intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phép tu từ So sánh trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:16

37
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học được hoàn thành với một số nội dung như sau: nghiên cứu kĩ chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 3. Dạy đúng quy trình. Giúp học sinh nắm vững các dạng bài tập về biện pháp tu từ so sánh. Sử dụng linh hoạt, hiệu quả các phương tiện dạy học hiện đại. Sử dụng trò chơi học tập. Dạy biện pháp tu từ so sánh tích hợp vào các môn học. Coi trọng việc kiểm tra, đánh giá động viên học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phép tu từ So sánh trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu. Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, mục tiêu giáo dục tiểu học  là “Giúp học sinh hình thành và phát triển những yếu tố  căn bản đặt nền  móng cho sự  phát triển hài hòa về  thể  chất và tinh thần, phẩm chất và năng  lực,  định hướng chính vào giáo dục về  giá trị  bản thân, gia đình, cộng đồng   và những thói quen, nền nếp cần thiết trong học tập và sinh hoạt ”. Như vậy   mục tiêu giáo dục tiểu học không chỉ  chú ý chuẩn bị  cho học sinh những cơ  sở  ban đầu “cho sự  phát triển đúng đắn và lâu dài về  đạo đức, trí tuệ, thể  chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ  bản để  học sinh tiếp tục học Trung học cơ  sở” mà còn giúp học sinh “phát triển cả về phẩm chất và năng lực”. Các bộ  phận cấu thành của môn Tiếng Việt trong trường tiểu học bao  gồm: Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Tập làm văn, Luyện từ  và câu. Qua tiết  Luyện từ  và câu học sinh có khả  năng diễn đạt bằng lời nói rõ ràng, cụ  thể  sinh động mọi sắc thái biểu cảm. Nói và viết đó là những hình thức giao tiếp  rất quan trọng, thông qua đó các em thực hiện quá trình tư duy, chiếm lĩnh tri   thức, trao đổi tư  tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp các em hiểu nhau hơn,  cùng hợp tác trong cuộc sống. Vấn đề đặt ra là người giáo viên dạy Luyện từ  và câu như thế nào để nâng cao chất lượng, đáp ứng được khả năng tiếp thu  bài của học sinh, cách thức tổ chức, tiến hành tiết dạy Luyện từ và câu ra sao  để đạt được hiệu quả như mong muốn. So sánh là một vấn đề mới đối với học sinh lớp 3.  So sánh là cách nói rất  quen thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng như trong sáng tạo văn chương.  Nhờ  phép so sánh người viết có thể  gợi ra những hình  ảnh cụ  thể, những   cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh, đẹp đẽ  cho người đọc, người nghe. So sánh  được xem là một trong những phương thức tạo hình hiệu quả  nhất, có tác  dụng lớn trong việc tái  hiện  đời sống, hình thành và phát triển  trí  tưởng  tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá con người. Mặt khác nó còn   làm cho tâm hồn và trí tuệ  con người thêm phong phú, giúp con người cảm  nhận văn học và cuộc sống một cách tinh tế, sâu sắc hơn. Với mục đích hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng về nhận  thức, về  biểu cảm, phối hợp  ấn tượng thính giác với  ấn tượng thị  giác để  nhận ra hiện tượng so sánh ẩn chứa trong câu văn, câu thơ; Cung cấp cho học   sinh những kiến thức sơ  giản về  biện pháp so sánh; Trang bị  cho học sinh   một số hiểu biết và kĩ năng phục vụ học tập, kĩ năng giao tiếp cần thiết trong   cuộc sống hàng ngày; Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, hình thành thói quen   giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và nhân cách con người Việt Nam xã hội  chủ nghĩa, tôi đã mạnh dạn đưa ra ý tưởng “Một số biện pháp giúp học sinh  học tốt phép tu từ So sánh trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3”.
  2. 2 2. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phép tu từ So  sánh trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3”. 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Trần Thị Thúy ­ Địa chỉ  tác giả  sáng kiến: Trường Tiểu học Kim Long B, huyện Tam  Dương, tỉnh Vĩnh Phúc ­ Số điện thoại: 0987817217   ­ E_mail: tranthithuy.c1kimlongb@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trần Thị Thúy 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phân môn Luyện từ và câu lớp 3. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng hoặc lần đầu áp dụng thử: Từ tháng 9 năm 2020. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1. Về nội dung của sáng kiến. 7.1.1. Thực trạng của vấn đề. a) Thuận lợi. ­ Luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của phòng giáo dục, lãnh   đạo nhà trường, của các tổ  chuyên môn đã có vai trò tích cực giúp giáo viên   dạy đúng nội dung, chương trình phân môn Luyện từ và câu. ­ Học sinh lớp 3 giai đoạn này rất ham học, đặc biệt hơn ở lứa tuổi này   các em không còn bỡ  ngỡ  trước môi trường học tập thực sự  như   ở  các lớp  học trước. Quan trọng là  ở  lớp 3 các em đã được trang bị  một lượng kiến  thức ở lớp 2, đã nắm vững kiến thức, kĩ năng mà các thầy cô giáo trước đó đã   trang bị. Đây là cơ sở giúp cho các em học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp  3. ­ Đa số  các em có ý thức học tập, có sự  chuẩn bị  bài chu đáo trước khi   đến lớp, một số em biết dùng từ đặt câu khá lưu loát. ­ Hầu hết giáo viên giảng dạy có chuyên môn nghiệp vụ  vững vàng, có  tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình, quan tâm và thương yêu học sinh. ­ Phụ huynh học sinh thường xuyên phối hợp chặt chẽ với nhà trường và  giáo viên chủ nhiệm để nắm được các hoạt động của nhà trường và tình hình   học tập của con mình.
  3. 3 b) Khó khăn.  ­ Tiếng Việt là môn học khó, nhất là phân môn Luyện từ và câu đòi hỏi  người giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú, cần phải có vốn sống   thực tế, người giáo viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng  dạy, biết gợi óc tò mò, khả  năng sáng tạo, độc lập  ở  học sinh, giúp các em   hiểu nghĩa từ, so sánh ngôn ngữ quả không dễ. ­ Các bài tập thường là những bài tập trừu tượng, giáo viên phải hướng   dẫn mẫu một phần bài tập, học sinh phải biết tư duy để làm được các phần   bài tập còn lại.  ­ Thêm một thực tế  nữa là các loại sách tham khảo tràn lan trên thị  trường, nhiều cha mẹ mua cho con để tham khảo nhưng nhiều bạn ung dung   chép vào vở nếu cần, mà không phải mất quá nhiều thời gian suy nghĩ để làm  bài. Các em không hiểu việc làm đó dẫn đến hậu quả lớn, nó làm cho não bộ  của các em ít phát triển dần trở nên lười nhác. ­ Giáo viên đôi lúc còn giảng dạy theo phương pháp cũ, việc phân chia  thời lượng lên lớp ở môn dạy đôi khi còn dàn trải, hoạt động của cô trò có lúc  thiếu nhịp nhàng, nặng tính hình thức. ­ Học sinh chưa có ý thức tự giác trong học tập. Khả năng phân tích tổng   hợp, so sánh hoặc giao tiếp còn hạn chế, thiếu tự  tin. Các em còn tật xấu ít  tập trung chú ý nghe giảng, thường thụ động tiếp thu bài. 7.1.2.  Một số  biện pháp giúp học sinh học tốt phép tu từ So sánh  trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3. * Biện pháp 1: Nghiên cứu kĩ chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 3 ­ Giáo viên cần nghiên cứu kĩ cấu trúc, nội dung, cách thể hiện nội dung   về  biện pháp tu từ  so sánh trong sách giáo khoa, về  mức độ  yêu cầu chuẩn   kiến thức và kĩ năng cơ  bản của mạch kiến thức này. Từ  đó tìm ra phương   pháp dạy học thích hợp giúp học sinh tích cực chủ động nắm chắc kiến thức. ­ Nội dung dạy học phép tu từ so sánh trong chương trình lớp 3 được học  trong 8 tiết  ở  học kì I, cứ  2 tuần 1 tiết, chiếm khoảng 1/5 tổng số thời gian   của chương trình học kì 1. Cụ thể như sau: Tuần Chủ điểm Nội dung dạy học Trang 1 Măng non Làm quen với phép so sánh 8 3 Mái ấm Tìm hình  ảnh so sánh và tìm các từ  24 chỉ sự so sánh 5 Tới trường So sánh hơn kém, cách thêm các từ so  43 sánh   vào   những   câu   chưa   có   từ   so  sánh 7 Cộng đồng So sánh sự vật với con người 58
  4. 4 10 Quê hương Làm quen so sánh âm thanh với âm  79 thanh 12 Bắc ­ Trung ­ Nam So sánh hoạt động với hoạt động 98 15 Anh em một nhà Đặt câu có hình ảnh so sánh 126 18 Ôn tập cuối học kì  Luyện tập 148 1   ­ Các bài tập về  biện pháp tu từ  so sánh  ở  lớp 3 được chia thành 2  dạng: Dạng 1: Bài tập nhận biết biện pháp tu từ so sánh (Bài tập theo mẫu) Dạng 2: Bài tập vận dụng biện pháp tu từ so sánh (Bài tập sáng tạo). Biện pháp 2 : Dạy đúng quy trình. ­ Đây là một việc làm không thể thiếu được ở mỗi môn học. Đặc biệt  là dạy biện pháp tu từ  so sánh là dạng bài mới mẻ, trừu tượng đối với học  sinh lớp 3. Để học sinh nắm bài tốt, không bị nhầm lẫn giữa các dạng bài với  nhau, bất cứ một bài tập nào, giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh theo các  trình tự như sau: ­ Đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu của bài tập (bằng câu hỏi hoặc   bằng lời giải thích).      ­ Hướng dẫn học sinh giải một phần bài tập (Bước làm mẫu).   ­ Giáo viên tổ chức cho học sinh làm bài.      ­ Tổ  chức cho học sinh trao đổi, nhận xét, so sánh đối chiếu kết quả  với đáp án, rút ra những điểm cần nhớ về biện pháp so sánh.   Ví dụ: Tìm những sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu  văn  dưới đây: a. Hai bàn tay em     Như hoa đầu cành. b. Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch. c. Cánh diều như dấu “á”     Ai vừa tung lên trời. d. Ơ, cái dấu hỏi Trông ngồ ngộ ghê, Như vành tai nhỏ Hỏi rồi lắng nghe. (Bài 2, trang 8, SGK TV3, tập I)
  5. 5 Bước 1: Giáo viên gọi 1, 2 học sinh đọc thành tiếng yêu cầu của bài, cả  lớp đọc thầm theo. Bước 2: Giáo viên mời 1 học sinh làm mẫu (Bài tập 2a). Nếu học sinh   còn lúng túng, giáo viên gợi ý cho học sinh nhớ  lại bài tập đọc (Câu hỏi 1 :  Hai bàn tay em được so sánh với gì? Hai bàn tay em được so sánh với hoa đầu   cành). Bước 3: Giáo viên cho học sinh làm bài theo hình thức trao đổi theo cặp. Bước 4: GV mời 3 học sinh lên bảng gạch chân dưới các sự  vật được  so sánh trong các câu văn, câu thơ. ­ Tổ chức cho học sinh nhận xét bài làm trên bảng. ­ Giáo viên chốt lại lời giải đúng. Câu a) Hai bàn tay em được so sánh với hoa đầu cành. Câu b)  Mặt  biển  được so sánh với tấm thảm khổng lồ  (tấm thảm   khổng lồ bằng ngọc thạch). Câu c) Cánh diều được so sánh với dấu “á”. Câu d) Dấu hỏi được so sánh với vành tai nhỏ. Giáo viên kết hợp nêu câu hỏi cho cả  lớp suy nghĩ, trả  lời để  hiểu vì  sao các sự vật nói trên được so sánh với nhau. * Biện pháp 3: Giúp học sinh nắm vững các dạng bài tập về biện pháp  tu từ so sánh. Dạng 1: Bài tập nhận biết biện pháp tu từ so sánh. Đây là kiểu bài tập giúp học sinh bước đầu nắm được cấu trúc của  biện pháp so sánh. Với yêu cầu tìm những sự vật được so sánh với nhau, các  em sẽ tìm ra cái so sánh và cái được so sánh. Những sự vật đưa ra so sánh tồn  tại xung quanh các em, gần gũi và quen thuộc đối với cuộc sống của các em,  giúp các em dễ dàng liên tưởng đến sự tương đồng giữa chúng. Dạng bài tập  này chiếm đa số trong chương trình và có 3 dạng nhỏ sau: * Dạng bài “Tìm những sự vật được so sánh”. Đây là dạng bài tập chiếm số  lượng lớn trong chương trình học giúp  học sinh bước đầu nắm được cấu trúc của phép so sánh. Với yêu cầu tìm  những sự  vật được so sánh với nhau các em sẽ  tìm ra “cái so sánh” và “cái  được so sánh” trong phép so sánh. Đây là những sự vật tồn tại xung quanh các  em, gần gũi và quen thuộc đối với cuộc sống của các em, giúp các em dễ dàng   liên tưởng đến sự tương đồng giữa chúng. Với dạng bài này ta có các mô hình   sau: a) Mô hình 1: So sánh sự vật với sự vật. Ví dụ: Hai bàn tay em Như hoa đầu cành
  6. 6 Hoa hồng hồng nụ Cánh trong ngón xinh. (Bài 2, trang 8, SGK TV3, tập 1) Để  làm tốt bài tập này, HS phải nắm chắc được các từ  chỉ  sự  vật, từ  đó các em sẽ tìm được sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên   là: “Hai bàn tay em” so sánh với “hoa đầu cành” Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao “Hai bàn tay em” được so sánh  với “hoa đầu cành”? lúc đó giáo viên phải hướng dẫn học sinh tìm xem các sự  vật so sánh này đều có điểm nào giống nhau, chẳng hạn: Hai bàn tay của bé  nhỏ  xinh như  một bông hoa (Cho học sinh quan sát tranh  ảnh để  các em dễ  nhận thấy điểm giống nhau.) b) Mô hình 2: So sánh sự vật – Con người * Ví dụ: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu thơ dưới đây: “Trẻ em như búp trên cành Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan.”         (Hồ Chí Minh) “Bà như quả ngọt chín rồi Càng thêm tuổi tác càng thêm lòng vàng”.        (Võ Thanh An) Với dạng bài tập này HS sẽ dễ dàng tìm sự  vật so sánh với con người  nhưng các em chưa giải thích được “vì sao?”. Chính vì thế, giáo viên cần giúp  HS tìm được đặc điểm chung của sự vật và con người, chẳng hạn: “trẻ em”   giống như  “búp trên cành”. Vì đều là những sự  vật còn tươi non đang phát  triển đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hi vọng. Bà sống đã lâu, tuổi đã   cao giống như  “quả  ngọt chín rồi” đều phát triển đến độ  già dặn có giá trị  cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu trân trọng. c) Mô hình 3: So sánh hoạt động với hoạt động * Ví dụ 1 : Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh   với nhau:  “Con trâu đen lông mượt Cái sừng nó vênh vênh Nó cao lớn lênh khênh Chân đi như đạp đất.”                  (Trần Đăng Khoa)
  7. 7 Dạng bài này, GV giúp HS nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó học  sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn: Hoạt động “đi” so sánh với hoạt động “đạp đất” qua từ so  sánh “như” * Ví dụ 2 : Trong đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với   nhau:  “Cau cao, cao mãi Tàu vươn giữa trời Như tay ai vẫy Hứng làn mưa rơi”. (Ngô Viết Dinh) Dạng bài tập này, GV yêu cầu HS tạo lập các hình ảnh, các câu thơ sử  dụng biện pháp nghệ thuật so sánh dựa trên ngữ  liệu có sẵn hoặc một phần   do học sinh tự tạo lập. Hoạt động “vươn” của tàu lá cau giống hoạt động “vẫy” tay của con   người. d) Mô hình 4: So sánh âm thanh với âm thanh. * Ví dụ: Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong mỗi câu thơ,   câu văn dưới đây: “Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”                           (Nguyễn Trãi) Với dạng bài tập này, GV giúp HS nhận biết được âm thanh thứ  nhất  và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ “như”. Chẳng hạn: “Tiếng suối chảy” được so sánh với “tiếng đàn cầm” qua  từ “như” Ngoài các mô hình so sánh trên học sinh còn được làm quen với kiểu so  sánh: + So sánh ngang bằng: Từ so sánh: là, như, giống, tựa, tựa như, như là, giống hệt, như thể, ….. * Ví dụ 1: Nhìn từ xa những mảng tường vàng, ngói đỏ như những cánh  hoa lấp ló trong cây.  Từ so sánh là như. * Ví dụ 2: 
  8. 8 Mắt hiền sáng tựa vì sao Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời. Từ so sánh là tựa. Cũng có khi so sánh ngang bằng không dùng từ so sánh mà dùng dấu câu   như dấu gạch ngang, dấu hai chấm. * Ví dụ:  “Thân dừa bạc phếch tháng năm Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao Đêm hè, hoa nở cùng sao Tàu dừa – chiếc lược chải vào mây xanh.”        (Trần Đăng Khoa) + So sánh không ngang bằng (So sánh hơn kém) Các từ so sánh: hơn, kém, chẳng bằng, … * Ví dụ: “Những ngôi sao thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.” (Trần Quốc Minh) * Dạng bài “Tìm những hình ảnh so sánh”. Dạng bài tập này không chỉ yêu cầu học sinh tìm những sự vật được so  sánh với nhau một cách riêng lẻ mà còn phải tìm cả hình ảnh so sánh. Tức là,  các em phải tìm cả  cấu trúc có thể  đầy đủ  hoặc không đầy đủ  của  phép so  sánh. Những hình ảnh so sánh này sẽ đem lại cho các em những cảm xúc tốt  đẹp, những cách nhìn mới mẻ về sự vật, về cuộc sống xung quanh. Giáo viên  cần giúp học sinh hiểu rõ mô hình cấu tạo hoàn chỉnh của phép so sánh gồm 4   yếu tố, có như vậy học sinh mới không bị nhầm lẫn giữa dạng bài Tìm những   hình ảnh so sánh với dạng bài Tìm những sự vật so sánh. Mô hình cấu tạo của phép so sánh: ­ Yếu tố 1: Yếu tố được so sánh hoặc bị so sánh ­ Yếu tố 2: Từ ngữ chỉ phương diện so sánh. ­ Yếu tố 3: Từ ngữ chỉ sự so sánh hay còn gọi là từ so sánh. ­ Yếu tố 4: yếu tố được đưa ra làm chuẩn để so sánh. * Ví dụ: “Đôi mắt long lanh như thủy tinh.” + Yếu tố 1: Sự vật được so sánh “Đôi mắt”. + Yếu tố 2: Phương diện so sánh “long lanh”.
  9. 9 + Yếu tố 3: Từ chỉ sự so sánh “như”. + Yếu tố 4: Sự vật để so sánh “thủy tinh”. Trong thực tế, mô hình cấu tạo nói trên có thể có sự biến đổi, có nhiều  trường hợp so sánh không đầy đủ cả bốn yếu tố.  ­ So sánh vắng yếu tố 2 được gọi là so sánh chìm. So sánh chìm khiến  cho sự liên tưởng được rộng rãi hơn, kích thích sự làm việc của trí tuệ và tình  cảm nhiều hơn. Ví dụ: Tìm  hình ảnh so sánh trong  câu văn dưới đây: Những đêm trăng sáng, dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng.                                                                  (TV3, t.1, tr.24) ­ So sánh vắng cả  hai yếu tố  2 và 3 được gọi là so sánh sử  dụng chỗ  ngắt giọng và hình thức đối chọi.    * Ví dụ:  “Trường Sơn: chí lớn ông cha Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào.” * Dạng bài “Tìm các từ so sánh”. Trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta thường dùng từ  như  khi muốn so   sánh một thứ gì đó. Chẳng hạn đẹp như tiên, xấu như ma, hiền như bụt ... Tuy  nhiên, trong phép tu từ so sánh có rất nhiều những từ dùng để so sánh như: là  tựa, giống, như thể, như là,... Để  giúp các em nhận ra được sự phong phú, đa  dạng cũng như  sự  tinh tế  của so sánh tu từ, sách giáo khoa đã cung cấp cho  các em dạng bài tập tìm các từ so sánh. Ví dụ: Bài 2 (SGK TV2, tập 1 trang 25) Hãy ghi lại các từ  chỉ  sự  so  sánh trong những câu sau: Mắt hiền sáng tựa vì sao Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời. Dạng 2: Bài tập vận dụng biện pháp tu từ so sánh (Bài tập sáng tạo) Dạng bài tập này có tính tư  duy, sáng tạo cao, tuy nhiên dạng bài tập   này trong SGK rất ít. Nó tập trung ở cuối chương trình học kì 1. Giúp học sinh   biết cách sử dụng biện pháp tu từ so sánh. Dạng bài này có 2 kiểu bài tập nhỏ  đó là tập nhận biết tác dụng của biện pháp tu từ  so sánh và tập đặt câu có  dùng biện pháp so sánh. * Bài tập nhận biết tác dụng của phép tu từ so sánh Để nhận biết được tác dụng của phép so sánh, bài tập đã mở ra cho học   sinh một hướng tiếp nhận mới đó là tự  mình đưa ra những đánh giá, những   nhận xét của riêng mình dưới dạng như phát biểu cảm nghĩ. Chính vì mọi so 
  10. 10 sánh đều mang đậm dấu  ấn cá nhân của người so sánh nên mỗi học sinh sẽ  có một cách cảm thụ của riêng mình. Ví dụ: Đọc đoạn thơ sau: Đã có ai lắng nghe Tiếng mưa trong rừng cọ Như tiếng thác dội về Như ào ào trận gió Qua sự so sánh trên, em hình dung tiếng mưa trong rừng cọ ra sao?  (TV3, tập 1, trang 80) * Bài tập đặt câu có dùng phép tu từ so sánh Đây là yêu cầu cao nhất mà các em phải thực hiện khi học phép so  sánh. Với những kiến thức đã được học, cộng với sự  tri giác qua các bức   tranh học sinh sẽ  tìm được sự  giống nhau giữa các sự  vật trong tranh từ  đó  viết ra những câu có hình ảnh so sánh. Hoặc từ những cấu trúc cho trước, học  sinh sẽ tìm những từ phù hợp điền vào chỗ trống để hoàn chỉnh thành câu * Ví dụ 1: Bài tập 3, trang 126, SGK TV 3, tập 1.   Dựa vào bức tranh mặt trăng và quả  bóng, GV hướng dẫn HS : Chúng   ta sẽ  so sánh mặt trăng và quả  bóng, muốn so sánh chúng ta phải tìm điểm  giống nhau giữa mặt trăng và quả  bóng, HS đặt được câu “Trăng rằm tròn   xoe  như quả bóng”.  Từ đó gợi ý học sinh đặt được câu khác có hình ảnh so  sánh như: “Bé cười tươi như hoa”., “Đèn điện sáng như sao.” Ví dụ 2: Tìm những từ ngữ thích hợp với mỗi chỗ trống: a. Công cha nghĩa mẹ được so sánh như… , như…. b. Trời mưa, đường đất sét trơn như …. c.  Ở  thành phố có nhiều toà nhà cao như ….                                                                              (TV3, tập 1, trang 126) * Biện pháp 4: Sử  dụng linh hoạt, hiệu quả các phương tiện dạy học   hiện đại. Trong các bài tập của sách Tiếng Việt 3, các câu văn, câu thơ trích dẫn  hầu hết thuộc loại so sánh hình ảnh nhằm diễn tả một cách có hình ảnh đặc  điểm của sự vật, sự việc. Trong khi đó tư duy của trẻ tiểu học là tư duy trực   quan cụ thể. Có em chưa hề nhìn thấy cánh diều, có em sẽ  khó khăn khi liên  tưởng dấu hỏi với vành tai nhỏ  hoặc “những chùm dừa” với “đàn lợn con”   nằm quây quanh bụng mẹ. Bởi vậy trực quan tranh hoặc hình  ảnh động về  cánh diều, vành tai hay cây dừa sai quả….. sẽ góp phần đắc lực giúp các em  dễ  dàng nhận thấy các hình  ảnh so sánh đó thật chính xác, sinh động và gợi  
  11. 11 tả….do đó giáo viên cần sử  dụng linh hoạt và có hiệu quả  các phương tiện  dạy học hiện đại. + Mục tiêu: Tạo hứng thú học tập cho học sinh + Cách thực hiện: Khi dạy phép so sánh trong phân môn Luyện từ  và  câu lớp 3 để  giúp các em tìm được các hình  ảnh so sánh, tự  đặt câu có hình   ảnh so sánh và vận dụng vào viết văn, tôi đã sử  dụng các bài giảng điện tử  với các hình ảnh động, đoạn phim video giúp học sinh cảm nhận rõ sự giống   và khác nhau giữa các sự vật. Từ đó các em dễ dàng so sánh sự vật một cách   chính xác, chắc chắn giờ học sẽ hiệu quả hơn.  Bên cạnh đó tôi còn thường xuyên sử  dụng máy chiếu trong các tiết  dạy học Luyện từ và câu để đưa các ngữ liệu hướng dẫn học sinh làm bài và  chữa bài cho học sinh nằm giúp học sinh nắm bài chắc hơn và phát huy khả  năng sáng tạo của học sinh trong tìm từ, đặt câu.  VD: Bài 1, trang 24, sách Tiếng Việt 3, tập 1. Sau khi HS luyện tập tìm  được các hình ảnh so sánh trong khổ thơ sau: “Em yêu nhà em Hàng xoan trước ngõ Hoa xao xuyến nở Như mây từng chùm.” (Tô Hà)  GV cho các em bước đầu cảm nhận được trong mỗi hình ảnh so sánh   các sự vật đều có những nét tương đồng (đặc điểm giống nhau) bằng cách sử  dụng máy chiếu đưa hình  ảnh động hoặc tranh  ảnh hoa xoan, mây cho học   sinh quan sát. Trên thực tế có nhiều học sinh chưa được nhìn thấy hoa xoan.   Do vậy hình ảnh hoa xoan – mây sẽ giúp học sinh thấy được đặc điểm giống  nhau giữa hai sự vật và qua đó cảm nhận được cái hay, cái đẹp. Hoa xoan nhỏ  li ti, màu tím ngắt, nở thành chùm. Khi hoa xoan nở rộ gợi cho chúng ta cảm  giác chúng như những chùm mây tím xốp đang bồng bềnh trôi. * Biện pháp 5: Sử dụng trò chơi học tập. Đây là hình thức hấp dẫn nhất trong đối với học sinh. Thông qua hình  thức chơi mà học, học sinh sẽ  được hoạt động, tự  củng cố  kiến thức, gây   hứng thú học tập, góp phần làm cho tiết học sinh động. Yêu cầu khi xây dựng trò chơi học tập: * Về  mục đích: Trò chơi phải hướng vào việc củng cố  kiến thức về  phép tu từ so sánh, rèn luyện kĩ năng vận dụng phép so sánh trong giao tiếp. * Về  nội dung: Trò chơi phải chứa nội dung về  phép so sánh. Thực  chất, đây là những bài tập vui và nhẹ nhàng về phép so sánh.
  12. 12 * Hình thức chơi: Các trò chơi thường được tiến hành thi theo nhóm  hay cả lớp tuỳ vào nội dung trò chơi. Trò chơi có thể do giáo viên hướng dẫn  hoặc do học sinh tự tổ chức, góp phần rèn luyện tinh thần tập thể  và sự  hỗ  trợ lẫn nhau trong học tập. * Về cách chơi: Cách chơi đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện. Tuỳ  hoàn cảnh và điều kiện cụ  thể, giáo viên có thể  tổ  chức cho học   sinh thực hiện trò chơi đơn giản (không cần chuẩn bị  công phu) hay trò chơi   có phần phức tạp (phải chuẩn bị trước) song phải đạt đựoc cái đích cuối cùng  là củng cố kiến thức và tăng hứng thú học tập. Ví dụ:  Trò chơi Thử tài so sánh Trò chơi này được tiến hành sau khi học xong bài Luyện từ và câu tuần  15, (TV3, tập 1, trang 124) (Phần củng cố). * Mục đích: ­ Rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ bằng cách tạo nhanh các cụm từ có hình   ảnh so sánh đúng ­ Luyện phản  ứng nhanh, trau dồi trí tưởng tượng và khả  năng liên  tưởng. * Chuẩn bị:          ­ Làm các tấm bìa bắng giấy cứng (kích thước khoảng 3 x 4 cm) ghi 6 từ  sau: đọc, nói, trắng, đỏ, đẹp, nhanh đánh số thứ tự từ 1 đến 6 đính lên bảng. ­ Cử trọng tài theo dõi cuộc thi, có giấy bút để ghi lại kết quả. * Cách tiến hành: ­ Cho cả lớp tham gia, chia lớp làm hai đội, trọng tài cho bốc thăm xem  đội nào chơi trước. ­ Đội nào chọn thẻ số nào thì đội đó đọc thật nhanh cụm từ có hình ảnh  so sánh  có chứa từ  có trong tấm bìa. Nếu đọc đúng thì có quyền chỉ  định 1  bạn bất kì trong đội bạn tiếp tục cuộc chơi. ­ Mỗi trường hợp đúng được 5 điểm; sai hoặc không trả  lời được thì   không được điểm và bị mất lượt chơi… ­ Trọng tài cùng các bạn chứng kiến và xác nhận kết quả Đúng ­ Sai: ­ Dựa vào điểm số  của từng đội “Thử  tài so sánh’’ biểu dương đội   thắng cuộc. Ví dụ: * Đọc: đọc như cuốc kêu, đọc như cháo chảy, đọc như nói thầm... * Nói: Nói như vẹt, nói như khướu, nói như thánh tướng, …
  13. 13 * Trắng: trắng như vôi, trắng như tuyết, trắng như trứng gà bóc, trắng  như bột lọc,.. * Biện pháp 6 : Dạy biện pháp tu từ so sánh tích hợp vào các môn học.  ­ Tích hợp trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Khi dạy các phân môn của môn Tiếng Việt, giáo viên cần lồng ghép   giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt với nhau để các em có cơ hội được   thực hành, được sử dụng biện pháp tu từ so sánh một cách thường xuyên, liên  tục. Ví dụ: khi dạy bài Tập đọc “Hai bàn tay em” (Trang 7, SGK Tiếng Việt   3, tập 1), trong bài này có rất nhiều hình ảnh tu từ so sánh, giáo viên cần nhấn   mạnh để gây hứng thú cho tiết tiếp theo của phân môn Luyện từ và câu. Hay khi dạy Tập đọc bài Cửa Tùng, sau khi học sinh đã trả  lời được   câu hỏi 4 trong bài “Người xưa đã ví bờ biển Của Tùng với cái gì?”  giáo viên  có thể  yêu cầu học sinh nhắc lại và tìm thêm các câu văn có sử  dụng biện   pháp tu từ so sánh ở trong bài. Học sinh sẽ tìm được các câu văn: Mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển. Người xưa đã ví bờ biển Của Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi  cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển. Trên cơ  sở  hình  ảnh so sánh học sinh đã tìm được, giáo viên cho học  sinh nêu các sự vật được so sánh với nhau, từ so sánh. Từ đó học sinh củng cố  về biện pháp so sánh. ­ Tích hợp dạy biện pháp tu từ so sánh trong môn Đạo đức. Khi dạy bài Quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em , giáo viên  có thể cho học sinh tìm các câu ca dao, tục ngữ nói về tình cảm gia đình, trong   đó có sử dụng biện pháp so sánh. ­ Anh em như thể chân tay Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần. ­ Con hơn cha là nhà có phúc. ­ Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. * Biện pháp 7: Coi trọng việc kiểm tra, đánh giá động viên học sinh. + Cách thực hiện: Đánh giá học sinh toàn diện, khách quan. Khi dạy các bài về biện pháp tu từ so sánh việc kiểm tra đánh giá phải   tiến hành thường xuyên cụ thể đối với từng HS bằng nhiều hình thức: ­ Kiểm tra trực tiếp trên lớp. Với bài luyện tập, giáo viên có thể nêu câu  hỏi để  học sinh trình bày về  những kiến thức, kỹ  năng đã học (kiểm tra  miệng). Giáo viên có biện pháp kiểm tra học sinh bằng cách quan sát trong  quá trình HS làm bài để kịp thời sửa sai cho học sinh. ­ Kiểm tra qua việc chấm bài trong vở  của học sinh. Sau khi học sinh  làm xong mỗi bài tập hoặc cuối mỗi tiết học giáo viên thu vở một số học sinh 
  14. 14 trong lớp để  chấm bài (đảm bảo mỗi tiết có khoảng 1/3 số  học sinh được   chấm vở  bằng nhận xét). Nhận xét sửa lỗi cụ  thể  cho học sinh, hướng dẫn   trực tiếp với học sinh làm bài chưa đúng mà giáo viên phát hiện ra khi chấm   bài trong tiết hướng dẫn học. 7.2. Khả năng áp dụng áp dụng của sáng kiến. Trước khi nghiên cứu sáng kiến này, tôi chỉ mong muốn làm thế nào để  học sinh nhận biết và vận dụng tốt biện pháp tu từ  so sánh trong phân môn  luyện từ  và câu nói riêng và chất lượng học môn Tiếng Việt nói chung của  học sinh lớp tôi được nâng lên. Nhưng sau một học kì nghiên cứu, thử nghiệm   trong lớp mình đang giảng dạy tôi thấy sáng kiến đã mang lại hiệu quả thiết   thực. Đến nay, tôi có thể  khẳng định sáng kiến không chỉ  áp dụng cho học   sinh tôi mà còn có thể  vận dụng cho cả  các khối lớp 3 trong việc dạy nội   dung so sánh trong phân môn Luyện từ  và câu. Tôi thiết nghĩ, mỗi giáo viên   nếu thực hiện đúng theo các giải pháp nêu trong sáng kiến sẽ góp phần nâng  cao chất lượng dạy học biện pháp tu từ so sánh trong phân môn Luyện từ và  câu cũng như chất lượng môn Tiếng Việt lớp 3. 8.  Các thông tin cần bảo mật (nếu có): Không. 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến. Để đạt được kết quả như  mong muốn tôi xin mạnh dạn đưa ra một số  kiến nghị như sau: ­ Trong quá trình giảng dạy, đặc biệt với phân môn Luyện từ  và câu,   giáo viên cần kiên trì nhẫn nại, tìm ra nhiều những biện pháp hỗ  trợ, động   viên, khen ngợi, khích lệ học sinh kịp thời. ­ Không chỉ  riêng tôi mà tất cả  giáo viên phải nâng cao tinh thần trách  nhiệm, nhiệt tình trong công tác giảng dạy, luôn gần gũi, phát huy tính tích  cực, chủ động sáng tạo của học sinh. ­ Trang bị thêm một số tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh. ­ Tổ  chức một số  chuyên đề  "Đổi mới phương pháp dạy học" để  giáo  viên chúng tôi có dịp được học hỏi kinh nghiệm áp dụng các phương pháp và   kĩ thuật dạy học tốt từ các giáo viên có nhiều kinh nghiệm. 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự  kiến có thể  thu được do áp  dụng sáng kiến. 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp   dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả. Sáng kiến nêu trên tôi đã triển khai với giáo viên cùng tổ, khối trong giờ  sinh hoạt chuyên môn. Đồng thời, tôi thực hiện vận dụng trong quá trình  giảng dạy tại lớp, qua tiết hội giảng, qua các tiết chuyên đề  của khối và  được hội đồng sư phạm nhà trường đánh giá cao. Đặc biệt, vào cuối học kì I 
  15. 15 năm học 2020 ­ 2021, học sinh lớp tôi chủ  nhiệm đã tăng số  lượng học sinh   ham thích với môn Tiếng Việt rõ rệt so với đầu năm học, chất lượng bài   kiểm tra qua mỗi đợt của các em cũng cao hơn. Chất lượng học tập của học sinh trước khi áp dụng và sau khi áp dụng   vận dụng “Một số  biện pháp giúp học sinh học tốt phép tu từ So sánh trong  phân môn Luyện từ và câu lớp 3” như sau: Số  Số  Số  học  học  học  sinh  sinh  sinh  nói  biết  còn  được  trả  lúng  câu  lời  túng  Ghi chú TS % TS có  các  khi  hình  câu  trả  ảnh  hỏi  lời so  trong  sánh bài TS % TS % TS % Trước   khi   áp  8  20,5 23 59 8 20,5 dụng 3B 39 Sau   khi   áp  dụng   (Cuối   20 51,3 18 46,1 1 2,6 học kì I) Các biện pháp của tôi có thể thực hiện và áp dụng không chỉ với các em   học sinh lớp 3B mà còn có thể  áp dụng với tất cả  học sinh khối 3, giúp các  em phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập. Qua việc thực hiện ý tưởng nêu trên và vận dụng các phương pháp và kĩ   thuật trong dạy học, học sinh được trải nghiệm, hợp tác, trao đổi với bạn.   Kết quả cho thấy học sinh ham học và có hứng thú, tiến bộ hơn trong giờ học  Luyện từ và câu. Đặc biệt học sinh đã bước đầu biết sử dụng biện pháp tu từ  so sánh khi viết các đoạn văn trong phân môn tập làm văn. Bên cạnh đó giáo   viên cũng quan tâm và chú ý hơn tới cách sử dụng các biện pháp giúp học sinh  học tốt phép tu từ So sánh nói riêng và phân môn Luyện từ vào câu nói chung. 10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp  dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
  16. 16 Sáng kiến trên của tôi đã được các đồng nghiệp và tổ chuyên môn cùng  với nhà trường đánh giá là rất khả  quan bởi từ  khi áp dụng chất lượng học   tập môn Tiếng Việt của các em học sinh lớp 3 đã có sự  thay đổi rõ rệt. Học   sinh năng động, sáng tạo, tự tin không chỉ trong việc học môn Tiếng Việt mà  trong tất cả các môn học khác cũng như trong giao tiếp. 11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân tham gia áp dụng sáng kiến. Phạm   vi/   lĩnh  Tên tổ chức/ cá nhân       Địa chỉ vực   áp   dụng  sáng kiến 1 Lớp 3B Trường   Tiểu   học   Kim  Phân   môn  Long B Luyện từ và câu  lớp 3. Kim Long, ngày …..tháng 3 năm 2021 Kim Long, ngày 19 tháng 2 năm 2021 Thủ trưởng đơn vị Tác giả sáng kiến Nguyễn Thị Lệ Hương Trần Thị Thúy
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2