intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kỹ năng kể chuyện bằng hình thức đóng vai

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:28

31
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là tìm hiểu về hình thức đóng vai trong dạy học phân môn kể chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc cho học sinh lớp 2, 3. Thiết kế một số bài kể chuyện đã nghe, đã đọc sử dụng hình thức đóng vai trong dạy học phân môn kể chuyện lớp 2, 3.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kỹ năng kể chuyện bằng hình thức đóng vai

  1. MỤC LỤC 1. Cơ sở lý luận 1.1. Lý luận của việc dạy học kể chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc trong  dạy học phân môn kể chuyện lớp 2, 3 1.2. Hình thức đóng vai 1.3. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu. CHƯƠNG II: THIẾT KẾ BÀI HỌC KỂ CHUYỆN SỬ DỤNG HÌNH  THỨC ĐÓNG VAI KIỂU BÀI ĐàNGHE, ĐàĐỌC CHO HỌC SINH  LỚP 2,3 2.1 Nguyên tắc thiết kế bài học kể chuyện sử dụng hình thức đóng vai để tạo  hứng thú và nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2, 3. 2.2. Quy trình thiết kế  bài học kể  chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc cho học   sinh lớp 2 2.3. Quy trình vận dụng việc sử  dụng hình thức đóng vai vào dạy học phân   môn kể chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc cho học sinh lớp 2, 3 2.4. Về khả năng áp dụng của sáng kiến  2.5. Những thông tin cần được bảo mật: Không. 2.6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 2.7. Đánh giá lợi ích thu được: 2.8. Danh sách tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu:
  2. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Vấn đề quan trọng được quan tâm nhiều nhất hiện nay là thay đổi căn  bản và toàn diện của nền giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học trong   trường phổ  thông, nhất là bậc Tiểu học đang được quan tâm và có những  bước tiến mạnh mẽ  nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho học   sinh. Phương   pháp   dạy   học   là   chuyển   từ   người   dạy   làm   trung   tâm   sang   người học là trung tâm để phát huy tính tích cực của học sinh. Học sinh được   tham gia một cách hết sức tích cực trong quá trình dạy học. Người trực tiếp  tham gia các hoạt động và có cơ hội trải nghiệm chính là học sinh. Vì vậy nên   lấy người học là trung tâm trong cả quá trình dạy học là đổi mới căn bản và   toàn diện trong phương pháp dạy học, phát huy cao độ  tính chủ  động, sáng  tạo và tích cực của học sinh. Ở đây, giáo viên chỉ là người hỗ trợ, cộng tác để  học sinh được hoạt động và tham gia nhiều hơn. Vì vậy kể  chuyện là một  trong những phân môn đóng vai trò rất quan trọng trong môn Tiếng Việt  ở  Tiểu học. Thông qua kể  chuyện giúp các em phát triển ngôn ngữ, nhận thức và  giao tiếp, góp phần cơ  bản vào việc hình thành và phát triển nhân cách sau  này, đặc biệt là phân môn kể chuyện lớp 2. Kể lại được câu chuyện đã nghe,  đã đọc chính là một trong những kiến thức cơ bản, có ý nghĩa rất quan trọng  trong khi các em phát triển tư  duy cũng như  các phẩm chất tích cực của học   sinh Tiểu học. Điều này rất cần thiết trong việc hình thành nhân cách cho các  em. Trong đó đóng vai là hình thức được sử  dụng độc đáo nhất trong phân   môn này. Bằng hình thức này, học sinh được tham gia nói, chia sẻ  nhiều hơn,  khai thác được tính tích cực của các em, từ  đó các em sẽ  nắm vững bài học   hơn. Nhằm phát huy việc nâng cao chất lượng dạy học, có ý nghĩa phát huy  năng lực, tố  chất của cả  giáo viên và học sinh. Hình thức đóng vai được sử  dụng trong phân môn kể  chuyển kiểu bài đã được nghe, đã đọc đã được giáo   viên quan tâm và sử dụng một cách thường xuyên và đa dạng. Tuy nhiên, hình  thức đóng vai vẫn chưa được áp dụng và sử dụng một cách triệt để và thực sự  hiệu quả. 4
  3. Vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài “Kỹ năng kể chuyện bằng hình thức đóng  vai” để  nghiên cứu, góp phần tháo gỡ  một số  vướng mắc trong việc dạy học   phân môn kể  chuyện bậc Tiểu học, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong  thời kỳ đổi mới. 2 . Tên sáng kiến: Kỹ năng kể chuyện bằng hình thức đóng vai 3. Tác giả sáng kiến: ­ Giáo viên: Đinh Thu Hương ­ Địa chỉ công tác: Trường Tiểu học Liên Minh ­ Điện thoại: 0363 916 148 ­ Email: huonghungthhcvp@vinhphuc.edu.vn. 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Giáo viên Đinh Thu Hương 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: ­ Sáng kiến sử dụng trong giảng dạy môn Tiếng Việt. ­ Vấn đề sáng kiến giải quyết: + Thực tiễn của việc dạy học kể chuyện đã nghe, đã đọc trong dạy học   phân môn Kể chuyện cho học sinh lớp 2. + Thực tiễn của việc dạy học kể chuyện bằng hình thức đóng vai. + Thiết kế  một số  bài kể  chuyện đã nghe, đã đọc sử  dụng hình thức  đóng vai trong dạy học phân môn Kể chuyện lớp 2.  6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 9/2018.           7. Mục đích nghiên cứu    ­ Tìm hiểu về hình thức đóng vai trong dạy học phân môn kể  chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc cho học sinh lớp 2, 3.    ­ Thiết kế một số bài kể chuyện đã nghe, đã đọc sử dụng hình thức  đóng vai trong dạy học phân môn kể chuyện lớp 2, 3.           8. Đối tượng nghiên cứu  Việc sử dụng hình thức đóng vai trong dạy học phân môn kể  chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc cho học sinh lớp 2, 3.          9. Nhiệm vụ nghiên cứu    ­ Cơ sở lý luận của việc dạy học kể chuyện đã nghe, đã đọc trong  dạy học phân môn kể chuyện cho học sinh lớp 2, 3.    ­ Thực tiễn của việc dạy học kể chuyện đã nghe, đã đọc trong dạy  5
  4. học phân môn kể chuyện cho học sinh lớp 2, 3.           ­ Thực tiễn của việc dạy học kể chuyện bằng hình thức đóng vai.    ­ Thiết kế một số bài kể chuyện đã nghe, đã đọc sử dụng hình thức  đóng vai trong dạy học phân môn kể chuyện lớp 2, 3.         10. Phương pháp nghiên cứu    ­ Phương pháp thống kê, phân loại.           ­ Phương pháp so sánh, đối chiếu.           ­ Phương pháp thực nghiệm.           ­ Phương pháp điều tra. 6
  5. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lý luận           1.1. Lý luận của việc dạy học kể chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc  trong dạy học phân môn kể chuyện lớp 2, 3        1.1.1. Khái niệm kể chuyện ­ Kể là một động từ biểu thị hành động nói. ­ Do đó, đặc điểm của văn kể chuyện cũng là đặc điểm của truyện.   Đặc trưng cơ  bản của truyện là tình tiết, tức là có sự  việc đang xảy  ra, đang diễn biến, có nhân vật với ngôn ngữ, tâm trạng, tính cách  riêng. Kể  chuyện là một phương pháp trực quan sinh động bằng lời  nói. Khi cần thay đổi hình thức diễn giảng nhằm thu hút sự chú ý của  người nghe, người ta cũng xen kẽ  phương pháp kể  chuyện với các   môn khoa học tự nhiên. Kể chuyện thường được dùng trong phần kể  về  tiểu sử  tác giả, miêu tả  quá trình phát minh, sáng chế, quá trình  phản ứng hóa học... Văn kể chuyện là một loại văn mà học sinh phải  được luyện tập diễn đạt bằng miệng hoặc bằng viết thành bài theo  những quy tắc nhất định. Vì tính chất phổ biến và ứng dụng rộng rãi  của loại văn này nên nó trở  thành loại hình cần được rèn kĩ năng, kĩ  xảo bên cạnh các loại hình văn miêu tả, văn nghị luận. Kể chuyện là  một môn học của các lớp bậc Tiểu học. Có người hiểu đơn giản kể  7
  6. chuyện chỉ là kể chuyện dân gian, kể chuyện cổ  tích. Thực ra không  hẳn như  vậy, kể  chuyện  ở  đây bao gồm việc kể  nhiều loại truyện   khác nhau, kể  cả  truyện cổ  và truyện hiện đại, nhằm mục đích giáo  dục, giáo dưỡng, rèn kĩ năng nhiều mặt của một con người. “Sở dĩ có  thể  xác định “kể chuyện” là một thuật ngữ  vì nó có một kết cấu âm   tiết  ổn định, một phạm trù  ngữ  nghĩa (còn gọi là khái niệm) nhất  định. Lâu nay, thuật ngữ “kể chuyện” vẫn được dùng với ý nghĩa kể  một câu chuyện bằng lời, kể cả câu chuyện có hình thức hoàn chỉnh,  được in trên sách báo”. ­ Trong phạm vi đề tài này, kể chuyện chính là tên gọi của một phân  môn Tiếng Việt  ở  bậc Tiểu học. Có thể  hiểu đơn giản kể  chuyện   nhằm mục đích phát triển lời nói cho học sinh, bồi dưỡng cho các em  những cảm xúc thẩm  mĩ  lành mạnh, cung cấp những kiến thức về  vốn sống và văn học có tác dụng giáo dục. Hoạt động kể  chuyện là  hình thức trình bày lại câu chuyện với  một chuỗi các sự  việc có đầu  có cuối liên quan đến một hay một số nhân vật bằng lời kể một cách  hấp dẫn, sáng tạo, giàu ngữ điệu và có sự phối hợp diễn xuất qua nét  mặt, cử  chỉ, điệu bộ  của người kể  một cách tự  nhiên nhằm truyền  cảm đến người nghe.        1.1.2. Các kiểu bài kể chuyện trong phân môn kể chuyện ­ Kể  chuyện là một trong những phân môn quan trọng của bộ  môn  Tiếng Việt ở Tiểu học. Sự đa dạng của các câu chuyện kể cũng như  sự phong phú về nội dung của những câu chuyện đó  mà phân môn kể  chuyện cũng được chia  ra làm ba kiểu bài: + Kiểu bài nghe ­ kể lại câu chuyện vừa nghe thầy cô kể trên lớp + Kiểu bài kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc + Kiểu bài kể lại câu chuyện đã được chứng kiến hoặc tham gia 1.1.3. Vai trò của dạy học kể chuyện cho học sinh lớp 2, 3    ­ Phân môn Kể chuyện được xếp liền ngay sau phân môn Tập đọc   8
  7. của bộ môn Tiếng Việt, sở dĩ như vậy là vì kể chuyện có vai trò đặc  biệt trong dạy học tiếng mẹ  đẻ, vì hành động kể  là một hành động  “nói” đặc biệt trong hoạt động  giao  tiếp.  Kể  chuyện  vận  dụng  một  cách  tổng  hợp  sự  hiểu  biết  về  đời sống và tạo điều kiện để  học  sinh rèn luyện một cách tổng hợp các kĩ năng Tiếng Việt như: Nghe,  nói, đọc, viết trong hoạt động giao tiếp. ­ Khi   nghe   thầy   giáo   kể   chuyện,   học   sinh   đã   tiếp   nhận   tác  phẩm văn học ở dạng lời nói có âm thanh. Khi học sinh kể chuyện là  các em đang tái sản sinh hay sản sinh một tác phẩm nghệ  thuật  ở  dạng lời nói. Vì truyện là một tác phẩm văn học nên kể  chuyện có   được cả  sức mạnh của tác phẩm văn học. Truyện có khả  năng bồi  dưỡng tâm hồn cho trẻ thơ. Sự hiểu biết về cuộc sống, về con người,  tâm hồn, tình cảm của các em sẽ nghèo nàn đi biết mấy nếu không có   môn học. ­ Kể  chuyện trong trường học: Phân môn kể  chuyện có liên  quan đến nhu cầu nghe kể  chuyện của trẻ  em, góp phần hình thành  nhân cách, đem lại những cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh cho tâm hồn  học sinh. ­ Kể  chuyện có sức mạnh riêng trong việc giáo dục trẻ. Sức  mạnh này bắt nguồn từ  sức mạnh của công cụ  mà  phân môn Kể  chuyện sử dụng, đó là tác phẩm văn học nghệ thuật giáo viên dùng để  kể  trong lớp. Các tác phẩm văn học có tác dụng lớn đến tâm hồn và  cảm xúc của trẻ em, đem lại những cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh. ­ Phân môn Kể  chuyện góp phần tích luỹ  vốn văn học,  mở  rộng vốn sống cho trẻ em. Giờ kể chuyện giúp cho trẻ sớm tiếp xúc  với tác phẩm văn học. Suốt 5 năm  ở  bậc Tiểu học, học sinh được  nghe và tham gia kể  hàng trăm câu chuyện với đủ  thể  loại, gồm tác  phẩm có giá trị của Việt Nam và Thế giới, từ   truyện cổ tích đến hiện  đại. Do đó vốn Văn học và Ngôn ngữ của học sinh được tích  luỹ dần.  9
  8. Đây là những hành trang quý sẽ theo các em trong suốt cuộc đời mình. ­ Giờ kể chuyện còn mở rộng tầm hiểu biết, khêu gợi trí tưởng  tượng cho các em. Qua từng câu chuyện, thế  giới muôn màu sắc mở  rộng trước mắt các em. Các em gặp trong đó từ  phong tục tập quán  đến cảnh sắc thiên nhiên, từ  cách  phục  trang  đến  kiến  trúc  nhà  ở,  và  đặc  biệt  là  cách  cư  xử  của  con người trong muôn vàn trường hợp  khác nhau.... Nói cách khác, các truyện kể đã làm tăng thêm cho học sinh  vốn hiểu biết về thế giới và xã hội loài người xưa và nay. ­ Các truyện kể  còn chắp cánh cho trí tưởng tượng của học   sinh bay bổng. Cùng với lí tưởng, óc tưởng tượng là bệ  phóng cho  những hoài bão, ước mơ cao đẹp khi các em bước vào cuộc sống. ­ Phân môn Kể chuyện góp phần rèn luyện và phát triền các kĩ  năng tiếng Việt cho học sinh. Phân môn này phát triển kĩ năng nói cho  học sinh. Giờ  kể chuyện các em dùng ngôn ngữ  nói của mình để  kể  lại câu chuyện trước đám đông. Việc kể  lại câu chuyện trước đám  đông rèn cho các em khả  năng tự  tin, mạnh dạn trong các hoạt động  giao tiếp bằng ngôn ngữ. Đồng thời, các kĩ năng: Nghe, đọc, kĩ năng  ghi chép cũng được phát triển trong quá trình kể lại chuyện đã nghe,   đã đọc. 1.2. Hình thức đóng vai 1.2.1. Khái niệm ­ W. Shakespare nói “Toàn thế giới là nhà hát. Trong nhà hát có đàn  ông, đàn bà. Tất cả đều là diễn viên. Ở họ, đều có lối ra sân khấu và  lối vào sân khấu của mình”. Nói như  Shakespare có thể  hiểu là trong  xã hội, mỗi cá nhân hay tập thể  đều có vai trò nhất định, giống như  các diễn viên trên sân khấu, nhưng các diễn viên trên sân khấu thì  nhập vai, hóa thân thành người khác, sống với vai diễn của mình còn  trong sân khấu cuộc đời và sân khấu xã hội, mỗi người tự  thể  hiện   chính mình với những vị trí, vai trò khác nhau. 10
  9. ­ Đóng vai, theo từ  điển Tiếng Việt của Hoàng Phê là “Thể  hiện   nhân vật trong kịch bản lên sân khấu hay màn  ảnh bằng hành động,  nói năng như  thật”.  Đóng vai  mà  thông  dụng  nhất,  phổ  biến nhất  là  đóng kịch  đã  được  sử  dụng trong  lớp học  và  cho  thấy hiệu  quả  đạt  được rất cao nếu có sự chuẩn bị chu đáo. ­ Theo tác giả Phan Trọng Ngọ, “Phương pháp đóng kịch trong dạy  học là giáo viên cung cấp kịch bản và đạo diễn, học sinh hành động   theo các vai diễn. Qua đó họ học được cách suy nghĩ, thể hiện thái độ  và hành động cũng như  các kỹ  năng  ứng xử  khác của nhân vật trong  kịch bản”. ­ Cũng có thể hiểu đóng vai là một trò chơi ­ trò chơi đóng vai, trong   đó giáo viên đảm nhiệm phần kịch bản, là đạo diễn còn học sinh sẽ  thể  hiện các vai diễn đã có trong kịch bản. Bằng việc nhập vai vào  các nhân vật, người học sẽ chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức  và được hoạt động trực tiếp trong suốt hoạt  động đóng vai. Hoạt  động trực tiếp trong suốt quá trình đóng vai không chỉ giúp người học  khắc sâu kiến thức dễ dàng hơn mà thông qua đó người học còn có cơ  hội hình thành kinh nghiệm cá nhân và cũng có cơ  hội để  phản ánh  dựa trên kinh nghiệm này. ­ Theo các định nghĩa trên thì hình thức đóng vai được vận dụng chủ  yếu  ở  việc giáo viên xây dựng kịch bản và học sinh là người thực  hiện kịch bản thông qua việc “diễn” các vai có sẵn trong kịch bản.  Bên cạnh đó cũng có cách hiểu khác về  hình thức đóng vai khi học  sinh đảm nhận vai trò sáng tạo kịch bản để giải quyết tình huống mở  do giáo viên đưa ra. ­ Dạy học kể  chuyện  ở  Tiểu học có thể  sử  dụng nhiều những  phương pháp, hình thức khác nhau như: Trò chơi, giảng giải, thảo  luận,... Tuy nhiên, việc sử  dụng hình thức đóng vai trong dạy học  phân môn kể  chuyện đặc biệt là kiểu bài đã nghe, đã đọc chiếm  ưu   11
  10. thế và có vai trò quan trọng. Đây là một hình thức mới, mang lại cho   học sinh sự  hứng thú, đem đến những trải nghiệm mới lạ  trong giờ  học kể chuyện. ­ Trong phạm vi nghiên cứu của đề  tài này có thể  sử  dụng khái   niệm hình thức đóng vai sau: Đóng vai là phương pháp tổ  chức cho  học sinh thực hành, “làm thử” một số  cách  ứng xử  nào đó trong một   tình huống giả định. Đây là phương pháp nhằm giúp học sinh suy nghĩ   sâu sắc về  một vấn đề  bằng cách tập trung vào một sự  việc cụ  thể  mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn” không  phải là phần chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự  thảo luận sau phần diễn ấy. 1.2.2. Đặc điểm của hình thức đóng vai ­ Cảm xúc tức thời qua tình huống cụ thể Đóng vai là “diễn” lại, tái hiện lại một nhân vật thông qua một   kịch bản có sẵn, một tình huống cụ thể. Ở tình huống hoặc kịch bản   đó, chúng ta hóa thân vào nhân vật đã được định sẵn, tái hiện lại toàn   bộ những hành động của nhân vật, những sự việc diễn ra xung quanh   nhân  vật   đó.  Với   việc  hóa  thân  này,   người  diễn  viên  sẽ   có  được  những cảm xúc cụ  thể  nhất, đúng lúc nhất  mà  nhân vật đang mang  trong mình. Cảm xúc, thái độ  đối với một việc nào đó phải do hoàn   cảnh cụ thể mang lại. Tại hoàn cảnh đó, thời điểm đó con người như  được hóa thân một cách hoàn toàn vào nhân vật, là một phần của nhân  vật. Vì thế mà cảm xúc sẽ được biểu diễn một cách tự nhiên nhất  mà  không hề bị gò bó. ­ Tái hiện nhân vật Bởi đóng vai là việc “thể  hiện nhân vật trong kịch bản lên sân   khấu hay màn  ảnh” vì vậy những hành động, lời nói của nhân vật  phải như thật. Nhân vật trong đóng vai là nhân vật có sẵn trong kịch   bản, người thể hiện cần đứng đúng vị trí, làm đúng vai trò của mình. 12
  11. ­ Thể hiện nhân vật Trong đóng vai, sau khi nắm bắt được vai trò, vị  trí của nhân  vật cần thể  hiện,  các  diễn  viên  trên  sân  khấu  phải  nhập  vai,  hóa  thân thành nhân vật đó. Nghĩa là lúc đó ta đã “biến” thành một người khác, sống với vai  diễn của mình. Có thể  tái hiện được toàn bộ  những cảm xúc, tinh   thần, ý nghĩ của nhân vật đó. ­ Thể hiện bằng lời nói, cử chỉ, điệu bộ, hành động Với  việc hóa thân thành các nhân vật  ở  hình thức  đóng vai,   người học sẽ  lĩnh hội được hoạt động, tâm trạng, cảm xúc, tất   cả  những thao tác của nhân vật mà mình muốn thể hiện. Vì vậy mà từng  lời nói, cử chỉ, điệu bộ, hành động của nhân vật đó sẽ được bộc lộ ra  ngoài. Nhờ  đó mà tính cách, con người của nhân vật sẽ  được “hiện”  ra một cách đầy đủ nhất. 1.2.3. Ưu thế của việc sử dụng hình thức đóng vai trong phân môn kể  chuyện Trong dạy học phân môn kể  chuyện nói chung và dạy học kể  chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc nói riêng, có rất nhiều những phương  pháp, hình thức để  dạy học phân môn này. Ví dụ  như: phương pháp  giảng giải, phương pháp thuyết minh, phương pháp thảo luận, hình  thức đóng vai,... Mỗi phương pháp hay hình thức như  vậy  đều có  những ưu điểm và hạn chế riêng. Đối với những phương pháp truyền  thống, việc tạo hiệu  ứng với học sinh là rất ít, vẫn là những “lối   mòn” xưa cũ. Phân môn kể  chuyện là một trong những phân môn vô  cùng quan trọng, và cũng là phân môn yêu thích của học sinh, nếu  người dạy học tạo ra được những bài dạy hấp dẫn thì sẽ  đạt hiệu   quả cao trong giảng dạy cũng như học tập của học sinh. Việc sử  dụng hình thức đóng vai trong dạy học phân môn kể  chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc, học sinh sẽ  có một cách tiếp cận   mới với các câu chuyện kể  bởi  ưu thế  vượt trội khi sử  dụng hình   13
  12. thức này. Đầu tiên, sử  dụng hình thức đóng vai sẽ  gây hứng thú, tạo   được hiệu ứng, sự chú ý cho học sinh. Ngoài ra, hình thức này còn tạo   cho học sinh cơ  hội bộc lộ  thái độ  và   cảm xúc, hình thành kĩ năng  giao tiếp, nảy sinh óc sáng tạo, trí tưởng tượng của học sinh. Bởi  lẽ,  khi đóng vai, học sinh được hóa thân vào các nhân vật, các em chính  là  đại  diện, hiện thân của những nhân vật đó. Học sinh được thoải  mái bộc lộ những cảm xúc, tâm lý, các điệu bộ, cử chỉ. Những câu chuyện kể  trong chương trình Tiểu học nói chung  và các câu chuyện kể lớp 2, 3 nói riêng đều là những câu chuyện kể  mang ý nghĩa nhân văn, những bài học chứa đựng những giá trị  cuộc   sống sâu sắc. Bởi lẽ đó, khi học sinh đóng vai, hóa thân vào nhân vật  các em sẽ có sự thay đổi về thái độ, hành vi theo đúng chuẩn mực đạo  đức, điều mà các câu chuyện kể luôn hướng tới. Hơn hết nữa, việc sử  dụng hình thức đóng vai trong  dạy  học  kể chuyện sẽ tạo cho học sinh cơ hội rèn luyện, thực hành những kĩ  năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực   hành trong thực tiễn. 1.3. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.   Tiến hành khảo sát thực tế   ở  trường Tiểu học Liên Minh ­ TP Vĩnh  Yên ­Vĩnh Phúc với hai đối tượng: + 20 giáo viên văn hóa. + 30 học sinh lớp 2A6.  Mục đích của việc khảo sát để điều tra:  + Thực trạng sử dụng các phương pháp dạy học kể chuyện kiểu bài đã  nghe, đã đọc cho học sinh lớp 2.  + Kiến thức của giáo viên về hình thức đóng vai.  + Thực trạng của phân môn này.  + Thực trạng về kĩ năng đọc của học sinh lớp 2.  Qua quá trình điều tra và khảo sát, tôi đã thu được kết quả như sau:  1.3.1. Thực trạng việc dạy học sử dụng hình thức đóng vai kiểu bài đã   nghe đã đọc cho học sinh tiểu học. Trong quá trình thực tập, điều tra khảo sát thực tế chúng tôi thu  14
  13. được kết quả thể hiện thông qua bảng dưới đây: Nội dung điều tra: Câu 4 ­ phiếu điều tra Phương  Thường  Ít khi Chưa bao giờ xuyên pháp dạy  học kể  SL % SL % SL % chuyện  kiểu bài  đã nghe, đã  đọc lớp  4,5 Thuyết minh 15 85 3 10 2 5 Đóng vai 7 35 11 60 2 5 Thảo luận nhóm 14 75 4 15 2 10 Trực quan 13 60 6 30 1 10 Giảng giải 17 90 3 10 0 0 Đàm thoại 7 5 8 65 5 30 Bảng 1: Mức độ sử dụng các phương pháp dạy học trong dạy học kể  chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc Qua quá trình điều tra, các phương pháp đưa ra khảo sát được  giáo viên sử  dụng trong việc dạy học phân môn kể  chuyện kiểu bài  đã nghe, đã đọc cho học sinh lớp 2, 3 cho thấy: phương pháp dạy học   được giáo viên thường xuyên sử  dụng nhất đó là phương pháp giảng   giải chiếm 90%. Sử  dụng phương pháp đàm thoại, giáo viên đặt  ra  những câu hỏi để  giáo viên và học sinh đối thoại nhằm gợi mở, dẫn   dắt học sinh lĩnh hội nội dung bài học. Hiện nay, các phương pháp dạy học được giáo viên sử  dụng   trong dạy học phân môn kể chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc vẫn thiên   về  các phương pháp dạy học truyền thống như  phương pháp thuyết  minh, phương pháp giảng giải. Hai phương pháp này chiếm số lượng  lớn   nhất   trong   các   phương   pháp   chúng   tôi   sử   dụng   để   điều   tra.   15
  14. Phương   pháp   giảng   giải   (90%)   thường   xuyên   được   sử   dụng   vì  phương pháp này dễ  dàng sử  dụng cho người giáo viên. Giáo viên  cũng   đã   thực   hiện   đổi   mới   phương   pháp   dạy   học,   sử   dụng   các  phương pháp dạy học thể  hiện được tính tích cực của học sinh như  phương pháp thảo luận nhóm (75%), phương pháp trực quan (60%),  phương pháp đóng vai (35%). Phương pháp được sử  dụng ít nhất là  phương pháp đàm thoại (5%), do phương pháp này có đặc thù riêng là   không phải bài học nào cũng sử  dụng được, giáo viên thường ít sử  dụng vì phương pháp này đòi hỏi cần nhiều thời gian. Bên cạnh đó,  qua điều tra và quan sát, giáo viên trường Tiểu học Liên Minh đã biết  cách tận dụng triệt để  đồ  dùng học tập, các phương tiện dạy học  hiện đại trong dạy học để phục vụ bài dạy, giúp cho tiết học trở nên  sinh động hơn. Hiện nay hầu hết giáo viên của trường học đã có nhận thức  đúng đắn sử  dụng các phương pháp dạy học thể  hiện được tính tích  cực của học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn một số  giáo viên chưa có nhận   thức đúng đắn về việc này, các cô chủ yếu sử dụng phương pháp dạy   học truyền thống như: Thuyết trình, giảng giải,… 1.3.2. Hiểu biết của giáo viên trong dùng hình thức đóng vai.  ­ Để  đánh giá chính xác, khách quan sự  hiểu biết của giáo viên, chúng  tôi đã sử  dụng phiếu điều tra kết hợp với việc trao đổi, trò chuyện với giáo   viên  bằng phương pháp phỏng vấn, quan sát dự giờ, trò chuyện trực tiếp (nội  dung điều tra: Câu 8 ­ Phiếu điều tra). Kết quả điều tra được tổng kết và thể  hiện bằng bảng sau:  Hiểu cơ  Hiểu rõ Không biết Hình  bản thức  SL % SL % SL % đóng vai 5 10 25 48 22 42 Bảng 2: Hiểu biết của  giáo viên  về  việc sử  dụng hình thức đóng vai  trong dạy học kể chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc. 16
  15. ­  Kết quả điều tra cho thấy sự hiểu biết của giáo viên về việc sử dụng  hình thức đóng vai trong dạy học kể chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc còn rất   hạn chế. Hầu hết số giáo viên được hỏi đều chưa nhận thức đầy đủ và chưa  nắm rõ được đặc điểm và bản chất của phương pháp, gây tốn nhiều thời gian   của tiết học. Chỉ  có 10% số  gióa viên  hiểu đúng, đầy đủ  về  hình thức dạy  học này. Các giáo viên đều nhận định rằng đây là một hình thức dạy học lạ  và còn rất mới, ít được sử dụng trong quá trình dạy học.  1.3.3. Thực trạng sử  dụng hình thức đóng vai trong dạy học phân  môn kể chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc cho học sinh lớp 2.   ­ Trong dạy học kể  chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc, sử  dụng hình  thức đóng vai giúp các em học sinh có cơ hội trải nghiệm thực tế, hình thành  được lối sống như mong muốn. Hiện nay, đa số  giáo viên đã nhận thức đúng  đắn sự  cần thiết của việc sử  dụng hình thức đóng vai trong dạy học phân  môn kể chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc cho học sinh lớp 2 và tác dụng của  nó. Điều này được chúng tôi nghiên cứu qua câu hỏi số  4 và 8 trong phiếu   điều tra.  ­ Bảng điều tra về  sự  cần thiết của việc sử dụng hình thức đóng vai   trong dạy học phân môn kể chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc cho học sinh lớp  2.  Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết Số lượng 16 4 0 % 75,83 24,17 0 Bảng 3: Mức độ  nhận thức sử dụng hình thức đóng vai trong dạy học  phân môn kể chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc cho học sinh lớp 2.  Bảng điều tra trên cho thấy có 75, 83% số lượng giáo viên được hỏi đã  có nhận thức đúng đắn về sự cần thiết của hình thức đóng vai trong dạy học  kể  chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc cho học sinh lớp   2. Sử  dụng hình thức  đóng vai là một trong những nội dung giáo dục quan trọng và thiết thực đối  với học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 2, do vậy khi sử  dụng hình  thức này tạo điều kiện cho các em tìm tòi, khám phá và phát hiện và có những   trải nghiệm thực tế  để  hình thành các kiến thức, hiểu biết phù hợp với lứa  tuổi của các em.  ­ Bảng điều tra về thực trạng sử dụng hình thức đóng vai trong dạy học  phân môn kể chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc cho học sinh lớp 2. Thường xuyên Thỉnh thoảng Ít khi Không bao giờ 17
  16. Số  0 4 3 13 lượng % 0 30 12 58 Qua kết quả điều tra cho ta thấy mức độ sử dụng của phương pháp này  chưa cao vì hầu hết giáo viên đều cho rằng sử dụng phương pháp này đem lại  hiệu quả  song dễ  làm mất trật tự  và gây  ồn ào trong lớp học và tốn kém  nhiều thời gian. Các  giáo viên  cũng trao đổi rằng đây là một hình thức mới   nên khi áp dụng đều không tránh khỏi những thiểu sót nhất định. Tuy nhiên,  các giáo viên cũng đều nhận thấy sự  cần thiết việc hình thức đóng vai trong  dạy học phân môn kể chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc cho học sinh lớp 2.  Thông qua câu trả lời số 4 (Phiếu điều tra ­ phụ lục 1) tôi thấy rằng sử  hình thức đóng vai trong dạy học phân môn kể  chuyện kiểu bài đã nghe, đã  đọc cho học sinh lớp 2 mang lại hiệu quả cao trong trong học tập, có tác dụng  rất tốt đối với  học sinh  chiếm 70%,  tốt  chiếm 30% và bình thường chiếm  0%. Với việc sử dụng hình thức đóng vai, học sinh là trung tâm của quá trình  học tập, có cơ hội thực tiễn trải nghiệm thực tế. Nhờ không khí hào hứng sôi  nổi, nên các em  học sinh, đặc biệt là những em nhút nhát trở  nên bạo dạn  hơn, các em học được cách trình bày ý kiến của mình, biết lắng nghe ý kiến   của bạn để từ đó giúp trẻ dễ hoà nhập vào nhóm, vào cộng đồng tạo cho các  em sự  tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt, phát huy tính tích cực của   học sinh. + Thực trạng về kĩ năng đọc của học sinh lớp 2. Bước 1: Tìm hiểu hứng thú học tập của 38 học sinh lớp 2A6. ­ Phát phiếu hỏi cho học sinh, sau 2 ngày thu lại phiếu. Kết quả  thu   được như sau: Kết   quả   thu  Ghi chú được Nội dung câu hỏi Số   phiếu   trả   lời  Tỉ lệ  (%) (30) Em   có   thích   học   Tập   đọc  không? ­ 22 học sinh chọn a 57,9 a. Có ­ 16 học sinh chọn b 42,1 b. Không Bước 2: Kiểm tra khả năng đọc của học sinh. Câu 1 : Em hãy đọc các từ sau: a. xoa đầu, chim sâu, say mê, xâu cá. 18
  17. b. trò chuyện, chung sức, cây tre. c. lao động, nàng tiên, làng bản, lịch sự. Câu 2: Em hãy ngắt giọng, nhấn giọng và đọc diễn cảm đoạn văn sau:        Chú chim sâu vui cùng vườn cây và các loài chim bạn. Nhưng trong trí  nhớ thơ ngây của chú còn mãi hình ảnh một cánh hoa mận trắng, biết nở cuối  đông để báo trước mùa xuân tới. ­   Sau   khi   học   sinh   đọc   xong,   tổng   hợp   kết   quả   cụ   thể   trước   thực  nghiệm như sau: Luyệ n  phát  Sĩ Lớp âm Ngắt giọng số Chưa  Đúng đúng Đúng Chưa đúng SL % SL % SL % SL % 2A6 38 23 60 15 40 23 60 15 40 Nhấn  Đọc diễn cảm giọng Sĩ Lớp Chưa  số Đúng Đúng Chưa đúng đúng SL % SL % SL % SL % 2A6 38 16 42,7 22 57,3 8 20,8 30 79,2     Kết quả trắc nghiệm ta thấy học sinh mắc lỗi phát âm, đọc ngắt hơi, nhấn  giọng và đọc diễn cảm có nguyên nhân chính là do chủ quan, ý thức học chưa  tốt, tập trung chưa cao. Muốn cho học sinh  đọc đúng cách ngắt hơi, nhấn  giọng, diễn cảm đòi hỏi nhiều ở tính kiên trì, nhẫn nại và miệt mài.  19
  18. CHƯƠNG II: THIẾT KẾ BÀI HỌC KỂ CHUYỆN SỬ DỤNG HÌNH  THỨC ĐÓNG VAI KIỂU BÀI ĐàNGHE, ĐàĐỌC CHO HỌC SINH  LỚP 2,3 2.1 Nguyên tắc thiết kế bài học kể chuyện sử dụng hình thức đóng   vai để tạo hứng thú và nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2, 3. 2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn.  Những nội dung, chủ  đề  kể  chuyện kiểu bài đã nghe, đã đọc mà giáo  viên đưa ra phải là những chủ đề gần gũi trong cuộc sống, nhằm giúp các em  có kiến thức và kĩ năng thực tế để các em có thể vận dụng vào chính tực tiễn  của các em. Giáo viên khuyến khích học sinh tìm hiểu các các câu chuyện  mang tính gần gũi, thân thuộc mang giá trị  nhân văn sâu sắc để  các em có cơ  hội nghe, tìm hiểu về những câu chuyện hay, bổ ích. Khi các câu chuyện đưa  ra mà xa vời với cuộc sống của   học sinh  thì các em sẽ  khó hiểu được câu  chuyện cũng như  ý nghĩa của câu chuyện và điều quan trọng hơn cả  là vấn  đề đó không có ý nghĩa gì cho cuộc sống của các em. Như vậy, việc giáo lựa  chọn và khuyến khích học sinh lựa chọn các chủ  đề  kể  chuyện để  cho học  sinh nghe và đọc là quan trọng, để các câu chuyện các em đưa ra gần gũi, có ý  nghĩa. Từ  đó  học sinh hiểu nội dung, phát huy khả  năng và tính tích cực và  sáng tạo ở học sinh. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2