nhận xét, đánh giá rồi gửi phản hồi lại cho học sinh. Thứ năm,việc động viên, khích lệ học sinh kịp thời sẽ giúp học sinh tự tin, nhân cách của học sinh ngày càng được kiện toàn, hành vi tích cực sẽ được phát huy. Ngược lại, phê bình, trách mắng, chỉ trích làm cho lòng tự trọng của trẻ bị tổn thương. Chính vì vậy, trong các giờ học, giờ học trực tuyến thay vì trách phạt và chê bai học sinh tôi sẽ dành cho các em những lời khen ngợi trân thành khi các em có sự tiến bộ. Đối với những em học toán chưa tốt, bài làm còn mắc lỗi, tôi gợi ý để các em tìm ra lỗi sai trong bài và sửa lại dưới sự dẫn dắt của cô giáo. Ngoài nhận xét bằng lời, đối với những học sinh chú ý, ham học và làm bài đầy đủ tôi có thể thưởng bông hoa, sticker hay thư khen cuối tuần bằng cách chiếu lên màn hình. Khi các em được nhận những lời khen, phần quà nhỏ bé đó các em cảm thấy rất vui và hạnh phúc. Tôi còn sử dụng ClassDojo: là một công cụ giáo dục hỗ trợ quản lý lớp học và giao tiếp giữa nhà trường, giáo viên với học sinh và phụ huynh. Thông qua Class Dojo, các bên có thể dễ dàng theo dõi và tham gia các hoạt động của nhau. Đây là một lớp học online nhỏ nhằm mục đích thúc đẩy quá trình học tập của học sinh cũng như gia tăng sự kết nối giữa nhà trường, giáo viên và học sinh. Nhờ việc thi đua giành điểm tốt mà tạo hứng thú cho học sinh, giúp học sinh hứng thú, hăng hái hơn, làm cho mỗi giờ học trực tuyến không còn nhàm chán, tẻ nhạt. Giáo viênthường xuyêntăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ trợ dạy học, nhận xét, đánh giá, thông qua đó, giáo viên nắm bắt được tình hình học tập của học sinh. Học sinh có sự chuyển biến, tiến bộ, phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo vì khi giáo viên gửi phản hồi về việc đánh giá, không chỉ học sinh mà phụ huynh cũng nắm bắt được con mình còn
  18. yếu ở đâu để phối hợp với giáo viên giúpHS tiến bộ. Việc sử dụng các trò chơi tương tác, ứng dụng quản lý lớp đã giúp học sinh hứng thú, hăng hái và nỗ lực không còn thấy tẻ nhạt, nhàm chán trong mỗi giờ học, kể cả học trực tuyến. 4. Kết quả Sau khi sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học trên, tôi nhận thấy: học sinh học tập một cách tích cực, tự giác, độc lập và sáng tạo kể cả khi tham gia học trực tuyến. Đặc biệt còn giúp phong trào thi đua học tập của lớp trở nên sôi nổi hơn.Trong lớp nhiều em rụt rè đã hăng hái phát biểu xây dựng bài, lớp học sôi nổi, học sinh hứng thú, tiếp thu kiến thức nhanh, các em thích học, thích được đến trường, thích học hỏi, từ đó cũng phát huy được năng lực, khả năng sư phạm của người giáo viên.
  19. PHẦN III. KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Khi đổi mới các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, tiết dạy của mỗi giáo viên trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Người học là trung tâm nhưng vai trò, uy tín của người thầy được đề cao hơn. Bên cạnh đó, khả năng chuyên môn của người thầy sẽ tăng lên nhờ sự linh hoạt, kết hợp giữa các phương pháp, hình thức. Khi giáo viên biết đổi mới phương pháp, hình thứctổ chức dạy học, học sinh sẽ được học chứ không bị học. Học sinh được chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm của mình đồng thời với việc bổ sung những kiến thức, kinh nghiệm không chỉ từ giáo viên mà còn từ chính các bạn trong lớp. Học sinh sẽ hạnh phúc khi được học, được sáng tạo, được thể hiện, được làm. Nhờ học theo hướng tích cực mà học sinh ghi nhớ sâu kiến thức và tăng khả năng áp dụng vào thực tế lên gấp 3-4 lần so với cách học thụ động một chiều. Thể hiện cụ thể qua bảng: TS Cuối kì I Giữa học kì II H Nội dung đánh giá Tốt Đạt Tốt Đạt S SL % SL % SL % SL % Nănglực - Tự chủ và tự 17 35,4 31 64,6 32 66,7 16 33,3 chung học - Giao tiếp và 20 41,6 28 58,4 30 62,5 18 37,5 hợp tác - Giải quyết 15 31,2 33 68,8 27 56,2 21 43,8 vấn đề và sáng 48 tạo Năng - Ngôn ngữ 17 35,4 31 64,6 30 62,5 18 37,5 lực đặc - Tính toán 19 39,5 27 60,5 33 68,8 15 31,2 thù - Khoa học 20 41,6 28 58,4 31 64,6 17 35,4 - Thẩm mĩ 16 33,3 32 66,7 27 56,2 21 43,8 - Thể chất 18 37,5 30 62,5 28 58,4 20 41,6 2. Khuyến nghị - Nhà trường thường xuyên tổ chức các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học. Tăng cường tổ chức giao lưu học hỏi giữa các giáo viên trong trường và trường bạn. Tổ khối quan tâm bồi dưỡng hơn đối với giáo viên. - Đối với giáo viên: Phải gần gũi, yêu thương học sinh, khuyến khích tinh thần học hỏi của các em một cách kịp thời, tạo cơ hội cho học sinh học hỏi, tự tìm tòi tri thức. Phối hợp với cha mẹ học sinh để giúp các em cởi mở, chủ động hơn trong học tập, nhất là thời gian khi trở lại trường sau một thời gian dài học trực tuyến.
  20. - Đối với cha mẹ học sinh: Cần quan tâm hơn nữa đến việc học tập của con em mình. Kết hợp với nhà trường và giáo viên chủ nhiệm để cùng giáo dục con em, nâng cao chất lượng giáo dục. Trên đây là biện pháp “ Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh lớp 1”bản thân tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy. Tôi rất mong được sự góp ý từ quý đồng nghiệp và cấp lãnh đạo để tôi có phương pháp giảng dạy tốt hơn, nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh và nâng cao chất lượng giảng dạy cho giáo viên. Tôi xin trân trọng cảm ơn ! Thanh trì, ngày 25 tháng 4 năm 2022 Người viết Chử Thị Phương Thảo
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2