intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:17

12
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm "Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả" nghiên cứu cơ sở lý luận về phương pháp dạy học để giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả; phân tích đánh giá và làm rõ nguyên nhân khó khăn và tồn tại trong văn miêu tả; điều tra thực trạng giảng dạy giáo viên trường tiểu học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Một số biện pháp giúp học sinh lớp Bốn học tốt văn miêu tả” A. PHẦN THỨ NHẤT I.Lý do chọn đề tài: Như chúng ta đã biết, Tiếng việt có vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống mỗi con người Việt Nam. Đặc biệt đối với trẻ em, Tiếng việt có vai trò càng quan trọng. Ngay từ lúc mới lọt lòng, trẻ được giao tiếp hằng ngày, hằng giờ với Tiếng việt và khi cất tiếng nói đầu tiên, trẻ cũng nói lên tiếng nói của người Việt. Do đó, trẻ em cần học Tiếng việt một cách khoa học và cẩn thận để có thể sử dụng suốt năm tháng học tập ở nhà trường cũng như trong suốt cuộc đời. Tiếng Việt là một môn học quan trọng của trường tiểu học. Trong đó phân môn Tập làm văn chiếm vị trí quan trọng không nhỏ. Bởi vì dạy tập làm văn là dạy cho các em hình thành kỹ năng nói, viết, được xây dựng trên những thành tựu của nhiều môn học khác như tập đọc, từ ngữ, ngữ pháp, kể chuyện … tập làm văn còn góp phần bổ sung kiến thức đòi hỏi huy động kiến thức nhiều mặt từ hiểu biết cuộc sống, rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách học sinh. Chương trình tập làm văn tiểu học bao gồm các thể loại như miêu tả, tường thuật, kể chuyện, viết thư, đơn… trong đó kiểu bài miêu tả được học và chiếm thời gian nhiều nhất. Tuy nhiên để giúp học sinh học tốt văn miêu tả điều quan trọng là làm thế nào giúp cho học sinh quan sát để tìm ý cho bài văn, biết lựa chọn các từ ngữ miêu tả cho sinh động, hấp dẫn. Không phải đưa ra các lời nhận xét chung mà phải tả các sự vật, hiện tượng bằng từ ngữ sinh động, gợi cảm. Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy phần đông học sinh lớp tôi làm văn miêu tả gặp những khó khăn về tri thức, hiểu biết, về đối tượng miêu tả, các em sẽ không biết miêu tả nếu như chưa được quan sát; vốn hiểu biết từ ngữ chưa sâu, thấy đâu tả đó, chưa biết bộc lộ cảm xúc trong bài văn miêu tả của mình. Chưa biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong văn miêu tả để bài văn thêm phần hấp dẫn. Nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói chung, dạy học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả nói riêng, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp Bốn học tốt văn miêu tả”. II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU. Trang 1
  2. 1.Mục đích. Nghiên cứu đề tài, tôi không có nhiều tham vọng mà chỉ nhằm mục đích góp một phần công sức của mình vào công tác giáo dục của nhà trường. Với việc nghiên cứu đề tài, tôi mong muốn sẽ có được bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực tiễn giảng dạy môn Tập làm văn trong trường Tiểu học nói riêng, ngành giáo dục nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu đề tài thành công sẽ đồng thời là chất lượng học tập của các em học sinh lớp Bốn nói riêng và tiểu học nói chung được nâng lên. Chỉ tiêu: Cuối năm học, 95% học sinh có thể làm được bài văn miêu tả theo yêu cầu. Trên cơ sở các kiến thức, kĩ năng về văn miêu tả đã được học, học sinh có thể vận dụng học tiếp lên lớp trên. 2. Nhiệm vụ. - Nghiên cứu cơ sở lý luận về phương pháp dạy học để giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả. - Phân tích đánh giá và làm rõ nguyên nhân khó khăn và tồn tại trong văn miêu tả - Điều tra thực trạng giảng dạy giáo viên trường tiểu học. - Đề xuất một số ý kiến để giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả. 3.Phạm vi nghiên cứu *Về nội dung: Nhằm đi sâu vào một vấn đề và chỉ dừng ở mức độ sáng kiến kinh nghiệm nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu việc dạy học kiểu bài miêu tả cho học sinh lớp Bốn. Với phạm vi nghiên cứu hẹp như vậy, tôi hi vọng sẽ thu được nhiều kết quả khả quan, góp phần thực hiện nhiệm vụ giáo dục của một nhà giáo trong giai đoạn mới. *Về đối tượng : Học sinh lớp 4 trong trường Tiểu học tôi được phân công giảng dạy trong năm học 2017 - 2018 này. Trong quá trình áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, tôi có chú ý phân loại đối tượng học sinh theo trình độ và đối tượng học sinh: Giỏi, Khá, Trung bình B.PHẦN THỨ HAI: NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở khoa học 1. Cơ sở lí luận Trang 2
  3. -Thế giới phong phú không chỉ bởi tự bản thân nó, mà còn bởi những cách nhìn nhận và tái hiện của mỗi con người…Hiểu biết, nhận xét và cảm thụ sâu sắc về thực tế cuộc sống. Đây chính là điều kiện quan trọng để học tập làm văn. - Các em khám phá thế giới xung quanh bằng con mắt bỡ ngỡ, kì thú, trong sang, trìu mến và đầy cảm xúc. Những bức tranh miêu tả thiên nhiên và con người của các em thường êm dịu, hài hòa, sâu lắng và thơ mộng. Các em hết sức mẫn cảm với cái đẹp tinh tế và tâm hồn luôn luôn rộng mở. - Thể hiện qua văn miêu tả của trẻ em là những góc nhìn và cảm nhận lung linh biến hóa không dứt. Đọc văn miêu tả của các em ta có cảm giác rất thú vị. Ở đó ta sẽ gặp những bất ngờ ngay trong những gì ta tưởng như đã quá quen thuộc. - Quan sát cảm nhận thế giới xung quanh rồi dùng phương tiện ngôn ngữ nói, viết để tái hiện lại cả một quá trình tư duy. Với tư cách nhìn riêng, sự lựa chọn riêng và một bản sắc cảm xúc riêng. Mỗi bài văn miêu tả phần nào có thể xem đó là sang tác thể hiện trí thông minh, khả năng cảm thụ cái đẹp và nhu cầu tạo ra cái đẹp trong bản thân mỗi học sinh. 2. Cơ sở thực tiễn * Giáo viên: - Hiện nay chương trình của Bộ GD đang áp dụng kĩ năng vào dạy học , hay dạy học theo hướng tích cực để học sinh được hoạt động nhiều hơn, học sinh được giao tiếp nhiều hơn trong quá trình học tập. Chính vì vậy người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp. Đổi mới việc dạy học trong việc thừa kế cái cũ, cái vốn có đòi hỏi phải là một sự sang tạo. Với các phân môn khác của Tiếng Việt trong việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học chỉ rõ quy trình các bước lên lớp rất cụ thể rõ ràng. Còn phân môn Tập làm văn các nhà nghiên cứu chỉ đưa ra quy trình chung nhất cho mỗi loại bài, chủ yếu là sáng tạo của giáo viên khi lên lớp. * Học sinh: - Ngoài SGK Tiếng việt thì hiện nay có rất nhiều sách tham khảo cho học sinh, giúp học sinh có cái nhìn đa dạng, phong phú hơn. Song những cuốn sách tham khảo của phân môn Tập làm văn lại thường đưa ra các bài văn hoàn chỉnh nên khi làm văn các em thường dựa dẫm, ỉ lại vào bài mẫu, có khi sao chép y nguyên bài văn mẫu vào bài làm của mình. Cách nghĩ của các em không phong phú mà còn đi theo lối mòn khuôn sáo, tẻ nhạt. II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN Trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tảû”. Tôi đã cho học sinh khảo sát và thấy kết quả như sau: Trang 3
  4. Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Môn Sí số SL % SL % SL % Tập làm 39 13 33,5 16 41 10 25,5 văn Từ bảng số liệu trên cho thấy: Học sinh làm văn miêu tả chưa tốt. Qua tìm hiểu thực tế ở lớp, gia đình và đồng nghiệp. Tôi nhận thấy nguyên nhân của tình hình nêu trên là do: * Nguyên nhân chủ quan: - Giáo viên còn ngại khi phải dạy phân môn Tập làm văn nên khi dạy còn nhiều lúng túng về phương pháp và nội dung. Điều này được thể hiện rõ qua những tiết thao giảng, dự giờ chéo phân môn Tập làm văn ở trường. - Phương pháp dạy của giáo viên còn rập khuôn thiếu sự dẫn dắt gợi mở cho học sinh tìm ra những từ, ý hay khi miêu tả. - Giáo viên ít quan tâm đến việc hướng dẫn các em phải tả như thế nào để bôïc lộ được nét riêng biệt của đối tượng mình đang tả để thoát khỏi việc tả một cách khuôn sáo. - Giáo viên thường hay thiếu tranh ảnh, vật thật để hổ trợ cho các em miêu tả. - Việc chấm và sửa bài còn chung chung, chưa sửa ý hay nhằm phát huy cho học sinh khi học Tập làm văn. - Thiếu sự kết hợp, liên hệ giữa tiết dạy phân môn Tập làm văn với các môn học khác. * Nguyên nhân khách quan: - Khả năng quan sát miêu tả còn sơ sài, học sinh chưa biết sử dụng các giác quan để quan sát, quan sát chưa theo một trình tự, thấy đâu tả đó. - Học sinh dùng từ đặt câu chưa hay, chưa biết lựa chọn từ ngữ thích hợp. - Vốn từ ngữ còn quá nghèo nàn, dùng từ địa phương, diễn đạt chưa hay như nói chuyện bình thường. - Dùng văn mẫu một cách chưa sáng tạo (do sách tham khảo bán tràn lan trên thị trường) các em rập khuôn theo mà chưa biết sáng tạo chọn lọc thành cái riêng của mình. - Một số học sinh trung bình, yếu viết câu chưa thành thạo nên diễn đạt chưa mạch lạc các ý trong bài văn còn nhiều hạn chế. Từ thực tế nêu trên, để giúp học sinh học thể loại văn miêu tả đạt hiệu quả cao. Tôi đã tiến hành thực hiện các biện pháp sau: II. 1: Biện pháp tổng thể 1. Hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý. Trang 4
  5. 2.Tạo điều kiện cho sinh tích luỹ vốn từ ngữ và lựa chọn vốn từ ngữ miêu tả qua các bài tập đọc, từ ngữ … 3. Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong miêu tả. 4. Bôïc lộ cảm xúc trong bài văn miêu tả. *Đặc điểm tình hình trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Thuận lợi: a. Giáo viên - Đội ngũ giáo viên đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm qua nhiều năm thực hiện đổi mới chương trình và thay sách giáo khoa. b. Học sinh -Đa số học sinh được gia đình quan tâm, đầu tư đầy đủ sách vở, dụng cụ học tập. Những tồn tại: a. Giáo viên: + Việc vận dụng quan điểm dạy học tích hợp trong dạy học chưa được giáo viên vận dụng triệt để nên lượng kiến thức, kĩ năng cung cấp cho học sinh trong một tiết Tập làm văn thường rất lớn, nhiều lúc dẫn đến tình trạng quá tải trong tiết học. + Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng đôi khi cũng ngại không dám thoát li các gợi ý của sách giáo khoa, sách hướng dẫn vì sợ sai. b. Học sinh: - Học sinh chưa vận dụng được các kiến thức, kĩ năng đã học trong các phân môn của Tiếng Việt, của các môn học khác, của các lớp dưới vào học tập môn tập làm văn. Chẳng hạn khi dạy cho học sinh cấu tạo một bài văn tả cảnh, giáo viên phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản mẫu để rút ra nhận xét. Trong khi đó, nếu dựa trên kiến thức đã học về văn miêu tả ở lớp Bốn để hình thành cho học sinh cấu tạo bài văn tả cảnh ở lớp Năm rõ ràng là nhanh hơn. - Học sinh của nhà trường đa số là học sinh nghèo. Với đối tượng này, việc học tập của các em gặp một số khó khăn sau: + Vốn tiếng Việt của các em rất hạn chế. Trong khi đó, việc học kiểu bài miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp Bốn lại yêu cầu sử dụng vốn từ ngữ, năng lực tư duy rất lớn. + Vốn từ của học sinh chưa phong phú, các em chưa hiểu hết nghĩa của từ nên việc vận dụng vào bài làm còn nhiều sai sót. + Chương trình tiếng Việt mới có rất nhiều ưu điểm trong việc phát huy sáng tạo của học sinh nhưng lại tương đối nặng đối với đối tượng học sinh Tiểu học. Trang 5
  6. + Đôi lúc, do nhiều nguyên nhân, một số giáo viên vẫn lạm dụng phương pháp làm mẫu đối với học sinh dẫn đến tình trạng học sinh nhìn nhau, học thuộc bài văn mẫu. + Thời gian quy định đối với một tiết học cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc dạy Tập làm văn trong nhà trường Tiểu học. + Trong các lớp vẫn còn rải rác một số học sinh học yếu, cá biệt có học sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo. Đây là một trở ngại lớn cho việc dạy học tập làm văn cho học sinh. Với số học sinh này, yêu cầu đặt từng câu văn rời rạc còn khó, nói gì đến việc hướng dẫn các em đặt một đoạn văn theo yêu cầu. + Hầu hết học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn, các em phải phụ giúp với gia đình trong công việc đồng áng. Việc bảo đảm chuyên cần cho học sinh nghèo rất khó. Các em rất hay nghỉ học vì nhiều lí do như ở nhà giúp gia đình, trông em, hoặc nhiều khi chỉ vì “không muốn đến lớp”. Đi học không đều, việc tiếp thu bài của các em chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều. + Kĩ năng làm văn miêu tả của học sinh hầu như không có. Các em chưa biết cách quan sát, thực hiện làm một bài văn miêu tả chưa đúng quy trình, chưa biết cách chọn lọc các chi tiết miêu tả đặc sắc để đưa vào bài văn mà hầu như bê nguyên si cả những điều đã biết vào bài văn, tạo cho bài văn thành một mớ hỗn độn của các chi tiết hoặc thành một bản liệt kê khoa học… + Do trong lớp có nhiều đối tượng học sinh nên giáo viên thường sử dụng phương pháp làm mẫu để giúp học sinh làm văn. Phương pháp này giúp học sinh yếu có thể làm được bài bằng những gợi ý. Tuy nhiên, một số học sinh học được lại thường hay bắt chước các câu, đoạn văn mẫu nên nhiều bài làm có các câu, đoạn giống nhau. + Có sự chênh lệch rất lớn về trình độ của học sinh khá, giỏi và học sinh yếu nên người giáo viên rất khó sử dụng các phương pháp để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục. Nếu chú ý đến số học sinh học trung bình và khá giỏi thì sẽ bỏ qua số học sinh yếu. Nhưng nếu tập trung đến số học sinh yếu, kiên trì giúp số học sinh này có được bài văn thì lại ảnh hưởng đến sự phát triển của số học sinh khá, giỏi. + Học văn miêu tả, làm văn miêu tả nhưng nhiều học sinh lại thiếu vốn sống thực tế nên dẫn đến hai tình huống hay gặp trong dạy học tập làm văn miêu tả. Đó là: Học sinh không biết làm bài, bỏ giấy trắng. Học sinh sử dụng các gợi ý của giáo viên, các đoạn văn mẫu để viết (theo kiểu kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc). Sản phẩm của các em không nói chắc chúng Trang 6
  7. ta cũng có thể hình dung đó là những đoạn văn, bài văn khô cứng, không cảm xúc, nếu không nói là vô vị. + Một khó khăn nữa là nhiều học sinh viết chữ chưa đẹp, nếu không nói là rất xấu, sai chính tả. Nhiều bài văn có chữ viết lem nhem, đầy vết bẩn. Có bài viết, số chữ sai chính tả nhiều hơn số chữ viết đúng. Với một bài văn đầy lỗi chính tả, tẩy xóa thì việc đọc lại bài, trau chuốt câu văn, sửa ý, sửa từ quả là rất khó. c. Cha mẹ học sinh: + Cha mẹ các em hầu như không quan tâm đến các em do phải vất vả mưu sinh, do nhận thức chưa đúng về giáo dục, do trình độ không có. II.2 .Biện pháp cụ thể II. 2. 1:Quan sát tìm ý: a/ Sử dụng các giác quan để quan sát: Dạy học sinh quan sát chính là dạy sử dụng các giác quan để tìm ra các đặc điểm của sự vật. Thường học sinh chỉ dùng mắt để quan sát, tôi hướng dẫn các em tập sử dụng thêm các giác quan khác để quan sát. Ví dụ: Dạy “quan sát một cây hoa” – ngoài mắt – ta còn sử dụng cả mũi để phát hiện ra mùi thơm của hoa. Quan sát cái cặp “tôi yêu cầu học sinh dùng tay sờ vào cặp để phát hiện ra độ sần sùi hay nhẵn bóng của da cặp, bật khoá chiếc cặp để nghe tiếng kêu của chiếc khoá (bằng tai). b/ Hướng dẫn học sinh thu nhận các nhận xét do quan sát mang lại: Khi trình bày kết quả quan sát, tôi yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi bằng nhiều chi tiết cụ thể và sử dụng ngôn ngữ chính xác gợi hình ảnh. Ví dụ: Tả con đường từ nhà đến trường. Tôi hỏi: Hai bên đường có gì? – Học sinh: Hai bên đường có cây cối. Đây là sự quan sát hời hợt, sơ sài. Tôi lại hỏi: Em hãy quan sát cảnh vật hai bên đường? Câu trả lời có chi tiết hơn nhưng chưa hay, chua cụ thể. Hai bên đường có nhiều cây cối, mấy chú chim kêu ríu rít trên cành. Tôi gợi ý học sinh trả lời cụ thể và chi tiết hơn: “Hai bên đường cây cối xanh tươi, chúng nghiêng mình như cùng em tiếp bước. Mấy chú chim đậu trên cành hót ríu rít nghe vui tai làm sao!” Đồng thời,tôi cũng không quên rèn sự tinh tế khi quan sát. Đó là nhận ra đặc điểm ít người nhìn thấy. Tôi minh họa bằng những đoạn văn hay vào tiết lập dàn ý hoặc trả bài viết. Ví dụ: Nằm trong nhà , nghe tiếng lá rơi ngoài thềm, Trần Đăng Khoa mới mười tuổi đã phát hiện “Tiếng rơi rất khẽ như là rơi êm”. Trang 7
  8. Nhìn bà nội – Em Thiên Trúc (Bình Chánh – TP Hồ Chí Minh) nhận ra “Năm qua đi, tháng qua đi, tôi càng cao thẳng, bà tôi càng thấp lại”. Còn em Phương Anh (Hà Nội) thì nhận xét: “Hai má bà lại hóp, thái dương hơi nhô, tay chân có chổ bắt đầu xương xẩu, nổi gân xanh…” (trích “những bài văn chọn lọc”) c/ Quan sát trong văn miêu tả tôi luôn hướng cho học sinh tìm ra những đặc điểm riêng biệt của đồ vật, cây cối, loài vật … và bỏ qua đặc điểm chung: Ví dụ như nhận xét con gà trống ở nhà em phải cố tìm ra mào của nó, lông của nó, thân hình nó … có gì khác với con gà ở hàng xóm? Dạy “Quan sát cây bút chì” không phải cho các em thấy được màu sắc, hình dáng của nó mà còn nhận ra những dòng chữ in trên vỏ và các đặc điểm khác như có bị dính mực không? Có bị trầy không? Bị sứt không? … những đặc điểm ấy chỉ riêng cây bút chì của em mới có. Quan sát trong văn miêu tả là làm cho học sinh cần phải nhận ra đặc điểm riêng biệt. Và đây là một điều hết sức quan trọng và tôi luôn luôn rèn luyện cho học sinh và giáo dục cho học sinh. Bởi đây là một điều bức xúc, học sinh có thói quen làm văn rập khuôn theo mẫu. Nếu như “tả con gà, tả cái cặp” … thì tất cả ba mươi bảy học sinh lớp tôi đều có bài làm gần giống nhau. Vì thế, khi dạy văn miêu tả, tôi luôn nhắc nhở gợi ý học sinh tìm ra những nét riêng biệt, những tình cảm riêng biệt đối với đối tượng được tả. Có thể những đặc điểm riêng đó đối với người khác là bình thường nhưng đối với riêng em là đặc biệt vì nó gắn bó với em bằng một kỷ niệm, một sự kiện hoặc một niềm vui, nỗi buồn… nào đó. d/ Phân chia đối tượng để quan sát: Để quan sát một cây bàng, một cây đang ra hoa hay một con gà, một bức tranh … thì tôi hướng dẫn cho học sinh cần phải phân chia các đối tượng đó thành từng bộ phận rồi lần lượt quan sát các đối tượng đó. Thông thường, có các sự phân chia đối với tả cảnh như phía trên, phía dưới,nửa phải nửa trái, phần trung tâm, bên trong, bên ngoài…. Tôi thường lấy những đoạn văn miêu tả trong các bài tập đọc để minh hoạ cho học sinh tham khảo . Ví dụ: Quan sát một thị trấn ven biển. Tác giả viết “Bên trong là vách đá dựng đứng, cao sừng sững. Bên ngoài là biển rộng mênh mông tạo thành một góc vuông vức …”(Thị trấn Cát Bà - Tập đọc lớp 4 tập 1) Còn Nguyễn Thái Vận thì tả rừng cọ quê mình: “Thân cọ vút thẳng trời hai, ba chục mét cao, gió bảo không thể quật ngã. Búp cọ vuốt dài như thanh kiếm sắc vung lên. Cây non vừa trồi lá đã xoà sát mặt đất. Lá cọ tròn xoè ra nhiều phiến nhọn dài …”(Rừng cọ quê tôi - Tập đọc lớp 4 tập 1). Trang 8
  9. e/ Lựa chọn trình tự quan sát : - Tôi hướng dẫn học sinh lựa chọn trình tự quan sát thích hợp. Tôi đưa ra cho học sinh lựa chọn một số trình tự quan sát chung nhất. - Trình tự không gian: Là quan sát từng bộ phận đến toàn bộ, quan sát từ trái sang phải, từ trên xuống dưới… hoặc ngược lại. Ví dụ: Ngồi trên máy bay nhìn xuống Trần Lê Văn đã quan sát toàn cảnh Hà Nội: “Nhỏ xinh như mô hình triển lãm” rồi lại quan sát: “Những ô ruộng, những gò đống, bãi bờ…” rồi đến: “Núi Thầy, Núi Ba Vì, Sông Đà, dãy Núi Hoà Bình…” (Đi máy bay Hà Nội – Điện Biên – Tập đọc lớp 4 tập 1). Đề bài: “Tả cái cặp”. Tôi luôn hướng dẫn học sinh quan sát đặc điểm chung của cái cặp rồi quan sát các bộ phận từ ngoài vào trong, cái cặp có hình gì? Màu gì? Có mấy ngăn? Mỗi ngăn dùng để làm gì?… - Trình tự thời gian: Quan sát cảnh vật, cây cối…. Theo mùa trong năm. Quan sát sinh hoạt con gà, con lợn…. theo thời gian trong ngày: sáng, trưa, chiều. Ví dụ 1: Quan sát mặt nước biển trong ngày. Nhà văn Thuỵ Chương viết: “Bình minh, mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển có màu hồng nhạt. Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều tà thị biển đổi sang màu xanh lục” (Cửa Tùng – Tập đọc lớp 4 tập 1). Ví dụ 2: “Tả cây bàng” Trần Nguyên Đào viết: “Trước ngõ nhà Long có cây bàng, cây bàng cao, ngọn chấm mái nhà, tán xoà như chiếc ô. Mùa hè, Long thích ngồi học dưới bóng rợp của chiếc ô xanh ấy. Mùa thu, thỉnh thoảng một cơn gió lướt qua làm vài chiếc lá bàng rụng xuống. Long thường nhặt những chiếc lá vàng xuộm làm quạt phe phẩy hay kết thành chiếc mũ đội đầu. Sang mùa đông, trời càng lạnh, lá bàng càng rụng nhiều cho người đem về đốt sưởi…”. * Nhưng dù quan sát ở trình tự nào đi nữa tôi luôn nhắc cho học sinh tập trung vào từng bộ phận chủ yếu và trọng tâm. f/ Sử dụng tranh, ảnh trong văn miêu tả: Đối với thể loại văn miêu tả, đồ dùng dạy học chủ yếu cho học sinh quan sát, nghiên cứu trong giờ học là mẫu vật thật như cái cặp, quyển sách, cây hoa, con lợn…. Tuy nhiên, nhiều đối tượng cần miêu tả không thể cho học sinh quan sát trực tiếp tại lớp, mà cho học sinh phải tự quan sát tại gia đình, ngoài xã hội (con lợn, cây chuối đang có buồng, con đường làng, vườn rau…). Song, đối tượng qua sát ngoài xã hội không có hình ảnh cho học sinh quan sát tại lớp thì giáo viên cũng gặp phải những khó khăn nhất định. Vì vậy, khi hướng dẫn tại lớp, tôi thường căn cứ vào những đặc điểm chung của đối tượng mà gợi mở, dẫn dắt học sinh. Nhưng để gợi mở dẫn dắt có hiệu quả thì Trang 9
  10. phải sử dụng tranh, ảnh giúp học sinh nhớ lại những điều quan sát từ trước (gia đình, xã hội). Đó chính là cơ sở để cho các em suy nghĩ, phân tích, tổng hợp lại… các đặc điểm của sự vật và rèn luyện làm bài tập làm văn. Việc sử dụng tranh, ảnh cho giờ tập làm văn cũng hết sức công phu. Tranh, ảnh phải đảm bảo các vật thể mà học sinh đã quan sát tại gia đình, ngoài xã hội. Có như vậy, việc sử dụng tranh, ảnh mới đem lại hiệu quả. Ví dụ 1: Để minh hoạ cho bài văn “tả con mèo” tôi cần phải sưu tầm được hình ảnh nhiều loại mèo khác nhau để giới thiệu cho học sinh: mèo mướp, mèo tam thể, mèo đen, mèo vàng… và những hình ảnh hoạt động khác nhau như: mèo đang rình chuột, mèo đang vồ mồi, mèo mẹ đang đùa với mèo con… Ví dụ 2: Dạy bài: “Tả con đường quen thuộc từ nhà đến trường” thì tôi cũng cần có nhiều hình ảnh về: con đường làng quanh co khúc khuyủ, con đường có nhiều chiếc cầu nhỏ, đường đá đỏ hai bên toàn là tràm, chuối …. Đặc biệt, chú trọng nhiều tranh ảnh về con đường gần gũi với thực tế địa phương. Có như vậy, từ những điều mà tôi dẫn dắt học sinh quan sát ở lớp, đối chiếu với điều mà các em quan sát tại nhà, ngoài xã hội, các em cân nhắc lựa chọn tình tiết diễn đạt thành bài văn. II. 2.2: Tích luỹ vốn từ ngữ và lựa chọn vốn từ ngữ: Giúp học sinh tích luỹ vốn từ ngữ và lựa chọn vốn từ ngữ có ý nghĩa quan trọng đến với việc làm vân miêu tả. Do đó, đây là vốn đề tôi quan tâm nhất đối với học sinh. a/ Tạo điều kiện để học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả: - Biện pháp đầu tiên là giúp học sinh tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả qua các bài tập đọc là các bài văn hay của các nhà văn như: “Chim rừng Tây Nguyên – Thiên Lương; rừng Phương Nam – Đoàn Giỏi; Những cánh bướm bên bờ sông – Vũ Tú Nam…”. Số lượng từ ngữ trong bài rất phong phú, cách sử dụng chúng rất sáng tạo. Dạy các bài tập đọc đó, tôi thường chỉ ra các từ ngữ miêu tả, chọn một, hai trường hợp đặc sắc nhất để phân tích cái hay, sự sáng tạo của nhà văn khi dùng chúng. Có như vậy mới giúp học sinh nhớ được một từ ngữ, một hình ảnh, thậm chí cả câu văn hay sau mỗi bài tập đọc. Ví dụ: Dạy bài: “Những chú gà xóm tôi” tôi đi sâu phân tích cách dùng từ ngữ của tác giả để tả về con gà anh Bốn Linh, gà ông bảy Hoá, gà bà Kiên. Mỗi con đều có đặc điểm riêng. Dạy bài: “Những cánh bướm bên bờ sông” thì tôi đi sâu phân tích cách dùng từ ngữ để tả hình dáng, màu sắc khác nhau của các loài bướm. Mỗi con có đặc điểm riêng: con xanh biếc, con vàng sẫm, bướm quạ to bằng hai bàn tay người lớn, bướm trắng bay theo đàn líu ríu như hoa nắng… Trang 10
  11. Cũng còn có rất nhiều bài tập đọc cho ta thấy cách dùng từ ngữ miêu tả rất hay và thật đa dạng. Tôi luôn tận dụng vốn quý này để nhân vốn từ ngữ của từng học sinh bằng cách cho học sinh ghi vào sổ tay những từ ngữ hoặc những câu văn hay. Đồng thời tôi thường xuyên theo dõi và xem quyển sổ tay của học sinh trước mỗi giờ tập làm văn. Có như vậy mới giúp học sinh tích dần vốn từ ngữ của mình. - Dạy phân môn từ ngữ cũng là một dịp để các em không chỉ hiểu rõ từ mà còn mở rộng chúng khi dùng những từ gần nghĩa hoặc trái nghĩa. Ví dụ: Khi miêu tả người tôi thường nêu lên cho học sinh thấy bên cạnh từ “đẹp” còn có hàng lọat từ ngữ khác: xinh xắn, dễ coi, dễ nhìn…. Bên cạnh từ “ẳm” còn có nhiều từ: bế, bồng, ôm, nâng, địu, cõng… Việc học và mở rộng vốn từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình cũng có ý nghĩa tích cực đối với việc tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả của học sinh (róc rách, rì rầm, thánh thót, ngân nga…; ngoằn ngoèo, chót vót, thăm thẳm, mênh mông, ngọt ngào…). Những từ ngữ này giúp rất nhiều cho học sinh khi tả các con vật, cây cối, tả người, tả cảnh…… - Đọc tác phẩm văn học truyện ngắn, thơ… cũng là dịp để học sinh tích luỹ vốn từ ngữ miêu tả. Với biện pháp này, tôi thường xuyên nhắc nhở học sinh đọc ở nhà, xem các bài đọc thêm, tham khảo những bài văn hay. b/ Hướng dẫn học sinh lựa chọn vốn từ ngữ khi miêu tả : - Có vốn từ ngữ phải biết dùng đúng chỗ, đúng lúc. Muốn vậy, phải coi trong việc lựa chọn từ ngữ khi diễn đạt cũng như khi làm bài văn mịêu tả. Việc xác định một từ ngữ hay hình ảnh phải trải qua thời gian tìm tòi,chọn lọc thì hình ảnh, từ ngữ đó mớùi thích hợp,mới gợi hình gợi cảm. Như ví dụ nêu trên,để tả một người “đẹp” nên dùng từ ngữ nào trong hàng loạt các từ: dễ mến, dễ nhìn, xinh xắn, dễ coi,…?Sau mỗi tiết tập làm văn tôi tranh thủ lấy ví dụ những đoạn văn hay phân tích cho học sinh thấy cái hay khi biết lựa chọn từ. Ví dụ : Tả hình dáng cụ già.Bạn Phương Anh (Hà Nội) biết lựa chọn từ ngũ để tả: “Bà tôi ngoài bảy mươi tuổi.Khi nghe tiếng gọi thân thuộc của tôi,bà nhìn tôi,đôi mắt nheo nheo vì chói nắng,cặp lông mày rậm lốm đốm bạc của bà nhíu lại.Vừa nói bà vừa cười để lộ hàm răng đen đã khấp khểnh. Dáng người nhỏ nhắn của bà đang lom khom tưới rau,bắt sâu.” Tả bác nông dân, bạn Nguyên Tuấn(Long An) viết :”…Bác trạc năm mươi tuổi, khác với người thành thị, bác có thân hình cường tráng , vạm vỡ, rắn chắc làm sao! Gương mặt trông hơi khắc khổ, da sạm nắng, tay chân chắc nịch bị phủ một lớp bùn đất vì bác đang cày…” Trang 11
  12. Qua hai ví dụ trên và qua các bài làm văn thực tế của học sinh, tôi thấy việc lựa chọn từ ngữ miêu tả thường là so sánh các từ gần nghĩa hoặc trái nghĩa để chọn lọc ra từ ngữ hay và thích hợp vì đối với bà già thì phải dùng từ đôi mắt nheo nheo, đôi lông mày rậm lốm đốm bạc, lom khom tưới rau… để thấy rõ hình dáng của cụ già; tả bác nông dân phải dùng từ: cường tráng, vạm vỡ, rắn chắc, khắc khổ, sạm nắng… để thể hiện rõ hình dáng của một người nông dân tay lấm, chân bùn… Cách đặt câu hỏi của giáo viên trong văn miêu tả (miệng) không chỉ có tác dụng định hướng quan sát mà còn ảnh hưởng đến việc tìm tòi, hình ảnh khi miêu tả. Do đó, khi dạy, tôi không đặt câu hỏi về kiến thức khoa học mà đặt câu hỏi có tác dụng tìm ra những chi tiết miêu tả. Ví dụ: Tả con gà trống nhà em. Giả sử tôi hỏi: Câu hỏi 1: Con gà có những bộ phận nào? Câu hỏi 2: Nhìn con gà, em thấy nó có đặc điểm gì về màu lông, thân hình… dáng đi, dáng đứng nó như thế nào? Ở câu hỏi 1 chỉ nhằm hỏi kiến thức khoa học nên dành riêng cho môn tự nhiên xã hội. Câu hỏi này không có tác dụng gợi cho học sinh tìm các từ ngữ miêu tả. Ở câu hỏi 2 học sinh biết tìm ra từ ngữ miêu tả. Đồng thời gợi cho các em biết liên tưởng đến con gà anh Bốn Linh, gà ông Bảy Hoá, gà bà Kiên dựa vaò bài tập đọc đã học (Những chú gà xóm tôi - Tập đọc - lớp 4). II. 2.3: Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong miêu tả: Để viết một đoạn văn hay, một bài văn hấp dẫn đòi hỏi trong từng đoạn văn phải có sử dụng một số hình thức nghệ thuật như so sánh, nhân hoá,… thì bài văn mới sinh động. Nếu như một bài văn tả loài vật chỉ dừng lại ở việc miêu tả đầu, mình, đuôi, chân… thì giống như liệt kê các bộ phận của một con vật thường gặp ở môn khoa học, không giống như một bài văn miêu tả. Vì thế, hướng dẫn các em biết sử dụng các hình thức nghệ thuật trong văn miêu tả là hết sức cần thiết. a/ Sử dụng biện pháp so sánh trong văn miêu tả: Dạy tả “Quang cảnh trường em trước buổi học”, có em nêu: “Vài vệt nắng sớm chiếu xuống cành lá”, “Gió thổi nhẹ”. Nội dung như thế đã đạt, câu văn gọn gợi ý. Nhưng để sinh động hơn, tôi gợi ý – học sinh có thể sửa lại: “Vài vệt nắng sớm như ve vuốt những lá cành xanh tươi còn lấm tấm những giọt sương đêm”. “Gió thổi nhẹ như lay động lá cành” . Bên cạnh đó, tôi thường lấy những đoạn văn miêu tả hay trong các bài tập đọc để học sinh tham khảo: Trang 12
  13. Ví dụ 1: Tả hình dáng người bà, tác giả viết: “giọng nói bà tôi đặc biệt trầm bổng nghe như tiếng chuông đồng. Nó khắc sâu vào trí nhớ tôi dễ dàng như những đoá hoa và cũng rực rỡ đầy nhựa sống” (Bà tôi – Tiếng Việt – lớp 5 tập 1). Ví dụ 2: Tô Hoài miêu tả chim chích bông như sau: “Hai chân xinh xinh bằng hai chiếc tăm. Cặp mỏ chích bông tí tẹo bằng hai mảnh vỏ trấu chắp lại” [Chim chích bông – Tập đọc lớp 3, tập 2 (cũ)]. b/ Sử dụng biện pháp nhân hoá trong văn miêu tả: * Dùng biện pháp nhân hoá để tả hình dáng bên ngoài: “Chim công đứng trong tổ vươn cánh như tượng những người vũ nữ bằng đồng đang vươn tay múa.”. (Những bài văn hay lớp 5) * Nhân hoá để tả tâm trạng: “Những giọt sương rơi như những giọt lệ ai đó đang tiễn người đi xa”. “Dòng sông chảy lặng lờ như đang nhớ về một con đò năm xưa”. (Những bài văn hay lớp 5). II. 2.4: Bộc lô cảm xúc trong văn miêu tả: Bài văn hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết, không chỉ nêu cảm xúc ở phần kết luận mà cần thể hiện trong từng câu, từng đoạn. Điều này khi làm văn miệng, tôi luôn gợi ý để học sinh nêu cảm xúc của mình. Ví dụ: - Sống trong ngôi nhà ấm cúng, đầy tình thương yêu của cha mẹ, em nghĩ đến ai? (…Những mảnh đời bất hạnh của trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, phải sống lang thang nơi mái hiên, gầm cầu…). - Đi trên con đường làng quen thuộc, em cảm thấy thế nào? (…hình ảnh, âm thanh của nó đã trở nên gần gũi, thân thiết với em…). - Đứng dưới cây đa rợp bóng, em cảm thấy thế nào? (…cây đa là niềm tự hào của làng quê em, ai đi đâu xa cũng nhớ về côïi đa quê mình…). Với biện pháp này tôi cũng không quên lấy những đoạn văn hay ở các bài tập đọc để học sinh tham khảo. Ví dụ 1: “Hằng năm, cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường. Tôi quên sao được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng”. (Nhớ lại buổi đầu đi học – Tập đọc lớp 3 – tập 1). Ví dụ 2: “Tôi đi giữa bãi dâu và có cảm giác như đang lội dưới dòng sông cạn. Cát ở rãnh luống mềm lún. Những cành dâu, lá xôn xao đón lấy ánh nắng chói chang, làm cho lớp cát dưới chân tôi mát rượi…” (Bãi dâu – Tập đọc lớp 3 – tập 2 cũ). Trang 13
  14. Ví dụ 3: “Lần nào trở về với bà, Thanh cũng thấy thanh thản và bình yên như thế. Căn nhà, thửa vườn này như một nơi mát mẻ và hiền lành. Ở đấy, bà lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi để mến yêu Thanh.” (Về thăm bà - Tập đọc lớp 4 tập 1). Tương tự như vậy, khi dạy tập làm văn, tôi thường gợi ý, dẫn dắt học sinh để giúp học sinh tìm ra những suy nghĩ, cảm xúc của mình trước một sự việc, một đối tượng được tả để bài văn không còn khô khan mà tràn đầy cảm xúc để hấp dẫn người đọc, người nghe. Như vậy, với những biện pháp vừa nêu trên, tôi tin rằng học sinh có thêm điều kiện để làm một bài văn miêu tả hay và phong phú. Đồng thời, đây cũng là nền móng cho những mầm non văn học trỗi dậy và vươn lên xanh tốt. III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN 1.Đánh giá chung: Qua quá trình thực nghiệm các phương pháp trên , kết quả đạt được tương đối khả quan điều đó khẳng định một lần nữa: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tảû”. Mặc dù có những khó khăn nhưng nếu người giáo viên tâm huyết, có phương pháp phù hợp thì công tác giáo dục vẫn có hiệu quả và đi đúng hướng. Chiều hướng tiến bộ tích cực, ý thức tự giác của các em được nâng cao dần; mạnh dạn, tự tin, sáng tạo trong viết văn. 2. Kết quả cụ thể Qua một năm liền thực hiện đề tài này, tôi thấy học sinh có chuyển rất rõ về cách làm văn miêu tả. Thống kê kết quả sau một năm như sau: Thời Tổng số học sinh Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành gian Số % Số % Số % Số % lượng lượng lượng lượng Đầu 39 100 13 33,5 16 41 10 25,5 năm Cuối 39 100 22 56,4 17 43,6 0 0 năm Từ các bảng trên cho thấy, qua một năm nghiên cứu và thực hiện, số học sinh biết làm và làm tốt văn miêu tả tăng đáng kể. Điều này chứng tỏ một số biện pháp thực hiện đã mang lại kết quả khả quan. Điển hình như em Phùng Thị Nhàn đầu năm em không biết miêu tả là gì, bài văn của em lúc nào cũng đạt điểm rất thấp. Nhưng với việc áp dụng các biện pháp trên, thi học kỳ I bài làm của em đã đạt điểm 6. Trang 14
  15. C. PHẦN THỨ BA : KẾT LUẬN 1.KẾT LUẬN Trong quá trình thực hiện và đưa vào thực tế trong phạm vi sng kiến kinh nghiệm ở tiết Tập làm văn miêu tả lớp 4. Bản thân tôi đã rút ra nhiều kinh nghiệm và khẳng định đây là hình thức dạy học làm chuyển hoá quá trình học tập của học sinh. Như vậy cần phải thực hiện một số giải pháp sau: - Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý: quan sát bằng nhiều giác quan: mắt, mũi, tay, tai… qua đó học sinh phát hiện, khám phá đầy đủ các đặc điểm của sự vật, làm cho chúng hiện ra đầy đủ, rõ ràng tránh được những bài văn miêu tả chung chung mờ nhạt. - Khi hướng dẫn học sinh quan sát cần gợi mở, dẫn dắt theo một trình tự hợp lý, để học sinh tự mình quan sát, tự mình cảm nhận tính chất muôn hình muôn vẻ của sự vật. Đây là điều kiện chủ yếu làm nền tảng giúp cho bài viết trở nên chân thật, tự nhiên và đây cũng là cơ sở cho sự phát huy trí tưởng tượng và năng lực sáng tạo của học sinh (sáng tạo trong cách nhìn, cách nghĩ, cách diễn đạt nội dung…). - Đặc biệt, giáo viên phải sử dụng tranh, ảnh trong văn miêu tả cụ thể, từng vùng, từng miền khác nhau mà giáo viên lựa chọn tranh ảnh cho phù hợp để cho các em quan sát tốt hơn. - Tích luỹ và lựa chọn vốn từ ngữ khi miêu tả cũng là biện pháp không kém phần quan trọng giúp cho học sinh nhớ lại một từ ngữ, một hình ảnh, biết lựa chọn từ ngữ hay, thích hợp, phong phú vào bài văn để thêm phần hấp dẫn. - Bài văn miêu tả hay thì không thể thiếu cảm xúc của người viết, có thể hiện được cảm xúc trong bài văn thì mới thu hút người đọc, người nghe. Song, để quá trình đó diễn ra tốt, đòi hỏi người giáo viên phải nắm vững yêu cầu cơ bản và biết vận dụng linh hoạt sáng tạo trong từng tiết học với từng đối tượng được tả. Bởi vậy, dạy tập làm văn giáo viên không chỉ dựa vào sách giáo khoa mà còn cần đến những tư liệu tham khảo để mở rộng hiểu biết về nội dung phương pháp và vốn từ ngữ trong từng văn cảnh để cung cấp gợi ý cho học sinh. Có như vậy thì chất lượng giáo dục mới từng bước nâng lên. Sáng kiến kinh nghiệm trên nhằm giúp học sinh lớp Bốn làm một bài văn miêu tả. Qua đó, các em có thể cảm thụ chất “văn” ở từng ý, từng câu, từng đoạn trong bài văn thực tế của mình. Nó được áp dụng cho tất cả các trường Tiểu học. 2. NHỮNG ĐỀ XUẤT VÀ KHUYẾN NGHỊ: Dạy các dạng bài “Văn miêu tả” là nguồn cung cấp vốn từ, lối diễn đạt bồi dưỡng tư duy văn học cho học sinh. Muốn vậy: Trang 15
  16. * Đối với học sinh: Các em cần quan tâm, xác định được tầm quan trọng của môn này. Các em cần được động viên, khích lệ kịp thời, đúng lúc của mọi người để kích thích các em có nhiều cố gắng vươn lên trong học tập, đó chính là gia đình - nhà trường xã hội. * Đối với giáo viên: Không ngừng học hỏi tìm tòi tích luỹ kinh nghiệm từ đồng nghiệp, từ thông tin, sách vở và từ chính học sinh. + Nắm chắc nội dung chương trình, ý đồ của sách giáo khoa, dạy sát đối tượng học sinh, lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức phù hợp với mỗi dạng bài. + Cần xác định không phải dạy bài khó, bài nâng cao thì học sinh mới giỏi. + Đặc biệt phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là trung tâm, có trách nhiệm với việc học của học sinh và bài dạy của mình. Động viên gần gũi giúp đỡ học sinh. * Đối với nhà trường và các cấp quản lý: Nhà trường cần tạo điều kiện cơ sở vật chất để giáo viên và học sinh có thể học tập nâng cao kiến thức. + Tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại sách tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn. + Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều thành tích cao trong giảng dạy và học tập. + Quan tâm xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Một số kinh nghiệm tôi ghi ra ở đây với hy vọng rằng: Đây sẽ là một tài liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tỡnh huống sư phạm thích hợp. Bởi vỡ, dạy tốt mụn Tập làm văn chính là đó gúp phần giỏo dục học sinh tỡnh yờu Tiếng Việt, yờu tiếng Mẹ, yờu sự phong phỳ, mờnh mụng của Tiếng Việt - Tiếng núi của dõn tộc Việt Nam. Thực hiện đề tài này, tôi đã bước đầu tập dượt việc nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, do thời gian không nhiều, trình độ nghiên cứu lý luận còn hạn chế và không thể không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được lắng nghe ý kiến đóng góp của ban lãnh đạo, các thầy cô giáo và đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm này của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tôi xin cam đoan đề tài là do chính Ngày 15 tháng 5 năm 2018 tôi đã nghiên cứu và trình bày, không Tác giả đề tài sao chép của người khác. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Trang 16
  17. Trang 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2