intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy văn miêu tả theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh lớp 4C

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

20
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là đề xuất các biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng giảng Tập làm văn nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng. Mong muốn được chia sẻ với đồng nghiệp những biện pháp tích cực, hiệu quả mà tôi đã vận dụng trong dạy học Tiếng Việt lớp 4 ,đồng thời rèn luyện tinh thần tự học, tự nghiên cứu và sáng tạo trong công việc cho bản thân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy văn miêu tả theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh lớp 4C

  1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ SẦM SƠN  TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG TIẾN 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY VĂN MIÊU TẢ THEO  HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH  LỚP 4C, TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG TIẾN 2 Người thực hiện:  Nguyễn Thị Thanh Tâm Chức vụ:  Giáo viên Đơn vị công tác:  Trường Tiểu học Quảng Tiến  2 SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt
  2. Mục lục Mụ Nội dung Trang c 1 Mở đầu 1 1.1 Lí do chọn đề tài 1 1.2 Mục đích nghiên cứu. 1 1.3 Đối tượng nghiên cứu 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu 2 1.5 Những điểm mới. 2 2 Nội dung 2 2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 2 2.2 Thực trạng dạy ­ học văn miêu tả ở lớp 4 trước khi áp dụng  3 sáng kiến kinh nghiệm 2.3 Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả  5 ở lớp 4 2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm  18 3 Kết luận và kiến nghị 18 3.1 Kết luận 18 3.2 Kiến nghị 19
  3. 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Học môn Tiếng Việt, học sinh được trang bị  những kiến thức cơ  bản  và tối thiểu cần thiết giúp các em hòa nhập với cộng đồng và phát triển cùng  sự  phát triển của xã hội. Cùng với môn Toán và các môn học khác, những   kiến thức của môn Tiếng Việt sẽ  là những hành trang trên bước đường đưa  các em đi tìm hiểu, khám phá, nghiên cứu kho tàng tri thức vô tận của loài   người. Mỗi bài văn là một sản phẩm không lặp lại của từng học sinh trước  một đề bài. Do đó có thể nói, việc học Tiếng Việt ,đặc biệt làm văn giúp các   em bộc lộ  rõ nét nhất, trọn vẹn nhất những suy nghĩ  riêng, tính sáng tạo,...   Qua đó thể hiện được chân thực về con người của mỗi học sinh. Vì thế, việc  dạy và học Tập làm văn luôn cần có sự  đổi mới. Bản thân tôi đang là giáo   viên đứng lớp giảng dạy, đón nhận đưa kỹ năng sống vào phân  môn Tập làm   văn nên cần nỗ lực phấn đấu đảm nhiệm chức trách của mình với học sinh.   Muốn vậy, dạy lý thuyết văn nói chung và lý thuyết văn miêu tả  nói  riêng như  thế  nào để  giúp học sinh được luyện nói mà nắm được kiến thức  cơ bản để viết văn đúng thể loại. Từ khái niệm về thể loại văn, học sinh vận  dụng viết văn đúng dạng bài như  (miêu tả  con vật, miêu tả  đồ  vật, miêu tả  cây cối) Trong chương trình lớp 4, Tập làm văn là phân môn học chính, nhằm   hình thành và phát triển  ở  học sinh kỹ  năng sử  dụng Tiếng Việt. Thông qua  việc dạy và học Tiếng Việt rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy.           Năm học 2020 ­ 2021, tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm, giảng dạy   lớp 4. Tôi nhận thấy một số học sinh viết câu sai ngữ pháp, dùng từ chưa phù   hợp với hoàn cảnh và đặc biệt là thiếu ý. Mặt khác, học sinh tiểu học còn   ham chơi, khả năng tập trung chưa cao, chưa có những quan sát tinh tế, năng  lực ngôn ngữ chưa phát triển tốt, chưa thực sự biết cách diễn đạt điều muốn   tả. Các em còn khá rụt rè, ngại phát biểu dẫn đến hiệu quả  học tập chưa   cao.Vì thế  việc đổi mới phương pháp dạy học văn miêu tả  theo hướng phát   huy tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh vào quá trình học tập, tự  học và thực hành sẽ  giúp học sinh mạnh dạn phát biểu trước đông người.  Việc đổi mới phương pháp học là hết sức cấp thiết.          Tuy nhiên, dạy văn miêu tả  như thế nào cho phù hợp với trình độ  học   sinh lớp 4? Điều đó khiến tôi tìm tòi, suy nghĩ để tìm biện pháp giúp học sinh  học Tập làm văn tốt nhất. Tôi xin đề  xuất :  “Một số  biện pháp dạy văn  miêu tả  theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh   lớp 4 C”  ở  Trường Tiểu học Quảng Tiến 2 – Thành phố Sầm Sơn để đồng nghiệp tham  khảo. Qua đây, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học văn miêu tả  lớp 4 cũng như môn Tiếng Việt lớp 4.     1.2. Mục đích nghiên cứu. 1.2.1 Giúp học sinh:         
  4.           ­ Rèn kĩ năng quan sát tìm ý, lập dàn ý. ­ Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu  loát. ­ Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc. ­ Bồi dưỡng tình yêu, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh các   em.
  5. 2 ­ Học sinh tự  tìm tòi, phát hiện, chủ  động chiếm lĩnh kiến thức;  ứng  dụng thành thạo các tri thức đã lĩnh hội được vào trong cuộc sống; biết làm  tốt một bài văn miêu tả; có tiền đề tốt để viết văn miêu tả lớp 5. 1.2.2 Giúp giáo viên: ­ Đề  xuất các biện pháp tích cực để  nâng cao chất lượng giảng  Tập  làm văn nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.   ­ Mong muốn được chia sẻ với đồng nghiệp những biện pháp tích cực,  hiệu quả mà tôi đã vận dụng trong dạy học Tiếng Việt lớp 4 ,đồng thời rèn  luyện tinh thần tự  học, tự  nghiên cứu và sáng tạo trong công việc cho bản   thân. 1.3. Đối tượng nghiên cứu.   ­ Nghiên cứu nội dung chương trình Tiếng Việt của Tài liệu Hướng  dẫn học Tiếng Việt (TL HDH Tiếng Việt) bậc Tiểu học nói chung, hệ thống   các bài văn miêu tả trong chương trình lớp 4 nói riêng. ­ Nghiên cứu kĩ năng làm văn miêu tả của học sinh lớp 4C Trường Tiểu   học Quảng Tiến 2­ Thành phố Sầm Sơn. ­ Nghiên cứu các biện pháp, phương pháp dạy học theo hướng phát huy  tính tích cực để các em có thể viết được những bài văn hay, câu văn giàu hình  ảnh, biết làm tốt bài văn miêu tả. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. ­ Thu thập tài liệu, đọc sách và các tài liệu tham khảo. ­ Điều tra khảo sát thực tế. ­  Sử   dụng  các  phương  pháp  khác:   Phân   tích   ngôn  ngữ,  so   sánh   đối  chiếu, thống kê và xử lý các số liệu thu được,... 1.5. Những điểm mới.           Đề tài thể hiện được:           ­ Hệ thống toàn bộ nội dung kiến thức phần văn miêu tả của phân môn   Tập làm văn trong chương trình Tiếng Việt 4.            ­ Những giải pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả  lớp 4 theo   hướng phát huy tối đa tính tích cực của học sinh. Trong đó, học sinh là trung  tâm trong quá trình học tập còn giáo viên là người tổ  chức, tạo điệu kiện để  học sinh chiếm lĩnh kiến thức. 2. Nội dung 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Trước hết, cần khẳng định rằng: Dạy Tập làm văn là dạy một hoạt  động. Công việc đầu tiên của dạy học phân môn này là tạo ra động cơ, nhu   cầu nói năng, kích thích học sinh tham gia vào hoạt động giao tiếp (nói, viết).  Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn   Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức   tổng hợp từ  nhiều phân môn. Để  làm được một bài văn, học sinh phải sử  dụng cả  bốn kỹ  năng: nghe, nói, đọc, viết. Phải vận dụng các kiến thức về  tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn. 
  6. 3 Việc đổi mới phương pháp dạy môn Tập làm văn, thể loại văn miêu tả  ở lớp 4 cho chúng ta thấy trong việc thừa kế cái cũ, cái vốn có đòi hỏi phải là  một sự sáng tạo. Với các phân môn khác của  môn Tiếng Việt trong việc đổi  mới nội dung và phương pháp dạy học chỉ  rõ quy trình các bước lên lớp rất   cụ thể rõ ràng. Còn với phân môn Tập làm văn, các nhà nghiên cứu chỉ đưa ra   quy trình chung nhất cho mỗi loại bài, chủ  yếu vẫn là sự  sáng tạo của giáo  viên khi lên lớp. Còn việc học thì sao? Ngoài Tài liệu Hướng dẫn học Tiếng  Việt thì hiện nay có rất nhiều loại sách tham khảo cho học sinh, giúp cho học  sinh có cái nhìn đa dạng, phong phú hơn. Song những cuốn sách tham khảo   của phân môn Tập làm văn lại thường đưa ra các bài văn mẫu hoàn chỉnh nên   khi làm văn các em thường dựa dẫm,  ỉ  lại vào bài văn mẫu, có khi còn sao   chép y nguyên bài văn mẫu vào bài làm của mình. Cách cảm, cách nghĩ của   các em không phong phú mà còn đi theo lối mòn khuôn sáo, tẻ nhạt. Chính vì  vậy, dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới ở Tiểu học nói chung và lớp 4 nói   riêng là việc làm cần thiết để  giúp học sinh học môn Tiếng Việt tốt hơn và  cũng là để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. Dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới nhằm khích lệ học sinh tích cực,   sáng tạo, chủ động trong học tập, biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành  ngôn  bản, văn bản. Nói cách khác, các phân môn trong môn Tiếng Việt là phương  tiện để hỗ trợ cho việc dạy Tập làm văn được tốt.  2.2. Thực trạng dạy ­ học văn miêu tả   ở  lớp 4 trước khi áp dụng   sáng kiến kinh nghiệm. 2.2.1. Thực trạng chung việc dạy Tập làm văn lớp 4:  Toàn trường có 25 lớp với 921 học sinh, trong đó khối 4 có năm lớp với   172  học sinh. Nhìn chung, các em đều là con em ngư dân, nhiều em gia đình  có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa nên các em phải ở nhà với ông bà.   Bởi vậy, sự  quan tâm đến việc học hành của các em chưa sát sao, khả  năng  tiếp thu bài của các em còn nhiều hạn chế. Song với phân môn Tập làm văn,  chương  trình  mới   được  đưa ra  quá trừu  tượng,  khó  đối với học  sinh  nói  chung, học sinh trường Tiểu học nói riêng. Bởi phân môn học này mang tính  tổng hợp kiến thức giữa tất cả các phân môn: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và  câu, Kể chuyện. Các phân môn này đều có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Đặc biệt   là để học tốt phân môn Tập làm văn cần có sự hỗ trợ tích cực của tất cả các   phân môn khác. Nó đòi hỏi học sinh phải có khả năng tư duy, sáng tạo và khả  năng diễn đạt trước lớp mới học tốt phân môn học này ... Mặt khác, phân môn Tập làm văn lớp 4 có nhiều thể loại. Mỗi thể loại  bài là một mạch kiến thức khác nhau mà việc tiếp thu bài của học sinh còn  hạn chế  : ít động não, sử  dụng câu chưa phù hợp, vốn từ  nghèo, ít đọc sách  nên việc viết văn đối với học sinh là rất khó, bài viết khô khan. 2.2.2. Thực trạng việc giảng dạy Tập làm văn của giáo viên:  * Thuận lợi:    ­ Sự chỉ đạo, chuyên môn của Phòng giáo dục, trường, tổ chuyên môn 
  7. 4 có vai trò tích cực, giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn  Tập làm văn.  ­ Qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thảo đã có nhiều giáo viên  thành công khi dạy Tập làm văn.  ­ Qua các phương tiện thông tin đại chúng: mạng internet, ti vi, đài,   sách, báo, ... giáo viên tiếp cận với phương pháp đổi mới khi dạy Tập làm văn  thường xuyên hơn.  * Khó khăn: Tiếng Việt là môn học khó, nhất là phân môn Tập làm văn đòi hỏi  người giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú, vốn sống thực tế, ...   Người giáo viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy, biết  gợi mở óc tò mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em nói   viết thành văn bản, ngôn ngữ quả không dễ.  2.2.3. Thực trạng việc học tập làm văn của học sinh: * Thuận lợi:    ­ Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội   dung phong phú, Tài liệu HDH được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết   bị dạy học hiện đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp với tâm lý lứa tuổi các em. ­ Các em đã được học và nắm vững kiến thức, kỹ năng của phân môn  Tập làm văn ngay từ  lớp 2, 3 như  kỹ  năng giao tiếp, kỹ  năng tạo lập ngôn  bản, kỹ  năng kể  chuyện miêu tả,...  Đây là cơ  sở  giúp các em học tốt phân   môn Tập làm văn ở lớp 4­ thể loại văn miêu tả đạt kết quả cao. * Khó khăn: ­ Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau   quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.  ­  Kiến   thức  về   cuộc   sống  thực   tế   của  học   sinh  còn  hạn  chế,   ảnh   hưởng đến việc tiếp thu bài học.  ­ Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực   hành độc lập. Cụ  thể  là: Các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc,  tính sáng tạo trong thực hành viết văn chưa cao, thể  hiện  ở  cách bố  cục bài  văn, cách chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động.  ­ Một số  học sinh còn phụ  thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách  máy móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để  hình thành lối hành văn của riêng  mình. Ví dụ: phần lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để  viết bài của  mình. ­ Chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4 hiện đang học thể loại bài  miêu tả. Nhìn chung các em đã nắm được cấu trúc một bài văn miêu tả nhưng   bài làm của các em còn viết theo một lối mòn khuôn sáo, kém hấp dẫn, ít cảm   xúc và nghèo hình ảnh, đặc biệt là các em chưa biết sử dụng các biện pháp tu  từ, các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa,... 2.2.4. Thực trạng chất lượng làm văn miêu tả  của học sinh lớp 4,  
  8. 5 trường Tiểu học Quảng Tiến 2:          Thực trạng trên cho thấy chất lượng giảng dạy văn miêu tả còn nhiều  hạn chế. Nhiều học sinh nắm được kiến thức cơ bản của phân môn Luyện từ  và câu nhưng khi áp dụng vào viết văn thì các em thường mắc các lỗi, kết hợp  với việc chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ  thuật, vốn từ  lại nghèo nàn   nên bài văn miêu tả của các em còn khô khan, lủng củng, nghèo cảm xúc. Bài  văn trở thành một bảng liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả. Giáo viên  chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc kết hợp linh hoạt các   phương pháp trong dạy văn miêu tả. Nhìn chung, trong những năm học gần  đây, chất lượng viết văn miêu tả  của học sinh lớp 4 còn chưa cao, chưa đáp   ứng tốt yêu cầu dạy học đặt ra. Điều đó khiến tôi rất trăn trở.          Ngay từ đầu năm  học 2020­ 2021, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng  phân môn Tập làm văn của học sinh hai lớp 4, đó là lớp 4B do thầy H phụ  trách  và  lớp 4C ( lớp thực nghiệm)  do tôi phụ  trách (đây là hai lớp có chất  lượng tương đối đồng đều) với đề kiểm tra như sau:           Đề bài:  Tuổi thơ ai cũng có những đồ  chơi yêu thích đã từng gắn bó  với mình như một người bạn: một bộ xếp hình nhiều màu sắc, một chiếc ô tô  có dây cót, một chú thỏ nhồi bông dễ thương, một cô búp bê biết khóc,... Em  hãy tả lại  một trong những đồ chơi đó.          Kết quả học sinh làm bài được thể hiện ở bảng sau: Bảng 1: KSCL Tập làm văn lần 1 năm học 2020­2021 của hai lớp 4B và  4C    Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Lớp Sĩ số SL TL SL TL SL TL 4B 34 3 8.8 13 67.7 8 23.5 4C 34 3 8.8 14 70.6 7 20.6           Bảng 1 cho thấy kết quả làm văn miêu tả ở hai lớp 4B và 4C chưa cao,   số lượng học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt còn hạn chế, số học sinh chưa   hoàn thành vẫn còn nhiều. Học sinh chưa biết cách diễn đạt, câu văn chưa có  hình ảnh, vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít, ý văn nghèo nàn,   câu văn lủng củng,... Học sinh quan sát đồ vật khi tả không theo một trình tự  hợp lý, chưa biết tìm ra những đặc điểm riêng để phân biệt đồ vật này với đồ  vật kia. Do vậy, chất lượng bài viết của các em chưa cao. 2.3. Đề  xuất các giải pháp nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả  lớp 4.          Từ thực trạng việc dạy học phân môn Tập làm văn nói chung và việc  dạy học văn miêu tả ở lớp 4 nói riêng, tôi thấy cần thiết phải có những biện  pháp sáng tạo trong  dạy học văn miêu tả lớp 4 góp phần nâng cao chất lượng   dạy học Tiếng Việt  ở Tiểu học.
  9. 6 2.3.1. Biện pháp 1: Người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý   của học sinh để  từ  đó tìm ra hướng đi đúng, tìm ra những phương pháp   phù hợp khi lên lớp.          Chúng ta đã biết, tâm lý chung của học sinh Tiểu học là luôn muốn khám  phá, tìm hiểu những điều mới mẻ. Từ đó hình thành và rèn luyện cho các em   quan sát, cách tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn diện và cụ  thể tức là quan sát sự vật hiện tượng về nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác   nhau, từ  đó các em có cách cảm, cách nghĩ sâu sắc khi miêu tả.  Ở  tuổi học   sinh Tiểu học từ  hình thức đến tâm hồn, mọi cái mới chỉ  là sự  bắt đầu của  một quá trình. Do đó, những tri thức để  các em tiếp thu được phải được sắp   xếp theo một trình tự nhất định. Trí tưởng tượng càng phong phú bao nhiêu thì   việc làm văn miêu tả sẽ càng thuận lợi bấy nhiêu.           Văn miêu tả  là loại văn thuộc phong cách nghệ  thuật đòi hỏi viết bài  phải giàu cảm xúc, tạo nên cái "hồn" chất văn của bài làm. Muốn vậy, giáo  viên phải luôn luôn nuôi dưỡng  ở  các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn  nhiên, một tấm lòng dễ xúc động và luôn hướng tới cái thiện.           Đối với loại bài này, tôi luôn dặn dò học sinh về  nhà quan sát các đồ  vật, con vật gần gũi mà các em thường thấy  ở  xung quanh. Vào lớp, tôi cho   học sinh thi đua cá nhân, nhóm tìm nhanh các đồ  vật có thể  tả. Sau đó, gợi ý   cho các em cách lập dàn ý một đoạn, một bài hoàn chỉnh và yêu cầu mỗi em   phải tự  làm việc, tự  quan sát, tự  ghi chép khi quan sát một đồ  vật, một con  vật và có nhiệm vụ giúp các em hệ  thống lại các ý đã quan sát để  lập thành  dàn bài chi tiết đạt yêu cầu, có hệ thống.          Đối với các em học sinh yếu, tôi cho các em trình bày phần mở  bài và  kết bài. Thường thì học sinh yếu tôi gọi trong lúc này là để  các em có thể  trình bày ngắn gọn các ý khi sai sót, ngoài những nụ cười cởi mở giáo viên chỉ  nên nhẹ nhàng sửa sai và động viên cho các em này.          Ở phần thân bài, tôi thường phân nhóm  cho các em thảo luận theo dàn ý  chi tiết, các em nối tiếp, hỗ  trợ  nhau thực hiện: phần bao quát chung, phần  chi tiết từng bộ phận, phần hoạt động liên quan,..  Ví dụ:  Tả về đồ vật: “Tả chiếc cặp sách”  Yêu cầu thảo luận phần thân bài sau đây: + HS1: Tả bao quát, hình dạng, màu sắc, chất liệu của cặp. + HS2: Tả chi tiết từng bộ phận của đồ vật: Các bộ phận bên ngoài của  cặp. (mặt cặp, nắp cặp, quai xách, dây đeo, khóa); Xoa lên da cặp, em có cảm  giác gì?(trơn, nhẵn, ram ráp,...)  + HS3: Tả bên trong cặp có mấy ngăn ? Mỗi ngăn đựng gì?  + HS4: Em có thích cái cặp của em không? Tại sao? Em dùng cặp, giữ  gìn cặp như thế nào? Sau khi thảo luận xong một nhóm học sinh trình bày:
  10. 7 + HS1: Cặp hình chữ nhật, làm bằng vải giả da, màu tím, nắp màu đen.   Dài hơn hai gang tay của em, rộng khoảng một gang r ưỡi. Cặp có nhiều màu  rất đẹp. + HS2:  Ở  phía trên cặp có quai xách thật êm tay. Sau lưng là hai quai  đeo. Hai ổ khóa bằng sắt, mỗi khi đóng hoặc mở nghe “tách, tách” rất vui tai.   Ngoài mặt cặp có in hình chú chó đốm rất đẹp. + HS3: Phía bên trong có ba ngăn. Ngăn lớn đựng sách, ngăn thứ  hai  đựng bảng con, đồ  dùng khác ,… ngăn thứ  ba nhỏ  nhất đựng bút, thước và  các đồ dùng như: áo đi mưa, chai nước, … + HS4: Chiếc cặp giúp em đựng sách vở  không bị  rơi rớt và không bị  mưa ướt. Khi đi học về, em để cặp ngay ngắn trên bàn học, ... 2.3.2. Biện pháp 2: Tạo động cơ học văn miêu tả ở học sinh.           Công việc đầu tiên của dạy học Tập làm văn là tạo ra được động cơ,  nhu cầu nói năng, kích thích học sinh tham gia vào cuộc giao tiếp (nói, viết).   Sản phẩm của phân môn Tập làm văn là các bài nói hoặc viết theo kiểu bài do   chương trình quy định. Để sản sinh ra các bài văn này, học sinh phải có thêm  nhiều kĩ năng khác ngoài khả  năng nghe, nói, đọc viết Tiếng Việt, kĩ năng   dùng từ  đặt câu. Đó là các kĩ năng phân tích đề, tìm ý và lựa chọn ý, kĩ năng  lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn. Nhiệm vụ  của phân môn Tập làm văn  bậc Tiểu học, mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm   xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh. Trong đó, học văn miêu tả  góp phần phát triển tư duy hình tượng của trẻ được rèn luyện phát triển nhờ  biện pháp so sánh, nhân hóa... khi miêu tả. Nhưng làm thế  nào để  thực hiện   được những nhiệm vụ  trên mà không biến các em thành những “thợ” viết   văn? Vậy ta cần kích thích các em yêu văn và có nhu cầu viết văn. Trước hết   hãy tạo tình huống khiến các em háo hức khám phá điều thú vị  trong đối   tượng miêu tả. Ví dụ: Giáo viên cho học sinh quan sát bức tranh cây phượng  đang ra hoa đỏ rực và hỏi: Quan sát tranh em thấy cây hoa có đặc điểm gì mà  nhà thơ Xuân Diệu đã ví “như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”?          Học sinh sẽ phân tích tìm đặc điểm tương đồng của bộ phận nào đó của  cây hoa với muôn ngàn cánh bướm đậu khít nhau. Qua đây cũng rèn luyện cho   các em óc quan sát tinh tế, sự liên tưởng và tư duy phân tích, kích thích các em  suy luận. Dạy học sinh viết văn miêu tả  phải gắn liền với việc hình thành   những kĩ năng sống khác. Như  dạy các em biết giữ  gìn đồ  vật, tổ  chức cho   học sinh trồng, chăm sóc và bảo vệ  cây... Học sinh được trau dồi vốn sống,   biết suy nghĩ, có những cảm xúc, tình cảm. Từ  đó, mới dạy các em cách thể  hiện  suy nghĩ, tình cảm bằng ngôn ngữ nói, viết. Khi ra đề Tập làm văn, giáo   viên nên chú ý đề  bài yêu cầu viết về  những gì gần gũi thân thiết với học   sinh, tạo ra được động cơ  nói năng, kích thích các em muốn nói,viết về  nội  dung mà đề  bài đã yêu cầu. Trong tiết kiểm tra viết (TL HDH Tiếng Việt 4   tập 2A – Trang 152) có 4 đề  bài gợi ý. Giáo viên nên dựa vào đó ra đề  khác   nhằm gợi cảm xúc cho các em trước khi viết bài. 
  11. 8         Ví dụ: Đề 1: Hãy tả một cây ở trường gắn với nhiều kỉ niệm của em.          Đề 2: Hãy tả một cây do chính tay em vun trồng.          Đề 3: Hãy tả một cây hoa mà em yêu thích.          Đề 4: Tả một vườn rau(hoa) gần nơi em ở.          Khi học sinh đã có hứng thú học văn miêu tả, ta tiếp tục duy trì điều đó   trong suốt quá trình học tập và tiếp tục rèn các kĩ năng khác theo yêu cầu khi  viết văn. Ngoài ra, bên cạnh yêu cầu duy trì chủ  đề  để  đạt mục đích giao  tiếp, bài văn phải có sự phát triển, chủ đề phải được triển khai. Giáo viên cần  chỉ ra các hướng cho học sinh viết bài: viết theo trình tự thời gian, không gian   hay từ toàn thể đến bộ phận... Các bài văn miêu tả của học sinh phải thể hiện   được tình cảm, cảm xúc. Điều này chi phối kĩ thuật viết đồng thời đòi hỏi  dạy viết văn miêu tả phải được bắt đầu từ việc hình thành tình cảm đối với   đối tượng được miêu tả. 2.3.3. Biện pháp 3: Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ   bản của văn miêu tả.          Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mỹ, dù miêu tả bất kỳ đối  tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì miêu tả cũng không bao giờ là sự  sao chép, chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một cách máy móc mà là kết   quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu  tả thể  hiện được cái riêng biệt của mỗi người. Nhà văn Phạm Hổ  cho rằng:  "Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả  phải gắn với cái chân thật ". Văn  miêu tả  không hạn chế  sự  tưởng tượng, không ngăn cản sự  sáng tạo của   người viết nhưng như  vậy không có nghĩa là cho phép người viết " bịa" một  cách tùy ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, giáo viên cần uốn nắn để  học sinh tránh thái độ  giả  tạo, giả  dối, bệnh công thức sáo rỗng. Mặt khác   giáo viên cần giúp các em nắm được: trong văn miêu tả, ngôn ngữ  sử  dụng  phải là ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, giàu nhịp điệu âm thanh, … và   các thể loại văn khác.   Từ việc hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đường  mình cần đi và đích mình cần tới, chắc chắn học sinh sẽ thận trọng hơn khi   chọn lọc từ  ngữ, sẽ  gọt giũa kỹ  hơn từng lời, từng ý trong bài văn và như   vậy chất lượng bài làm của các em sẽ  tốt hơn. Mặt khác học sinh cần phải   thực hiện yêu cầu sau:          Lưu ý:  Đảm bảo yêu cầu quan sát đối tượng miêu tả: ­ Quan sát tổng thể đối tượng, chú ý cả ở trạng thái động và tỉnh. Quan  sát bằng tất cả các giác quan: thính giác, thị giác, xúc giác, cảm giác..... ­ Nếu tả  cảnh: cần quan sát tỉ  mỉ  từng phần (bộ  phận) của cảnh theo  trình tự  hợp lí (Ví dụ: Từ  ngoài vào trong, từ  bộ  phận chủ  yếu đến các bộ  phận thứ  yếu), hoặc sự  thay đổi của cảnh theo thời gian (ví dụ: sáng, trưa,  chiều, tối). * Tả theo trình tự không gian: 
  12. 9     Từ quan sát toàn bộ đến quan sát từng bộ phận hoặc ngược lại. Tả từ  xa đến gần, từ  trên xuống dưới, từ  ngoài vào trong, từ  trái qua phải…hoặc  ngược lại. Trình tự  này thường được vận dụng khi miêu tả  loài vật, cảnh   vật, đồ vật, cây cối nói chung. ­ Tả từ dưới lên trên Ví dụ: “ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dẽ  gãy hơn cả  cành khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành”.                                                           ( Trích Rừng hồi xứ Lạng, Tô Hoài   ) Tác giả quan sát và tả rất tinh tế về cây hồi, rồi quả hồi và cuối cùng là   lá hồi theo trình tự  dưới lên trên. Dùng lối miêu tả  tĩnh với những tính từ  ( thẳng, cao, tròn xoe, giòn, dễ  gãy…), dùng cách nói nhân hoá quả  hồi phơi   mình làm cho sự miêu tả thêm gần gũi, sinh động. ­ Tả từ ngoài vào trong Ví dụ: “...Nắp bút màu hồng, có cái cài bằng sắt mạ  bóng loáng. Mở  nắp ra, em thấy ngòi bút sáng loáng, hình lá tre, có mấy chữ  rất nhỏ, nhìn  không rõ...”. (Cây bút máy, TL HDH Tiếng Việt 4 tập1B, Tr.121) ­ Tả từ xa đến gần Ví dụ: “…Tôi vội ra khoang trước nhìn. Xa xa từ  vệt rừng đen, chim  cất cánh tua tủa bay lên, giống hệt đàn kiến từ trong lòng đất chui ra, bò li ti   đen ngòm trên da trời. Càng đến gần, những đàn chim bay đen kít trời …Mỗi   lúc tôi càng nghe tiếng chim kêu náo  động như  tiếng xúc những rổ  đồng  tiền…”                                           (Trích Đất rừng Phương Nam, Đoàn Giỏi) * Tả theo trình tự thời gian: Quan sát diễn biến của thời gian từ  lúc bắt đầu đến lúc kết thúc, từ  mùa này sang mùa khác, từ  tháng này sang tháng khác… Cái gì xảy ra trước  (có trước) thì miêu tả trước, cái gì xảy ra sau (có sau) thì tả sau. Trình tự này  thường được vận dụng trong bài văn tả  cảnh vật, hiện tượng tự  nhiên (tả  cảnh) hay tả cảnh sinh hoạt của người. Ví dụ: “… Buổi chiều, xe dừng lại một thị trấn nhỏ. Nắng phố huyện   vàng hoe. Những em bé Hmông, những em bé Tu Dí, Phù Lá cổ đeo móng hổ,  quần áo sặc sỡ đang chơi đùa trước cửa hàng. Hoàng hôn, áp phiên của phiên   chợ thị trấn, người ngựa dập dìu chìm trong sương núi tím nhạt…” ( Trích Đường đi Sa Pa, Nguyễn Phan Hách, TL HDH   Tiếng Việt 4,   tập 2B­ Tr.4 ) * Tả theo trình tự tâm lý:           Thấy đặc điểm gì nổi bật, thu hút bản thân, gây cảm xúc mạnh cho bản   thân (buồn, vui, yêu, ghét…) thì tập trung quan sát trước, tả  trước, các bộ  phận khác quan sát sau, tả  sau… Trình tự  này thường được vận dụng khi tả 
  13. 10 đồ vật, tả loài vật, tả người. chỉ cần miêu tả những điểm nổi bật nhất, không   nhất thiết phải tả  đầy đủ, chi tiết, như  nhau tất cả  các đặc điểm của đối  tượng.          Ví dụ: “Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam. Hương vị nó hết sức   đặc biệt, mùi thơm đậm, bay rất xa… Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm… Hoa   đậu từng chùm, màu trắng ngà… Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ  nghĩ mãi  về dáng cây kì lạ này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột…”. (Sầu riêng, Mai Văn Thọ, TL HDH Tiếng Việt 4, tập 2A­ Tr.55) Chú ý phát hiện những đặc điểm riêng, phân biệt đối tượng được tả  với đối tượng khác cùng loại. Tuy vậy, trong quá trình hướng dẫn các em  quan sát, giáo viên phải đồng thời khéo léo gợi mở  để  các em huy động vốn   sống, khả năng tưởng tượng và cảm xúc để  giúp cho việc quan sát được tốt  hơn.    Muốn làm văn miêu tả trước hết các em phải biết có cái gì để viết, để  tả. Muốn tả đúng, tả hay phải quan sát. Giáo viên phải h ướng dẫn các em tập  quan sát, cách quan sát để tìm ra cái mới cái riêng. Quan sát để thấy đ ược màu  sắc khác nhau, hương vị khác nhau, đặc điểm, tính chất khác nhau. Từ đó có  những sáng tạo độc đáo, không giống nhau mà chân thật.   Ví dụ: + Quan sát ánh trăng: Khi vui em thấy trăng cười, mời gọi hay nô  đùa với em. Khi buồn, em lại thấy trăng trầm tư lặng lẽ, muốn chia sẻ.                      + Quan sát gió: Khi gió thổi nhẹ có em thấy vuốt ve, vỗ về, miên   man trên da thịt, có em lại thấy gió thầm thì trò chuyện, gió hát ru...                       + Quan sát cơn mưa mùa hạ: Có em thấy mây dày đặc hơn,   quánh lại với nhau và như  hạ  thấp xuống. Rồi đột nhiên: rào, rào,...Mưa đổ  xuống xối xả. Có em thấy mây phía đông ùn ùn kéo đến,... Hạt m ưa bắt đầu  rơi, những giọt nước mưa thật to lộp bộp rơi xuống mái nhà. Có em thấy m ­ ưa tuôn rào rào, xối xả  trên mái nhà mặt đ ường, muôn nghìn hạt mưa đổ  xuống .            Trong quan sát, giáo viên cần hướng dẫn các em quan sát sự  vật  ở  nhiều thời điểm, hoàn cảnh, trạng thái, nhiều hoạt động khác nhau để  tìm ra  cái riêng, cái mới trong văn miêu tả.  Ví dụ: Quan sát con vật: Quan sát con mèo ngủ, sưởi nắng, bắt chuột,  rình mồi, khi leo cây, để thấy được những nét khác nhau từ ánh mắt, bước đi,  cách vẫy đuôi, tiếng kêu,...của nó, cụ  thể hơn nữa bình thường con mèo kêu  meo meo nhưng khi đánh nhau, khi vồ  chuột và cả  khi sợ, nó lại kêu ngao ...  gừ... Mèo ngủ cũng có nhiều cách ngủ, khi thì cắm đầu xuống giấu trong hai   chân trước, khi lại ngửa mặt, vênh râu lên. Trời nóng, lạnh, khi  ốm, khoẻ,  mèo có những chỗ ngủ, cách nằm ngủ khác nhau. 2.3.4. Biện pháp 4:  Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng   từ đặt câu, sử dụng các biện pháp và giải pháp nghệ thuật khi miêu tả  là   hết sức cần thiết.
  14. 11 Muốn một bài văn hay, có "hồn", có chất văn thì các em phải có vốn từ  ngữ  phong phú và phải biết cách lựa chọn từ  ngữ  khi miêu tả  cho phù hợp,  Chính vì vậy giáo viên cần chú ý cung cấp vốn từ cho các em khi dạy tập đọc,  luyện từ  và câu và cả  trong khi dạy các môn khác hay trong những buổi nói  chuyện trong các tiết sinh hoạt. Hướng dẫn các em lập sổ  tay văn học theo  các chủ đề, chủ điểm, khi có một từ hay, một câu văn hay các em  ghi vào sổ  tay theo từng chủ điểm và khi làm văn có thể sử dụng một cách dễ dàng. Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước đầu chỉ  yêu cầu học sinh đặt câu đúng, song yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử  dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình  ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ tình cảm. Khi  làm một bài văn miêu tả về con mèo, chúng ta cần miêu tả: ­ Chú ta có cái đuôi thon dài như một cái măng mọc.   Giáo viên hỏi: Em nào nhận xét cách đặt câu của bạn? Học sinh có thể  nhận xét: Bạn đã sử dụng biện pháp so sánh để so sánh cái đuôi mèo như một   cái măng mọc. Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm đôi tìm câu khác để miêu tả cái  đuôi của chú mèo sao cho sinh động hơn:            ­ Lúc chú ngồi, hai chân sau xếp lại, hai chân trước chống lên, đăm   chiêu nhìn và nghe ngóng, cái đuôi mềm mại, phe phẩy như làm duyên.            ­ Hay: Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất thướt tha cùng với tấm   thân thon dài mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu. Như vậy, cùng là miêu tả về bộ lông của chú gà trống, cái đuôi của chú  mèo nhưng những câu văn sử  dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng  những từ  gợi tả, gợi cảm như  các câu trên thì hiệu quả  khác hẳn. Ta thấy   miêu tả  như  vậy vừa sinh động, tinh tế  vừa rất tình cảm và sẽ  cuốn hút   người đọc, người nghe. 2.3.5. Biện pháp 5: Giúp học sinh tích lũy vốn từ miêu tả và làm giàu   trí tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả.            Muốn lựa chọn từ ngữ để  đặt câu, viết thành những câu văn có hình  ảnh, học sinh phải có vốn từ phong phú. Do vậy, giáo viên cần giúp học sinh   tích luỹ  vốn từ  miêu tả  và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn  miêu tả. Tích luỹ  vốn từ: Vốn từ  được tích luỹ  từ  nhiều nguồn: giao tiếp   hàng ngày; đọc sách, báo; xem, nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với  bạn bè; cô giáo cung cấp;..Ghi chép khi được nhận các từ  ngữ  dùng để  miêu   tả  theo các chủ  đề, cụ  thể  như: Các từ  thường dùng trong miêu tả  cây cối:   xanh mướt, mơn mởn; khẳng khiu; xum xuê; rực rỡ; đo đỏ;…Các từ  thường   dùng trong miêu tả  đồ  vật: tròn xoe, nhỏ  nhắn,… Các từ  thường dùng trong   miêu tả  con vật: tinh nhanh, rón rén, oai vệ,…Các từ  miêu tả  đó thường là  những từ  láy, gợi lên hình ảnh, âm thanh, … để  miêu tả  cho sinh động. Giúp   học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng: (tưởng tượng trong miêu tả rất quan   trọng). Có tưởng tượng mới có hình  ảnh hoàn chỉnh về  đối tượng miêu tả.  
  15. 12 Tưởng tượng như một sự hình dung về đối tượng mà ta nhắm mắt lại thì đối   tượng sẽ  hiện ra rõ nét hơn, cụ  thể  hơn, gần gũi hơn. Tưởng tượng giúp ta  thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được những điểm tương đồng  với đối tượng khác, thấy được mối quan hệ  của đối tượng với sự  vật hiện   tượng xung quanh, với những kỉ  niệm hay kí  ức mang dấu  ấn sâu sắc trong   lòng người viết. Từ  tưởng tượng, học sinh sẽ  cảm nhận  được đối tượng  miêu tả  bằng tình cảm, tình yêu của chính mình, thấy được tầm quan trọng   của  đối tượng  được tả   đối với chính mình và cả  với những người xung   quanh. Miêu tả gắn với tưởng tượng là một cách bộc lộ cảm xúc, tình cảm và  khả năng cảm thụ cái đẹp của người viết văn miêu tả. Tưởng tượng làm cho  đối tượng miêu tả  hoàn thiện hơn, sống động và gần gũi hơn. Giáo viên có  thể hướng dẫn học sinh tưởng tượng theo cách: Không trực tiếp quan sát, tập  trung tất cả các giác quan vào đối tượng. Nhắm mắt, hình dung về đối tượng:   hình  ảnh, hoạt động của đối tượng, những  ảnh hưởng, tác động của đối  tượng đến sự  vật xung quanh. So sánh đối tượng được miêu tả  với các đối  tượng khác tương đồng. Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có  ở  đối tượng.  Nhân hoá hay tự  nhiên hoá một vài hình  ảnh đặc sắc  ở  đối tượng. Dự  đoán  trước khả  năng và những điều tốt đẹp mà đối tượng có thể  vươn tới. Liên  tưởng với những điều mình đã biết; đã nghe, đọc, cảm nhận được về  đối  tượng từ  trước tới nay. Ghi chép lại những gì mình đã tưởng tượng để  lựa  chọn, chắt lọc đưa vào bài viết của mình. Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở  bài, thân bài, kết bài và xây dựng bố cục bài văn. Bài tập luyện viết văn miêu  tả là những bài tập viết thành đoạn, bài. Khi học sinh thực hiện viết bài văn   miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm cách diễn đạt( dùng từ, đặt câu, sử dụng  các biện pháp tu từ, so sánh, nhân hoá,…). Vì vậy, yêu cầu đặt ra là lời văn  cần rõ ý, miêu tả sinh động, bộc lộ  được cảm xúc, bố  cục bài văn chặt chẽ,  hợp lí trong từng đoạn, trong toàn bài để  tạo ra một “chỉnh thể”. Các bài tập  được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngôn bản và chứa đựng trong nó  nhiều bài tập hình thành những kĩ năng bộ phận( xác định yêu cầu nói, viết và   tìm ý, sắp xếp ý thành bài đến viết đoạn văn, liên kết đoạn văn thành bài,…).  Kĩ năng viết của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn  văn trước khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Do đó, trong quá trình thực hiện   các bài tập rèn luyện kĩ năng viết, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện tốt  những yêu cầu sau: gồm các bài tập phân tích đề  bài, xác định nội dung viết,  tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu cầu viết. 2.3.6. Biện pháp 6: Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài   và kết bài.                    Bài văn không thể  thiếu phần mở  bài và kết bài, những phần này   thường thu hút người đọc, người nghe chú ý cách đặt vấn đề  và cách cảm   nghĩ về vấn đề mà người trình bày. Chính vì vậy, việc rèn luyện cho học sinh  xây dựng một đoạn văn mở bài và kết bài là rất cần thiết.
  16. 13 * Đoạn văn mở  bài: Có hai cách mở  bài mà học sinh được học đó là  mở  bài trực tiếp và mở  bài gián tiếp. Không nhất thiết phải gò bó học sinh  làm mở bài theo cách nào để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý   nhất và phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát   từ  một vấn đề  mình cần nói tới, có thể  bắt đầu bằng những câu thơ, những  câu hát,…nhưng phải bám sát vào yêu cầu của đề, không lan man, xa đề,   không rườm ra. Giáo viên có thể cho học sinh làm việc nhóm đôi hoặc cá nhân  tự nêu cách vào bài của mình, sau đó cho các bạn nhận xét. Chẳng hạn với bài  tả con mèo, một học sinh mở bài:’’Hè vừa rồi, mẹ em đi chợ  mua được một   con mèo tam thể.Chú ta là thành viên thứ  năm của gia đình em, nay đã được   bốn tháng ”. ­ Giáo viên nêu câu hỏi: Đây là cách mở bài nào?( trực tiếp) ­ Giáo viên nêu yêu cầu để  học sinh nêu cách mở  bài khác sinh động  hơn:” Nhà em đã từ  lâu không có một chú chuột nào dám bén mảng tới vì có   một chú lính gác cừ khôi, đó chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm   tuổi, nó thật hiền dịu nhưng cũng thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của   em.”          Hay với đề bài miêu tả cây đa cổ thụ nơi làng quê, học sinh mở bài như  sau: “Ở đầu làng em có một cây đa cổ thụ  phải đến trăm năm tuổi. Cả làng   gọi đó là cây đa ông Đài, vì ông Đài là người trồng ra nó, nhưng ông Đài là ai   thì cả làng không ai nhớ cả.”           Học sinh khác lại viết: "Từ bến đò phía xa, em đã nhìn thấy làng em.   Phải qua một cánh đồng bao la, một con đường liên xã dài hơn hai cây số, em   đã nhìn thấy làng quê yêu dấu: Cây đa cổ  thụ  in bóng xanh thẫm trên bầu   trời. Mỗi lần đi xa về, em cảm động tưởng như  cây đa làng em đang giơ  tay   vẫy chào, đón đợi.”           Từ các cách mở bài khác nhau, các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay   để mở bài một cách hợp lý nhất. * Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ  là một phần nhỏ  trong bài văn  nhưng lại rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm  của người viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy, học sinh thường hay   liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân   thực. Chủ  yếu các em thường làm kết bài không mở  rộng, kết bài như  vậy   không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn người đọc. Vì vậy, đòi hỏi người  giáo viên phải gợi ý để  học sinh biết cách làm phần kết bài mở  rộng bằng  cảm xúc của mình một cách tự nhiên thông qua những câu hỏi mở, sau đó cho  các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được những kết bài hay.          Ví dụ: “ Cây gạo có thể sống đến nghìn năm. Nó là nhân chứng thầm   lặng của dòng đời.”  Cô giáo em nói thế. Đi học về, đứng trên bến đò, hoặc   đi xa về, ngắm nhìn  cây gạo, em thấy lòng bồn chồn xôn xao. Cây gạo là hồn   quê, là tình quê vơi đầy.”          Văn chương không phải là sợ  đúng, sai với làm văn đúng thôi chưa đủ 
  17. 14 phải thấm đượm cảm xúc của người viết. Song tình cảm không phải thứ  gò  ép bắt buộc, tình cảm  ấy phải chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ  chính tâm  hồn các em. Bài văn không thể  hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm  xúc không chỉ bộc lộ  ở phần kết bài mà còn thể  hiện ở  từng câu, từng đoạn  của bài. Vì vậy, giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách bộc lộ  cảm xúc  trong bài văn một cách thường xuyên liên tục, từ  tiết đầu tiên của mỗi loại  bài đến những tiết luyện tập xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và ngay trong   tiết trả bài nữa.    2.3.7. Biện pháp 7:  Hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung bài văn  (lựa chọn và sắp xếp ý để miêu tả)           Nội dung bài đầy đủ, phong phú là yêu cầu không thể thiếu được của   một bài tập làm văn tốt. Với yêu cầu này ta cần tiến hành qua các bước: tìm  ý, lập dàn bài chi tiết theo bố  cục 3 phần (mở  bài, thân bài, kết bài), các từ  ngữ  nối để  liên kết câu chặt chẽ, trôi chảy. Từ  ngữ  miêu tả  phải thích hợp,   câu văn có hình ảnh, biết sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá để bài văn   hay hơn.          Khi làm bài viết, yêu cầu học sinh:          ­ Đọc kĩ, hiểu yêu cầu của đề bài.          ­ Phân tích đề : Đề thuộc thể loại văn gì? Nội dung miêu tả ai? Con gì?   Vật gì? Cảnh ở đâu? Tả vào lúc nào? Bộ phận nào?           ­ Biết dựa vào dàn ý  đã xây dựng, các đoạn văn đã viết ở tiết trước để  viết thành một bài văn hoàn chỉnh.          Sau đó, học sinh bám sát yêu cầu của đề bài, huy động vốn thực tế (mà   các em đã được hướng dẫn quan sát qua khâu chuẩn bị) để  lựa chọn được  những nét nổi bật của đối tượng để miêu tả rõ ràng, đầy đủ.           Sau khi đã thống kê toàn bộ ý đã tìm được lên vở nháp, GV cần hướng  dẫn học sinh chọn lọc ý theo hệ thống câu hỏi: Theo em, những ý nào không   quan trọng cần lược bỏ?  Ý nào cần tả lướt qua bằng vài câu? Còn ý nào cần  tập trung tả kĩ, sâu hơn? Tại sao lại không tả hết toàn bộ  tả  một số cảnh và  tả kĩ như vậy nhằm mục đích gì? * Phần mở bài:   Giới thiệu đối tượng miêu tả (tả đồ  vật, tả cây cối,   tả con vật) bằng cách trực tiếp hay gián tiếp.          Trong bài tập làm văn, phần mở bài là phần gây ấn tượng đầu tiên cho  người đọc. Các em có thể  vào bài bằng một câu hay một đoạn nhưng cần  phải bám sát vào nội dung yêu cầu đã được xác định. Dựa vào mở  bài của  mỗi em mà giáo viên góp ý, không gò bó, không áp đặt. Ví dụ: Khi tả con vật,   các em có thể  vào bài: “ Đã lâu, em được bố  mẹ  cho về  quê chơi. Qua khỏi  cổng làng, em bước thơ thẩn trên con đường nhỏ dẫn tới đầm sen. Ở một góc   đầm trống, một đàn vịt bầu đang lặn hụp kiếm mồi. Từ đó, giúp các em viết  được bài văn tốt mang tính nghệ thuật cao.
  18. 15 *Phần thân bài:  Ở  phần này, tôi cho học sinh phát triển theo nhiều ý  khác nhau.           Tả đồ vật: Ví dụ: Đề bài: “ Tả một đồ chơi mà em thích”. Tôi cho các  em  làm theo các gợi ý sau:            + Muốn miêu tả đồ vật, trước hết phải quan sát đồ vật đó là đồ vật gì?   (búp bê, gấu bông, cái chong chóng,...) + Quan sát theo một trình tự hợp lí: ­  Nhìn bao quát. ­ Quan sát từng bộ phận ( bên ngoài/ bên trong, bên trên/ bên dưới, đầu/   mình/ chân tay,...) + Nên quan sát bằng nhiều giác quan: ­ Dùng mắt để  xem hình dáng, kích thước, màu sắc,...của đồ  vật như  thế nào. ­ Dùng tay để  biết đồ  vật mềm hay rắn, nhẵn nhụi hay thô ráp, nặng  hay nhẹ,... ­ Dùng tai để  nghe đồ  vật khi được sử  dụng có phát ra tiếng động   không, tiếng động ấy như thế nào. ­ Cố  gắng tìm ra những đặc điểm riêng của đồ  vật, phân biệt nó với   những đồ vật khác, nhất là những đồ vật cùng loại.           Tả cây cối: Từ gợi ý của các bài văn mẫu, biết lập dàn ý miêu tả một  cây ăn trái quen thuộc theo hai cách đã học: Tả lần lượt từng bộ phận của cây  hoặc tả lần lượt từng thời kì phát triển của cây. Từ đó, học sinh phát triển ý  thật tự nhiên. Như vậy, mỗi em có một ý, một vẻ khác nhau và đều đảm bảo  đủ ý chính. Tuy nhiên, cần hướng cho học sinh phát triển ý phong phú về nội   dung làm nổi bật yêu cầu của đề  bài. Khi xây dựng phần thân bài, chúng ta  cần lưu ý học sinh: Khi tả có thể tả nhiều bộ phận nhưng không coi đó là chủ  yếu mà cần làm nổi bật đối tượng cần tả  do đề  bài yêu cầu. Tả  cần chọn   những nét tiêu biểu, tránh liệt kê đầy đủ nhưng nặng về kể lể khô khan. *Kết bài:  Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ, ấn tượng về đối tượng miêu  tả theo kiểu mở rộng hoặc không mở rộng.           Có nhiều cách kết bài khác nhau cho một bài văn miêu tả  nhưng đều  phải xuất phát từ  nội dung chính mà các em vừa khai thác được ở  phần thân  bài. Để thực hiện tốt điều này, chúng ta có thể gợi mở:           Ví dụ: Với đề bài "Tả một đồ chơi mà em thích", ta có thể hỏi: Em hãy   nói tình cảm của em với đồ chơi mà em thích. Giáo viên gợi mở cho học sinh   nói theo ý của mình, cảm nghĩ của mình qua bài văn miêu tả  mà các em đã  chuẩn bị. Sau đó, Giáo viên chắt lọc, sửa sai (nếu cần). 2.3.8. Biện pháp 8: Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài.           Tất cả  những công việc, từ  những việc làm thông thường hàng ngày   đến việc nghiêm túc đều thực hiện theo một chu trình nhất định, bắt đầu từ  việc lập kế hoạch đến việc triển khai thực hiện kế hoạch đó và cuối cùng là  
  19. 16 khâu kiểm tra đánh giá lại những việc đã làm so với kế hoạch đó và cuối cùng   là khâu kiểm tra đánh giá lại những việc đã làm so với kết quả bỏ qua bất cứ  khâu nào trong các khâu trên, nhất là các khâu kiểm tra, đánh giá: có kiểm tra   đánh giá thì mới có thể biết được những ưu, khuyết điểm trong công việc đã  thực hiện, để điều chỉnh cho những việc tiếp theo.          Dạy Tập làm văn cũng không nằm ngoài chu trình chung đó. Mỗi loại  bài thường dành một tiết kiểm tra để  học sinh thực hành viết văn, quá trình   thực hành  ấy cần được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn thận,  nghiêm túc thì mới có tác dụng rèn kỹ năng viết văn cho học sinh, tổ chức rút   kinh nghiệm thực hiện tiết trả  bài chính là thực hiện khâu cuối cùng "kiểm  tra, đánh giá "nhằm mục đích giúp học sinh hiểu được những nhận xét chung  của giáo viên và kết quả bài viết của cả lớp để liên hệ với bài làm của mình   giúp học sinh biết sửa lỗi dùng từ, ngữ  pháp, diễn đạt, bố  cục bài của mình   và của các bạn. Từ  đó, học sinh có thể  học hỏi câu văn, đoạn văn hay của  bạn. Với mục đích như  vậy thì tiết trả  bài không thể  làm qua loa đại khái,  càng không thể bớt xén thời lượng.         Giáo viên cần chú trọng khâu chữa lỗi:          ­ Chữa lỗi về dùng từ: Tôi đưa câu văn mà học sinh dùng từ thiếu chính  xác cho học sinh đọc và phát hiện. Ví dụ  qua đề bài: "Tả  con vật mà em yêu   thích" có học sinh viết: "Chú gà trống vỗ cánh bạch bạch". Xét về góc độ ngữ  nghĩa, cú pháp thì câu hoàn toàn đúng. Song từ "lạch bạch" là từ tượng thanh,  chỉ  cho ta nghe âm thanh khi chú gà trống vỗ  cánh nhưng chưa toát lên được  vẽ oai vệ của gà trống. Vì vậy, giáo viên gợi mở để học sinh tìm từ thay thế  "phành phạch", vừa gợi tả  âm thanh vừa cho thấy hình  ảnh đôi cánh chú gà  trống vừa mạnh vừa khỏe. Sau đó, học sinh viết lại câu. Nhận xét mức độ  miêu tả qua câu vừa viết.           ­ Chữa lỗi về câu: Lỗi về câu có nhiều dạng. Tôi lựa chọn từng loại sai   để sửa.     Ví dụ: Khi viết bài văn tả bạn có học sinh viết: " Bạn Lan thương   yêu." Với trường hợp này tôi dùng câu hỏi gợi mở để học sinh phát hiện lỗi sai của  câu chưa đủ  thông tin, chưa rõ nghĩa. Bạn Lan thương yêu ai? Sau đó hướng  cho học sinh bổ sung. Chẳng hạn: "Bạn Lan yêu thương mọi người trong gia   đình."          Trong tiết trả bài, ngoài việc tiến hành đúng các trình tự, giáo viên cần  thay đổi hình thức hoạt động để  học sinh đỡ  nhàm chán. Sau phần giáo viên  nhận xét chung, giáo viên cần chữa lỗi cho học sinh theo từng loại lỗi thống   kê khi chấm bài và nêu các câu văn, đoạn văn hay đã chuẩn bị  trước. Sau đó,  giáo viên trả bài và có thể tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm bàn để  các em trao đổi với bạn về cách làm bài của mình, đọc cho nhau nghe các câu   văn hoặc giúp nhau sửa lỗi trong bài làm. Từ  đó, học sinh sẽ  thấy rõ  ưu,  nhược điểm trong bài làm của mình, của bạn và biết tự  sửa chữa hoặc viết  lại đoạn văn của mình cho đạt yêu cầu. Sau những trao đổi như vậy cũng sẽ 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2