intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 5 ở trường tiểu học

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:29

54
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là môn Lịch sử lớp 5 cung cấp cho học sinh các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, tương đối có hệ thống theo dòng thời gian lịch sử Việt Nam nửa thế kỉ XIX đến nay. Đặc điểm môn Lịch sử lớp 5 là cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản thiết thực về các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, sắp xếp theo thứ tự thời gian đại diện cho các thời kì lịch sử không chứa đựng huyền thoại, truyền thuyết hay phong tác, hư cấu lịch sử.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 5 ở trường tiểu học

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Đối với mọi quốc gia trên thế  giới, môn Lịch sử  luôn là môn học bắt   buộc và có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách, tư tưởng và tinh   thần dân tộc ở mỗi con người. Với giáo dục Việt Nam cũng vậy, môn Lịch sử  là món ăn tinh thần của một số  những học sinh, những thầy cô giáo, những   con người góp công sức cho sự  nghiệp xây dựng và bảo vệ  đất nước, với  những người yêu nước. Đáng buồn là trong thời gian gần đây, giáo dục môn  Lịch sử trong các trường phổ thông nói chung, các trường Tiểu học nói riêng   sa sút nhiều, gây nỗi lo âu trong xã hội. Học sinh chán môn Lịch sử, không  thích học lịch sử biểu hiện trên nhiều phương diện.  Ở  trường Tiểu học tôi đang công tác cũng rất nhiều học sinh có điểm  bài thi lịch sử  cuối kì, cuối năm thấp hơn các môn khác.Chẳng hạn Toán và   Tiếng Việt đạt điểm cao nhưng Lịch sử  điểm lại thấp. Số  đông học sinh   chưa thực sự chủ động tích cực trong giờ học Lịch sử: các em xem Lịch sử là  môn phụ  nên không chú ý trong giờ  học sử, lười học bài. Là giáo viên trực   tiếp giảng dạy các em, tôi luôn trăn trở với câu hỏi: Vì sao như vậy? Có nhiều  nguyên nhân: Do giáo viên dạy, do chương trình lịch sử  mỗi tuần chỉ dạy có   một tiết, bài thì dài, chủ  yếu là nghe, ghi chép, đọc sách giáo khoa nên học   sinh không nhớ nổi bài hoặc nhớ không đầy đủ chính xác về các nhân vật, sự  kiện lịch sử dẫn đến khi kiểm tra các em không thuộc, không nhớ nên không   làm được bài. Xuất phát từ  mục đích, mục tiêu giáo dục cấp học, lớp học; từ  vị  trí,  nhiệm vụ  và yêu cầu của phân môn; từ  một số  tồn tại và vướng mắc trong   quá trình dạy lịch sử của cả giáo viên và học sinh; từ các chuyên đề, thực tế  dự  giờ, thăm lớp của đồng nghiệp từ  kinh nghiệm trực tiếp giảng dạy và  nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học  trong nhà trường nói chung, dạy học sinh lớp 5 học tốt phân môn Lịch sử nói  riêng, tôi đã chọn đề  tài: “ Một số  biện pháp nâng cao chất lượng dạy học  môn Lịch sử lớp 5 ở trường tiểu học.” 2. Tên sáng kiến Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử lớp 5  trường tiểu học. 1
  2. 3. Tác giả sang kiến ­ Họ tên: Nguyễn Thị Hường ­ Địa chỉ: Trường Tiểu học Kim Long B – Tam Dương – Vĩnh Phúc. ­ Số điện thoại: 0989178282 ­  Mail: nguyenthihuong.c1kimlongb@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến ­ Nhà giáo Nguyễn Thị Hường  Giáo viên trường Tiểu học Kim Long B –Tam Dương – Vĩnh Phúc. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến ­ Môn Lịch sử lớp 5. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử Ngày 01 tháng 03 năm 2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Về nội dung của sáng kiến 7.1.1. Cơ sở lí luận Bàn về vai trò của môn Lịch sử, nhà giáo Trần Trí Dũng cho rằng: “ Lịch  sử và cuộc sống là một quá trình phát triển biện chứng mà hôm nay phải là sự  kế thừa và phát triển của hôm qua và chuẩn bị cho hôm sau”. Quả đúng vậy,  lịch sử là quá khứ, là nơi chứa đựng giá trị văn hóa, là nguồn dữ liệu để tham   chiếu kinh nghiệm cha ông vào sự  phát triển hôm nay.  Đó là hồn cốt, truyền  tải những giá trị truyền thống, mà nếu không có lịch sử không thể hiểu được   vị  trí của hiện tại, với ý nghĩa đó thì nếu lịch sử  còn thì văn hóa còn, và văn  hóa còn thì dân tộc còn. Lịch sử  là sự  trung thực của những sự  thật khách  quan và không ai có thể  chọn lịch sử, mà nhờ  lịch sử  nên con người và thời  đại được định hình. Vì những lí do trên mà ta thấy môn Lịch sử  có vai trò vô cùng quan  trọng.   Học lịch sử  để  dạy các em biết, tổ  tiên ông cha ta đã lập quốc, xây  dựng, bảo vệ  Tổ  quốc như  thế  nào, đặc biệt là trong thời đại ngày nay. Do  đấy,   đối   với   chúng   ta,   nếu   không   quan   tâm   đến   lịch   sử   là   có   tội   với   tổ  tiên.Theo đó, từ nhận thức dựng lại quá khứ tiến lên nhận thức bản chất của   lịch sử, để từ đó khám phá ra những đặc điểm và quy luật phát triển của lịch  2
  3. sử, cung cấp những cơ sở khoa học để  hoạch định con đường phát triển của   mỗi quốc gia, dân tộc cũng như của mỗi cộng đồng cư dân trên mọi lĩnh vực.  7.1.2.Mục tiêu của môn Lịch sử lớp 5 *Kiến thức ­ Môn Lịch sử lớp 5 cung cấp cho học sinh các sự kiện, nhân vật lịch sử  tiêu biểu, tương đối có hệ thốngtheo dòng thời gian lịch sử Việt Nam nửa thế  kỉ XIX đến nay. ­ Đặc điểm môn Lịch sử  lớp 5 là cung cấp cho học sinh một số  kiến  thức cơ  bản thiết thực về  các sự  kiện, nhân vật lịch sử  tiêu biểu, sắp xếp  theo thứ tự thời gian đại diện cho các thời kì lịch sử không chứa đựng huyền   thoại, truyền thuyết hay phong tác, hư cấu lịch sử.  ­ Về mức độ chỉ giới hạn ở mức biết lịch sử, còn yêu cầu về hiểu lịch   sử chỉ ở mức rất sơ đẳng, chủ yếu xem xét ý nghĩa của các sự kiện, các nhân   vật lịch sử đối với xã hội. *Kĩ năng ­ Quan sát các sự  vật hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư  liệu lịch sử  sách giáokhoa và các nguồn khác. ­  Nêu thắc mắc đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin   để giải đáp. ­ Nhận biết các sự kiện, bảng thống kê. ­ Trình bày kết quả  nhận thức của mình bằng lời nói, bài viết, hình  vẽ, sơ đồ… ­ Vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống. *Thái độ ­ Ham học hỏi, tìm hiểu để biết về môi trường xung quanh các em. ­ Yêu thiên nhiên, con người, quê hương đất nước. ­ Tôn trọng, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và di tích lịch sử, văn hóa của   quê hương đất nước. ­ Từ  những giờ  học trên lớp các em biết ­ hiểu ­ yêu mến ­ tự  hào về  đất nước, con người Việt Nam.Từ đó các em thấy được trách nhiệm vinh dự  của người đội viên ­ những chủ nhân tương lai đối với quê hương đất nước,  với tổ quốc thân yêu. 3
  4. 7.1.3. Nội dung chương trình môn Lịch sử lớp 5 và mức độ cần đạt Phân môn Lịch sử  lớp 5 gồm 26 bài cung cấp kiến thức mới; 3 bài ôn   tập; 4 tiết ôn tập và 2 tiết kiểm tra cuối học kì; 2 tiết dành cho giáo dục lịch   sử địa phương;  được dạy trong 35 tuần. Nội dung chương trình gồm 4 giai đoạn lịch sử: ­  Hơn tám mươi năm chống thực dân Pháp xâm lược và đô hộ  (1858 ­  1945) gồm 11 bài kể cả bài ôn tập. ­ Bảo vệ  chính quyền non trẻ, trường kì kháng chiến chống thực dân   Pháp (1945 ­ 1954) gồm 7 bài gồm cả bài ôn tập. ­ Xây dựng chủ  nghĩa xã hội  ở  miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất  nước (1954 ­ 1975) gồm 8 bài kể cả ôn tập. ­ Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước (từ 1975 đến nay) gồm 3 bài   cả ôn tập. Học sinh cần biết các nhân vật lịch sử và sự kiện chính sau: ­   Nhân   vật   lịch   sử:   Trương   Định,   Nguyễn   Trường   Tộ,   Tôn   Thất  Thuyết, Phan Bội Châu, Nguyễn Tất Thành… ­ Sự  kiện lịch sử: Hơn 80 năm chống thực dân Pháp (1858 – 1945): Sự  kiện ngày 5 ­ 6 ­ 1911, tại bến Nhà Rồng (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay),  Nguyễn Tất Thành (tên của Bác Hồ  lúc đó) ra đi tìm đường cứu nước; sự  kiện Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập ngày 3 ­ 2 ­1930. Lãnh tụ  Nguyễn  Ái Quốc (Bác Hồ) là người chủ  trì Hội nghị  thành lập Đảng. Kể  lại cuộc biểu tình  ngày 12 ­ 9 ­ 1930 ở Nghệ An, một số biểu hiện về xây dựng cuộc sống mới   ở  thôn, xã. Kể  lại sự  kiện Cách mạng tháng Tám năm 1945 và Tuyên ngôn  Độc lập 2 ­ 9 ­ 1945; Chín năm kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954): Các   chiến dịch quân sự lớn (Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám có những  thuận lợi song có những khó khăn chồng chất đó là giặc đói, giặc dốt và giặc   ngoại xâm đẩy nước Việt Nam vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc’’. Dưới sự  lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ  Tịch Hồ  Chí Minh đã có những biện  pháp diệt giặc đói bằng biện pháp cấp bách là lá lành đùm lá rách, hũ gạo tiết  kiệm, ngày đồng tâm. Biện pháp lâu dài là tăng gia sản xuất). Chiến thắng   4
  5. Điện Biên Phủ; Hiệp định Giơ  ­ ne ­ vơchấm dứt chiến tranh Đông dương;  Kháng chiến chống Mỹ  và xây dựng đất nước (1954 – 1975): Sự  kiện ngày  27­ 1­ 1973, Mĩ buộc phải kí hiệp định Pa­ ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại   hòa bình  ở  Việt Nam. Ngày 30­ 4­1975, quân ta giải phóng Sài Gòn (nay là  Thành phố  Hồ  Chí Minh), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ;  Xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong cả nước (năm 1975 đến nay). Trong chuẩn kiến thức kĩ năng và trong hướng dẫn điều chỉnh nội dung   dạy học lịch sử đã giảm đi một số yêu cầu khó (tường thuật) chỉ yêu cầu học  sinh kể một số sự kiện. 7.1.4. Thực trạng của việc dạy và học Lịch sử  trong trường hiện   nay a) Thuận lợi * Nhà trường Công tác chỉ đạo chuyên môn của BGH luôn sát sao, nhà trường luôn coi  trọng việc dạy đúng và đủ các môn học là cần thiết trong việc phát triển toàn  diện nhân cách học sinh. Bởi vậy, đã kịp thời tổ  chức các chuyên đề  cấp tổ,  cấp trường về các môn học nói chung và phân môn Lịch sử nói riêng để  giáo   viên trao đổi học tập kinh nghiệm cũng như phương pháp của đồng nghiệp. Trong mọi hoạt động của nhà trường Ban giám hiệu luôn coi việc đổi  mới phương pháp dạy học là nhiệm vụ trọng tâm.Coi trọng việc dạy cho học   sinh có phương pháp học tập đúng, rèn kĩ năng thực hành  ứng dụng trong  cuộc sống. Trong hoạt động dạy học, nhà trường luôn lấy học sinh làm trung tâm,   áp dụng các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Bên cạnh đó, Chi bộ Đảng và Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm  đến công tác hoạt động phong trào và đặc biệt là các giờ  hoạt động tập thể  nội, ngoại khoá  vào dịp kỉ  niệm các ngày lễ  lớn của dân tộc.Chính những  buổi tham quan thực tế đã bồi dưỡng thêm vốn kiến thức lịch sử cho các em   rất nhiều.  * Giáo viên Đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình, vững vàng về  chuyên môn lại  được trang bị đầy đủ tài liệu, đồ dùng dạy học giúp giáo viên có thể tìm kiếm   nhiều thông tin bổ ích hỗ trợ cho các bài giảng của mình sinh động hơn, hấp   dẫn hơn. 5
  6. Giáo viên trong trường luôn nhận thức được vai trò của việc dạy và  học Lịch sử  trong việc giáo dục toàn diện học sinh đặc biệt là giúp các em  hiểu hơn về lịch sử dân tộc, tự hào về truyền thống quê hương đất nước anh  hùng. Bởi vậy giờ  dạy Lịch sử  luôn là mối quan tâm của giáo viên trong   trường. Hiện nay nguồn thông tin, sách báo, truyền hình, mạng Internet… khá  phong phú. Tôi cũng thường hay đọc tìm hiểu về tư liệu, tài liệu, xem phim lịch  sử, nhân chứng sống trong sách, báo, chương trình trên ti vi nên cũng giúp cho tôi  tự học hỏi nâng cao tay nghề, mở mang thêm kiến thức về lịch sử để dạy học   sinh. Hơn nữa, học các lớp chính trị, học tập và làm theo tấm gương đạo đức  Hồ Chí Minh giúp cho bản thân càng có ý thức trách nhiệm hơn trong nhiệm vụ  của mình. * Học sinh Học sinh trong trường chủ yếu là con em nông thôn, ngoan, chăm chỉ. Học sinh có đầy đủ  về  sách vở, dụng cụ  học tập.Nhiều gia đình còn  mua thêm các tài liệu khác cho con, em mình. Học sinh lớp 5 là lớp cuối cấp, các em luôn ý thức được vai trò trách  nhiệm của mình nên các em có rất nhiều cố gắng trong học tập.Bên cạnh đó,  các em cũng rất hiếu động, thích được tìm tòi, khám phá; có khả  năng trực   quan nhạy bén. Xét về  mặt tâm lí, học sinh lớp 5 luôn muốn được khẳng định mình  trước bạn bè, thầy cô, thích được khen do vậy đa phần các em chăm học, ham   tìm tòi khám phá kiến thức. Học Lịch sử  là tìm về  quá khứ  hào hùng của dân tộc. Đặc biệt, trong  giờ Lịch sử các em còn được nghe, được thấy những sử liệu có thể giải thích  được sự tò mò, băn khoăn của các em nên các em rất chú ý lắng nghe, ham tìm   kiếm thông tin về  lịch sử. Hơn nữa nhờ sự quan tâm của Chi bộ  Đảng, Ban   giám hiệu nhà trường các em được tham quan thực tế nhiều nơi càng làm cho  các em yêu thích lịch sử hơn. b) Khó khăn * Nhà trường Do điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học còn thiếu thốn, kinh  phí hạn hẹp nên việc mua sắm sử liệu còn hạn chế. 6
  7. Do các cấp lãnh đạo, giáo viên và xã hội coi trọng chất lượng Toán và   Tiếng Việt ở cấp Tiểu học hơn Lịch sử. * Giáo viên: Đồ  dùng dạy học tuy được trang bị  nhưng chưa đầy đủ  và phong phú.  Đặc biệt trang thiết bị phục vụ phân môn Lịch sử còn ít. Mặc dù nhận thức đúng vị trí vai trò của phân môn Lịch sử nhưng do lo  ngại chất lượng nên nhiều giáo viên có phần xem nhẹ  môn học này so với  Toán và Tiếng Việt;  còn dành ít thời gian vào việc nghiên cứu phương pháp  giảng dạy lịch sử, thậm chí giờ  học Lịch sử  chỉ  mang tính hình thức. Giáo  viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng đôi   khi cũng ngại không dám thoát li các gợi ý của sách giáo khoa, sách hướng  dẫn vì sợ  sai. Các hình thức dạy học còn đơn điệu, khô cứng. Chính vì vậy   học sinh không hứng thú trong các giờ  học lịch sử  và đặc biệt không hình  dung được sinh động về các sự kiện lịch sử đã diễn ra cách các em rất xa. Từ  đó dễ tạo cho các em có thói quen ỷ lại, thụ động, dễ quên và trì trệ trong tư  duy.  * Học sinh Các em sinh ra trong thời bình nên dường như  các em chưa quan tâm   nhiều đến lịch sử  đấu tranh dựng nước và giữ  nước của ông cha ta.Các em  chưa biết quan tâm nhiều đến việc tìm tòi, nghiên cứu về các nguồn sử liệu. Do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của phân môn Lịch sử trong   đời sống xã hội, một số học sinh cho rằng học lịch sử có quá nhiều sự  kiện,  quá nhiều mốc thời gian nên khó nhớ vì vậy các em thường không chú ý đến  học lịch sử. Một số  có thái độ  xem thường bộ  môn Lịch sử, coi đó là môn  học phụ, dẫn đến hậu quả  học sinh không hiểu được những sự  kiện lịch sử  cơ  bản, nhớ  sai, nhớ  nhầm kiến thức lịch sử  là hiện tượng khá phổ  biến  ở  trường, ở lớp. Do  ảnh hưởng của thời kì hội nhập, của phim truyện nước ngoài, của  mạng Internet, của trò chơi điện tử,… đã tác động không nhỏ đến những học   sinh thiếu động cơ, thái độ học tập dẫn đến việc các em sao nhãng học hành,   ít đọc sách, ít học bài, nhất là phân môn Lịch sử. Qua nghiên cứu thực trạng,  tôi tiến hành khảo sát chất lượng học sinh. 7.1.5 Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử lớp 5 Xuất phát từ nghiên cứu lí luận dạy và học lịch sử  và căn cứ  vào thực   trạng của trường, tôi đã tiến hành một số biện pháp sau. 7
  8. a) Biện pháp 1: Phân loại từng dạng bài *Qua giảng dạy, nghiên cứu, tôi chia thành các dạng bài sau: ­  Dạng bài cung cấp kiến thức mới: Dạng bài này thường đề  cập tới  các nội dung: + Tình hình kinh tế ­ chính trị, văn hoá ­ xã hội. +Hoạt động của một số nhân vật lịch sửđiển hình. + Các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến thắng, chiến dịch, tiến công. + Các thành tựu về văn hoá, nghệ thuật, khoa học, giáo dục. ­ Dạng bài ôn tập, tổng kết: Bài ôn tập tổng kết là loại bài nhằm hệ  thống hóa và củng cố lại những kiến thức đã học cho học sinh sau mỗi thời kì  (giai đoạn lịch sử, giúp các em nắm vững kiến thức cơ bản, nhận thức lịch sử  một cách sâu sắc, toàn diện hơn). * Tổ chức dạy học theo từng dạng bài. ­ Bài học có nội dung về tình hình chính trị­ kinh tế, văn hóa ­ xã hội Dạng bài này có nhiều ở trong chương trình Lịch sử lớp 5, nhằm cung  cấp cho học sinh những hiểu biết về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội nước  ta sau mỗi thời kì nhất định. Khi dạy dạng bài này, tôi thực hiện theo các  bước sau: +Mô tả tình hình nước ta thời kì đó (Tình cảnh đất nước, chính quyền;  cuộc sống nhân dân).  + Trong tình cảnh đó chính quyền hay nhân dân, nhân vật lịch sử đã làm  gì? Làm như thế nào? + Kết quả của những việc làm đó. Ví dụ, đối với bài 12 “Vượt qua tình thế hiểm nghèo”, cần cho học sinh  biết được :  Tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám như  thế  nào? (Khó khăn  chồng chất: đế quốc và các thế lực phản động bao vây; nạn đói, nạn dốt…). Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đã làm gì để  giải quyết nạn đói, khó khăn tài  chính, nạn dốt và giặc ngoại xâm ? (Lập “hũ gạo cứu đói”, tổ  chức “ngày  đồng tâm”, kêu gọi tăng gia sản xuất; phát động “ Tuần lễ vàng”  ; phát động  phong trào xóa nạn mù chữ ; ngoại giao mền dẻo, khôn khéo)… Khi kết luận  kiến thức này cho học sinh,  tôi luôn khai thác triệt để  tranh trong sách giáo  khoa  kết hợp với các tư liệu mình thu thập phục vụ bài dạy để bài học thêm  sinh động và giúp học sinh dễ nhớ, nhớ lâu hơn. 8
  9. Kết quả  của những biện pháp đó là gì? (Từng bước đẩy lùi giặc đói,   giặc dốt, giặc ngoại xâm). ­ Dạng bàicó nội dung về các nhân vật lịch sử:   Trong chương trình Lịch sử lớp 5 không giới thiệu tiểu sử của các nhân  vật lịch sử mà thông qua những sự kiện cơ bản trong sự nghiệp của các nhân  vật để làm sáng tỏ lịch sử dân tộc. Bởi vậy, giáo viên phải biết khai thác tốt  các sự kiện để làm nổi bật nhưng hoạt động và công lao to lớn của nhân vật.   Khi dạy những bài về nhân vật lịch sử, tôi luôn ghi nhớ: + Mỗi bài đều có hình ảnh (tranh vẽ hoặc chân dung), thông tin về thân  thế  sự  nghiệp của nhân vật lịch sử  để  giúp học sinh biết được diện mạo   cũng như đặc điểm, tính cách nổi bật… của nhân vật vì thế  tôi yêu cầu học   sinh sưu tầm tranh ảnh hoặc tư liệu về cuộc sống và sự nghiệp của nhân vật   lịch sử  đó. Kết hợp với đọc sách giáo khoa trước  ở  nhà để  nắm được nội  dung của bài mới về  cuộc sống và sự  nghiệp của nhân vật lịch sử  trước khi  đến lớp để học sinh có thể tự trình bày về nhân vật lịch sử đó trên cơ sở hiểu   biết đã có của mình. +Bằng cách dẫn chuyện, trước khi nhắc đến nhân vật lịch sử  nào đó,  tôi luôn chú ý cung cấp các thông tin để học sinh biết được những nét sơ lược   về bối cảnh lịch sử (không gian, thời gian) mà nhân vật hoạt động. Thường là   kết bằng một số câu hỏi gợi sự hứng thú,  trí tò mò ở học sinh : Nhân vật đó  là ai ? Đã cống hiến gì cho đất nước? Những việc ông làm có  ảnh hưởng gì  đến công cuộc giải phóng đất nước?...  + Những bài học lịch sử trong đó các nhân vật có những lời đối thoại đắt  giá thể  hiện phẩm chất cao quí của nhân vật, học sinh có thể  tự  đóng vai để  diễn lại.  Ví dụ  về  bài “ Bình tây Đại nguyên soái” Trương Định , trước hết tôi  sẽ  phân ra các ý chính của bài, trên cơ  sở  đó tổ  chức cho học sinh tìm hiểu.   Cụ thể, cho học sinh thấy được các ý cơ bản sau: Trương Định là người như  thế  nào? (Tôi dựa vào đoạn thông tin tham  khảo trong sách giáo viên trang 11 để giới thiệu, khắc họa hình ảnh của nhân  vật) Khi nhận được lệnh bãi binh của triều đình, nghĩa quân và dân chúng đã  làm gì ? (tôi miêu tả lại cuộc đấu tranh trong nội tâm của nhân vật để học thấy   rõ). 9
  10. Trương Định đã làm gì để đáp lại lòng tin yêu của nhân dân? (đàm thoại  với học sinh để học sinh nêu). Trên cơ  sở  khai   thác những  nội  dung  đó,  tôi tiến  hành giáo  dục tư  tưởng, tình cảm, thái độ  cho học sinh về  lòng biết  ơn, sự  khâm phục, kính  trọng đối với nhân vật lịch sử một cách tự nhiên, hiệu quả. ­  Bài có nội dung đề  cập tới các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến  thắng, chiến dịch, phản công, tiến công…:  Dạng bài này chúng ta cần làm rõ: + Nguyên nhân (hoặc hoàn cảnh) dẫn đến cuộc khởi nghĩa / cuộc kháng  chiến/ chiến dịch đó. + Diễn biến cuộc khởi nghĩa / kháng chiến / chiến dịch đó. + Kết quả và ý nghĩa. Hầu hết các bài đều có lược đồ, bản đồ nên việc sưu tầm tranh ảnh tư  liệu là rất quan trọng để  các em dễ  hình dung, dễ  nhớ, nhớ  lâu các sự  kiện  đó. Chính vì vậy tôi yêu cầu học sinh sưu tầm tranh  ảnh từ  ở nhà, đọc trước   sách giáo khoa kết hợp với những tư  liệu sưu tầm được hoặc do giáo viên   cung cấp để nắm vững được nội dung bài. Học sinh được trình bày trên cơ sở  hiểu biết đã có của mình.Với dạng bài này, một trong những phương pháp   dạy học không thể thiếu được là phương pháp trực quan. Những phương tiện  trực quan được sử dụng nhiều để dạy môn lịch sử là: Tranh ảnh ; Bản đồ lịch  sử ; Các phương tiện nghe nhìn; Di tích lịch sử; Nhà bảo tàng lịch sử  và một  số  nhà bảo tàng khác. Do đó trước bài dạy, tôi đối chiếu với những phương  tiện mà nhà trường đã trang bị để chủ động trong bài dạy, cùng phối kết hợp  với phụ  huynh học sinh trong việc sưu tầm, đóng góp cho nhà trường. Chủ  động đề nghị với Ban giám hiệu cho học sinh khối lớp 5 được đi tham quan di   tích lịch sử hoặc bảo tàng lịch sử ở địa phương hoặc yêu cầu phụ huynh học   sinh tạo điều kiện tự đưa con em mình đi tham quan những nơi đó.  ­ Dạng bài ôn tập, tổng kết Giáo viên cần nêu được nhiệm vụ phải giải quyết của bài rồi tiến hành  tổ  chức cho học sinh làm việc dưới sự  hướng dẫn của giáo viên. Trong tiến  trình bài học giáo viên cần thu hút tất cả học sinh vào công việc, phát huy cao  nhất tính tích cực của học sinh trong việc trao đổi những câu hỏi mà giáo viên  đặt ra, thực hiện các công việc như  vẽ  sơ  đồ, lập bảng niên biểu, thống kê,  tìm các dẫn chứng… Vì vậy tôi luôn lựa chọn các phương pháp và hình thức  sinh động tạo hứng thú cho học sinh ví dụ trò chơi học tập… 10
  11. b) Biện  pháp 2: Sử dụng linh hoạt các phương pháp tạo hứng thú   học Lịch sử cho học sinh * Phương pháp kể chuyện Đặc trưng nổi bật nhất của nhận thức lịch sử là con người không thể  tri giác trực tiếp những gì thuộc về  quá khứ. Mặt khác, lịch sử  là những sự  việc đã diễn ra, là hiện thực trong qua khứ, là tồn tại khách quan không thể  phán đoán, suy luận,… để  biết  lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ  đầu tiên, tất yếu   của bộ môn Lịch sử là tái tạo lịch sử, tức là cho học sinh tiếp nhận thông tin   từ các tư liệu, tiếp xúc với những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá   khứ, tạo ra  ở  họ  những hình  ảnh cụ  thể, sinh động, chính xác về  sự  kiện,  hiện tượng lịch sử; tạo ra ở học sinh những biểu tượng về con người và hoạt   động của họ trong bối cảnh thời gian, không gian xác định, trong những điều  kiện lịch sử  cụ  thể. Vậy tái tạo bằng những phương thức nào? Trước hết,  phải kể đến lời nói sinh động, giàu hình ảnh của giáo viên. Đó là tường thuật,  miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử. Miêu tả thường được  sử dụng khi dạy các nội dung về: địa danh lịch sử, quang cảnh, không khí của  buổi lễ...Tường thuật miêu tả còn được sử  dụng khi dạy diễn biến của một   chiến dịch, khởi nghĩa... Ví dụ  1: Khi dạy bài “ Quyết chí ra đi tìm đương cứu nước” giáo viên  có thể dùng phương pháp kể chuyện để tìm hiểu về thời niên thiếu của Bác.  Thông qua câu chuyện “Nguyến Tất Thành 5 tuổi đi theo cha mẹ  vào Huế”  Nội dung câu chuyện là sự  nghèo khó trong tuổi thơ  của Bác  ở  vùng quê  nghèo và truyền thống hiếu học của gia đình Bác. Ví dụ 2: Bài “ Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ”  Hoạt  động kể  về  tấm gương anh dũng trong chiến  đấu. Giáo viên   dùng phương pháp kể  chuyện kể  cho học sinh nghe câu chuyện về  anh Tô  Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo, Phan Đình Giót lấp lỗ châu mai, Bế Văn  Đàn lấy thân mình làm giá súng…  Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng : Bế Văn Đàn là người dân tộc   Tày, quê  ở  Cao Bằng, xuất thân trong một gia đình nghèo có truyền thống   cách mạng, cha làm thợ  mỏ, mẹ  mất sớm, lớn lên đồng chí tham gia hoạt   động du kích. Trong chiến dịch Đông Xuân (1953­ 1954) làm liên lạc tiểu   đoàn. Mặc cho bom rơi, đạn nổ, đồng chí đã dũng cảm vượt qua lưới đạn dày   đặc của quân địch, xuống truyền đạt mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chính   xác. Trong khi đó, trận chiến diễn ra ngày càng ác liệt, đồng chí được lệnh ở   11
  12. lại đại đội chiến đấu. Địch phản kích lần thứ ba, chúng điên cuồng tiến, đại   đội bị thương vong nhiều, bản thân đồng chí cũng bị thương, nhưng đồng chí   vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung liên của đại đội không bắn được vì   xạ  thủ  hy sinh, khẩu trung liên của Chu Văn Pù cũng không bắn được vì   không có chỗ đặt súng. Trong tình thế khẩn trương, không ngần ngại Bế Văn   Đàn chạy lại cầm hai khẩu trung liên kê lên vai mình và hô đồng đội bắn.   Đồng chí Pù còn do dự, Bế  Văn Đàn hô lớn  : “Kẻ  thù trước mặt, bắn chết   chúng nó đi”. Trong lúc lấy thân mình làm giá súng, đồng chí còn bị  hai vết   thương nữa và đã hy sinh nhưng trên vai vẫn ghì chặt giá súng. Tấm gương   dũng cảm của đồng chí đã cổ vũ cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận hăng hái   thi đua giết giặc lập công. Sau đó cho học sinh quan sát ảnh. Học sinh Tiểu học rất thích nghe kể  chuyện, khi vận dung phương   pháp này học sinh thấy nhẹ nhàng, dễ nhớ nhưng cũng cần lưu ý thời gian kể  chuyện chỉ  khoảng vài phút còn lại để  thời gian cho các em tiếp xúc với các  nguồn sử liệu để hình thành các biểu tượng lịch sử. * Phương pháp trực quan So với lời nói của giáo viên, các phương tiện trực quan có ưu thế  lớn:  tạo ra hình ảnh lịch sử cụ thể, sinh động, chính xác hơn, giúp học sinh thuận  lợi hơn trong việc tạo biểu tượng lịch sử. Vì vậy tôi luôn quan tâm đến   phương tiện trực quan kết hợp với lời nói sinh động của mình. Ví dụ1: Khi dạy bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”. Giới thiệu   bài tôi sử dụng máy chiếu chiếu hình  ảnh bến Nhà Rồng và hỏi: Đố  các em  biết hình ảnh trên là địa danh nào? Học sinh sẽ hào hứng trả lời, lôi cuốn các  em vào tiết học.Sau đó tôi dùng lời để giới thiệu bài mới. Hoạt động tìm hiểu về Nguyễn Tất Thành (ngày sinh, quê quán) Dựa vào  sách giáo khoa  tôi yêu cầu học sinh cho biết ngày sinh của   Nguyễn TấtThành? Sau khi học sinh trả lời, tôi chiếu hình  ảnh Nguyễn Tất  Thành trên màn chiếu kèm theo chú thích năm sinh (lưu ý bức  ảnh này được  chụp vào năm 1911, lúc Người 21 tuổi). Về quê quán, tôi treo bản đồ yêu cầu học sinh chỉ quê Bác trên bản đồ.  Tiếp đó, tôi giới thiệu cho học sinh xem một số hình ảnh về  quê Bác.  Qua những hình ảnh đó học sinh sẽ thấy được Bác Hồ của chúng ta sinh ra từ  vùng quê của xứ  Nghệ  nghèo khó “ít cơm nhiều cháo xoay vần quanh năm”  12
  13. nhưng cũng là vùng đất địa linh nhân kiệt đã sản sinh ra nhiều bậc danh nhân,   hào kiệt. Ví dụ 2: Dạy bài “Tiến vào Dinh Độc Lập” Khi kể lại sự kiện xe tăng của ta tiến vào Dinh Độc Lập, giáo viên trình   bày trận đánh trên sơ  đồ  chiến lược cho học sinh dễ  hình dung: Chiến dịch   Hồ  Chí Minh bắt đầu vào lúc 17 giờ  ngày 26 ­ 4 ­ 1975. Quân ta chia làm 5  cánh quân tiến vào Sài Gòn. Tại mũi tiến công phía đông, dẫn đầu là lữ đoàn  xe tăng 203. Bộ chỉ huy  chiến dịch giao cho lữ đoàn nhiệm vụ  phối hợp với   đơn vị  bạn cắm lá cờ  Cách mạng lên nóc Dinh Độc Lập. Chiếc xe tăng 843   của đồng chí Bùi Quang Thận đi đầu…. Xe  tăng 843 lao vào cổng phụ và bị  kẹt lại, xe tăng 390 do đồng chí Vũ Đăng Toàn chỉ  huy lập tức húc đổ  cổng   chính Dinh Độc Lập tiến thẳng vào.  Đồng chí Bùi Quang Thận nhảy khỏi xe cầm cờ lao lên bậc thềm của   tòa nhà. Lá cờ  tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Tiếng hò reo của nhân dân   mừng giờ  phút lịch sử  đất nước được thống nhất và độc lập, Bắc Nam sum   họp một nhà. Qua đó các em thấy được cái hào hùng, oanh liệt trong chiến  dịch này. Những hình ảnh đó sẽ khắc sâu vào trí nhớ các em. Đồ  dùng trực quan với tôi không nhất thiết là các tranh  ảnh sưu tầm,   phim tài liệu, tư  liệu lịch sử  từ  bên ngoài mà một vấn đề  quan trọng trong  việc sử  dụng đồ  dùng trực quan trong dạy học Lịch sử  chính là khai thác hệ  thống kênh hình trong sách giáo khoa. Kênh hình trong sách giáo khoa không  chỉ có ý nghĩa minh họa bài viết, góp phần tạo ra sự sinh động, hấp dẫn của  bài viết mà còn là nguồn tư  liệu để  chúng ta tổ  chức cho HS lĩnh hội kiến  thức.Để khai thác tốt kênh hình, tôi luôn xác định rõ kiến thức cơ bản của bài  học và chuẩn bị một số câu hỏi phù hợp với trình độ học sinh để gợi ý các em  tự khai thác kiến thức từ kênh hình. Khi   hướng dẫn học sinh khai thác kênh hình, tôi thực hiện qua các   bước: +Giới thiệu kênh hình (tranh ảnh, bản đồ, lược đồ...) + Giải thích các kí hiệu, quy ước (bản đồ, lược đồ) hoặc giới thiệu các   nhân vật, sự kiện, trong tranh. + Tổ chức cho học sinh khai thác kênh hình bằng việc yêu cầu học sinh   quan sát kênh hình theo các câu hỏi gợi ý. + Yêu cầu học sinh nêu nhận xét của mình, cho học sinh khác nhận xét,   bổ sung. 13
  14. + Giáo viên kết luận nội dung kênh hình. * Phương pháp đóng vai: Trò chơi đóng vai có ý nghĩa quan trong việc khắc họa kiến thức một   cách nhẹ nhàng, tự nhiên, phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời tạo ra  một giờ  học sinh động, hấp dẫn.Tuy nhiên không phải bài học nào cũng tổ  chức trò chơi đóng vai.Thông thường, trong nội dung bài học đề cập tới nhân  vật lịch sử  thì có thể  tổ  chức trò chơi đóng vai.Trong chương trình Lịch sử  lớp 5 có thể tổ chức trò chơi đóng vai trong một số bài học. Ví dụ 2: Khi dạy bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”, tôi sẽ cho   học sinh đóng vai để  làm nổi bật quyết tâm tìm tìm đường cứu nước của  Nguyễn Tất Thành bằng cách cho một học sinh dẫn chuyện, một học sinh   đóng vai Nguyễn Tất Thành, một học sinh đóng vai Tư  Lê để  tái hiện lại   cuộc trò chuyện giữa Nguyễn Tất Thành và Tư  Lê. Khi dạy bài “Tiến vào  Dinh Độc Lập”, tôi cũng tổ  chức cho một học sinh  đóng vai Dương Văn   Minh, một vài học sinh đóng vai các chiến sĩ cách mạng, các thành viên Chính   phủ  của chính quyền Sài Gòn để  thấy được thái độ  của Tổng thống Dương   Văn Minh và các thành viên chính quyền Sài Gòn khi quân giải phóng tiến vào   Dinh Độc Lập. * Phương pháp vấn đáp Vấn đáp có thể  giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chắc chắn.   Phương pháp này kích thích tính độc lập sáng tạo trong học tập, bồi dưỡng  năng lực diễn đạt bằng lời nói cho học sinh. Ví dụ: Dạy bài “Vượt qua tình thế hiểm nghèo”. Giáo viên hỏi:  + Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm gì để đẩy lùi giặc đói, giặc dốt và giặc  ngoại xâm? (Lập “hũ gạo cứu đói”, tổ chức “ngày đồng tâm”, kêu gọi tăng gia  sản xuất ; phát động “Tuần lễ vàng” ; phát động phong trào xóa nạn mù chữ ;  ngoại giao mền dẻo, khôn khéo ;…). + Kết quả của những biện pháp đó là gì? (Từng bước đẩy lùi giặc đói,   giặc dốt, giặc ngoại xâm.) Đặt ra câu hỏi yêu cầu học sinh phải tìm tòi, phải có cảm nhận riêng  của mình.Khi trả  lời được học sinh sẽ  cảm thấy phấn khởi vì trình độ, khả  năng của mình so với các bạn trong lớp, các em sẽ hứng thú học tập, tiếp tục   chú ý nghe giảng, trả  lời các câu hỏi.Từ  đó tạo không khí học tập sôi nổi  trong lớp.Để sử dụng phương pháp này có hiệu quả, tôi luôn đầu tư vào việc   xây dựng các câu hỏi ngắn gọn, dễ  hiểu, tường minh tránh những câu hỏi   14
  15. rườm rà, không có tác dụng phát triển tư  duy và luôn ghi nhớ  một phần bài  học, không nên đặt ra quá nhiều câu hỏi. * Trò chơi học tập ­ Trò chơi giải mật mã Với trò chơi này có thể  sử  dụng để  củng cố  bài hoặc cũng có thể  sử  dụng trong các hoạt động làm bài tập lịch sử. Đặc biệt khi  giáo viên  muốn  nhấn mạnh một sự  kiện lịch sử  quan trọng hay nhân vật lịch sử  có công lớn  đối với đất nước. Ví dụ: Dạy bài “Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc Lập”, để củng cố lại bài   học, tôi sử dụng trò chơi “giải mật mã” như sau: Chuẩn bị:  giáo viên chuẩn bị  các dữ  kiện lịch sử, các dữ  kiện có liên  quan đến một nhân vật hay một sự  kiện lịch sử được coi là “mật mã”. Mỗi  dữ kiện là một câu hỏi, có thể có gợi ý để   học sinh trả lời. Sau khi tìm được  tất cả các dữ kiện HS sẽ có căn cứ để xác định “mật mã”. Sử dụng trò chơi: giáo viên đưa ra một một bông hoa có số cánh tương   đương các dữ kiện lịch sử đã chuẩn bị, nhụy hoa là “mật mã”. Giáo viên đọc  các câu hỏi để học sinh tìm ra dữ kiện ẩn trong mỗi cánh hoa. Cánh hoa 1: Ngày 5 ­ 6 ­ 1911 diễn ra sự kiện lịch sử quan trọng gì? Cánh hoa 2: Ngày được chọn làm ngày kỉ  niệm Cách mạng tháng Tám   thành công là ngày nào? Cánh hoa 3: Ngày khai sinh ra n ước Vi ệt Nam dân chủ  cộng hòa là   ngày nào? Cánh hoa 4: “Hỡi đồng bào cả  nước.Tất cả  mọi người sinh ra đều có  quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm  được,…quyền được sống, quyền tự  do và quyền mưu cầu hạnh phúc…” là  đoạn trích trong tác phẩm nào? Khi đã tìm được câu trả lời ở tất cả các cánh hoa,  giáo viên hướng dẫn  học sinh tìm mối liên hệ giữa các sự kiện để tìm ra mật mã. Đáp án: Cánh hoa 1: Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Cánh hoa 2: 19 ­ 8 Cánh hoa 3: 2 ­ 9 ­ 1945 Cánh hoa 4: Tuyên ngôn Độc Lập 15
  16. Mật mã: Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc Lập. ­ Trò chơi ô chữ kì diệu Sau phần ôn tập, tổng kết giáo viên có thể cho học sinh chơi trò chơi ô  chữ để củng cố kiến thức Ví dụ, khi dạy bài “ Ôn tập” giai đoạn “ Bảo vệ  chính quyền non trẻ,  trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp”, tôi sử dụng trò chơi ô chữ. Cách chơi: Ô chữ  kì diệu gồm 11 hàng ngang và 1 hàng dọc. Các đội  chơi có quyền chọn ô chữ bất kì, có thể lựa chọn trả lời ô chữ  hàng dọc bất  cứ  lúc nào. Thời gian suy nghĩ của mỗi ô chữ  là 15 giây, mỗi đáp án đúng  được 1 bông hoa. Riêng ô chữ hàng dọc được 3 bông hoa. Hàng ngang số 1 gồm 6 chữ cái: Ngày 2­9­1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh  đọc Tuyên ngôn Độc lập tại đâu? Hàng ngang số 2 gồm 7 chữ cái: Tìm từ  còn thiếu vào chỗ  trống trong   câu: “Sau Cách mạng tháng Tám nhân dân ta phải đương đầu với …, giặc dốt   và giặc ngoại xâm.” Hàng ngang số 3 gồm 7 chữ cái: năm 1947 diễn ra chiến dịch nào? Hàng ngang số 4 gồm 8 chữ cái: Quan sát hình ảnh sau và cho biết đó là  nhân vật lịch sử nào? Hàng  ngang  số  5  gồm  8 chữ   cái:  Trong Chiến  dịch  Điện Biên  Phủ  người anh hùng nào lấy thân mình làm giá súng? Hàng ngang số 6 gồm 10 chữ cái: Ai là một trong những người đầu tiên   xây dựng và là “Quản đốc Xưởng Quân giới ở chiến khu Việt Bắc”? Hàng  ngang  số  7  g ồm  8 ch ữ   cái:  Năm 1950, chiến  th ắng nào  tạo   chuyển biến cơ  bản cho cu ộc kháng chiến: từ   đây ta nắm quyền “Chủ  động trên chiến tr ườ ng”? Hàng ngang số  8 gồm 12 chữ  cái: trong Chiến dịch  Điện Biên Phủ  người anh hùng nào đã lấy thân mình lấp lỗ châu ma? Hàng ngang số 9 gồm 8 chữ cái: Chiến dịch Việt Bắc năm 1947 được ví   như: “mồ chôn…”? Hàng ngang số  10 gồm 10 chữ  cái: đây là phân khu trung tâm do Pháp  xây dựng ở Điện Biên Phủ. Hàng ngang số  11 gồm 8 chữ  cái: Tìm từ  còn thiếu trong câu “Kháng  chiến, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh và … sự ủng hộ của quốc tế? 16
  17. Tóm lại, trong dạy học Lịch sử, học sinh chỉ học tập có kết quả cao khi   chính các em tiếp cận với các nguồn sử  liệu và tự  rút ra bài học dưới sự  tổ  chức, dẫn dắt của giáo viên.Bởi vậy, giáo viên cần kết hợp một cách nhuần  nhuyễn các phương pháp dạy học.  c)Biện pháp 3: Chú trọng dạy học trên lớp. Trước kia chúng ta thường quan niệm học lịch sử  là phải học thuộc,   nạp vào bộ nhớ của học sinh theo lối thầy đọc, trò chép, học thuộc lòng theo  thầy, theo sách giáo khoa là đạt yêu cầu. Nhưng học tập lịch sử  theo quan   niệm hiện đại không phải là theo cách trên mà là: học sinh thông qua làm việc   với sử liệu mà tạo ra hình ảnh lịch sử, tự xậy dựng, tự hình dung về quá khứ  lịch sử  đã diễn ra. Cơ  sở  nhận thức cá thể, độc lập đó, bằng các biện pháp   tương tác xã hội (học theo nhóm, học cả  lớp, đối thoại thầy trò...) mà học   sinh xây dựng sự  nhận thức đúng đắn về  môn lịch sử. Muốn làm đuợc điều   đó khi dạy học trên lớp, tôi tiến hành qua các bước sau:  ­  Bước thứ nhất: Định hướng mục tiêu, xác định nhiệm vụ học tập. Đầu giờ  học, hoặc đầu mỗi phần của bài học, bằng nhiều phương  pháp khác nhau giáo viên nêu vấn đề (câu hỏi) để hướng học sinh vào vấn đề  cần giải quyết. Ví dụ: Bài Thu đông 1947, Việt Bắc “mồ  chôn giặc Pháp” phần giới  thiệu bài giáo viên nói: Sau tiếng súng mở  đầu  ở Hà Nội ngày 19 ­ 12 ­ 1946  quân dân ta đã phá tan kế hoạch tấn công Việt Bắc của địch trong chiến dịch  Thu ­ đông 1947. Vì sao lại xuất hiện chiến dịch này?Diễn biến của chiến   dịch ra sao?Ý nghĩa của chiến dịch là gì?Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu qua   bài hôm nay Thu ­ đông 1947, Việt Bắc “mồ chôn giặc Pháp”. ­  Bước thứ hai: Tổ chức cho học sinh tiếp cận các nguồn sử liệu Việc tổ  chức cho các em tiếp cận các nguồn sử  liệu (kênh hình, kênh  chữ) trong  sách giáo khoa giúp các em có những hình  ảnh cụ  thể  vế  các sự  kiện, hiện tượng lịch sử.Đây là khâu cực kì quan trọng trong quá trình nhận  thức lịch sử.Bởi nếu không dựa trên các hình  ảnh của sự  kiện thì học sinh  không thể nhận thức và tư  duy.Ở  bước này, chúng ta có thể  trình bày các sự  kiện,   sự   việc,   hiện   tượng   bằng   phương   pháp   tường   thuật,   miêu   tả,   kể  chuyện, kết hợp với các phương tiện trực quan. Hoặc học sinh làm việc với   các sự kiện được trình bày trong sách giáo khoa hoặc tư liệu bổ sung qua các  phiếu học tập. 17
  18. ­ Bước thứ ba: Tổ chức cho học sinh làm việc, tự giải quyết các nhiệm   vụ học tập đã nêu ra. Ở  bước này, học sinh có thể  trình bày ý kiến cá nhân (viết hoặc nói),   cũng có thể trao đổi, thảo luận trong nhóm để rút ra những ý kiến chung. Ví dụ1: Với bài “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước” Khi tìm hiểu  một vài nét về  thời thơ   ấu của Nguyễn Tất Thành. Học sinh đọc sách giáo  khoa   từ   đầu   ....người   dân   Việt   Nam   thời   ấy”,   kết   hợp   với   những   mẩu   chuyện, câu chuyện đã sưu tầm để nói lên được thời thơ ấu của Nguyễn Tất   Thành (làm cá nhân). Khi tìm hiểu về sự kiện Nguyễn Tất Thành quyết chí ra  đi tìm đường cứu nước: Học sinh đóng vai: người dẫn chuyện, Nguyễn Tất   Thành và anh Lê theo đoạn 3 của bài. Từ đó học sinh sẽ trả lời được một loạt   câu hỏi theo định hướng của giáo viên. Nguyễn Tất Thành dự  định đi đâu?  Người sang đó để làm gì? Người ra đi gặp hoàn cảnh như thế nào? Thông qua  hai bức  ảnh “Bến nhà Rồng” và “Tàu La­tu­sơ  Tờ­rê­vin” học sinh dễ  dàng  hình dung được sự kiện lịch sử quan trọng này. Từ đó các em sẽ thảo luận rồi  cử đại diện nhóm lên trình bày để rút ra bài học. Ví dụ 2: Bài Thu ­ đông 1947, Việt Bắc “mồ chôn giặc Pháp” để giảng  nguyên nhân xuất hiện chiến dịch, tôi treo bản đồ  hành chính Việt Nam, để  học sinh chỉ được 6 tỉnh thuộc căn cứ địa Việt Bắc từ đó nắm vững được vị  trí của căn cứ địa Việt Bắc trên bản đồ Việt Nam. Sau đó học sinh thảo luận  trong nhóm để tìm ra được nguyên nhân xuất hiện chiến dịch từ những cơ sở  gợi ý của phiếu học tập và nội dung sách giáo khoa rồi viết ý kiến ra phiếu  học tập để  trình bày. Để  giảng về  diễn biến của chiến dịch, tôi giới thiệu   lược đồ của chiến dịch để học sinh nắm được. Các em dựa vào lược đồ  sách  giáo khoa để trình bày ra phiếu học tập và cử đại diện trình bày lại diễn biến  theo phiếu học tập của nhóm mình. Các nhóm khác nhận xét bổ  xung nếu   thiếu.Sau đó học sinh được trực tiếp lên chỉ lược đồ để nói lại diễn biến của  chiến dịch. Để  tái hiện lại không khí hào hùng của quân và dân ta trên trận  đánh sông Lô: gây cho địch tổn thất lớn, tôi cho để các em cùng nghe ca khúc   “Sông Lô”của nhạc sĩ văn Cao.  Ở  phần củng cố, tôi yêu cầu các em lên  thuyết minh về những bức tranh hay những bài thơ  các em đã sưu tầm được  theo nhóm có liên quan đến chiến khu Việt Bắc để  các em có thể  hình dung  được căn cứ  địa kháng chiến nơi Bác Hồ  ­ Đảng ­ Chính phủ  đã hoạt động  lâu dài để  chỉ  huy cuộc kháng chiến chống Pháp của ta. Chính nhờ  việc sử  dụng phong phú đồ dùng dạy học giúp học sinh gần gũi với các sự kiện, nhân  18
  19. vật lịch sử  hơn dễ  gây cho các em  ấn tượng sâu sắc, hứng thú tìm tòi, học  tập. Nó tạo điều kiện cho học sinh dễ nhớ, nhớ  lâu và từ  đó phát triển năng  lực quan sat, óc tò mò khoa học. Đặc biệt, nó phù hợp với đặc điểm nhận   thức, đặc điểm lứa tuổi của các em.     Bước thứ 4: Kết luận vấn đề. Việc giáo viên chốt lại kiến thức, khẳng định kiến thức hoặc liên hệ  mở rộng là việc làm rất cần thiết. Bởi vì: những thông tin học sinh thu lượm  được còn rời rạc, kiến thức mà các em thu lượm được khác nhau, đôi khi sai   lệch hoặc chưa chuẩn. Chính vì vậy, giáo viên phải chốt lại chuẩn kiến thức,   từ  đó mở  rộng vừa tầm học cho học sinh, gây cho các em sự  hứng thú trong   giờ học. Ví dụ: Bài “Chiến dịch Biên giới thu ­ đông năm 1950” Khi tìm hiểu   về  diễn biến của chiến dịch. Sau khi học sinh đọc sách giáo khoa, quan sát   lược đồ, trao đổi, thảo luận trong nhóm để trình bày lại diễn biến của chiến   dịch. Giáo viên sẽ chốt lại và mở  rộng: Sáng sớm ngày 16 ­ 9 ­ 1950, quân ta   nổ súng đánh chiếm cứ điểm Đông Khê, mở màn cho chiến dịch. Đông Khê là  cụm cứ điểm quan trọng nằm trên đường số 4 ở giữa Cao Bằng và Thất Khê  và cũng là một mắt xích nối hai khu vực này. Đánh Đông Khê trước tiên mà  không đánh vào các nơi khác là chủ  trương sáng suốt, tài tình của ta vì: Trên   phòng tuyến này Cao Bằng, Thất Khê lực lượng của địch rất mạnh, nếu đánh   vào đây quân ta sẽ bị tổn thất nhiều. Do đó ta đánh vào Đông Khê là một mắt   xích yếu của địch thì Cao Bằng sẽ bị cô lập, Thất Khê sẽ bị uy hiếp từ đó để  tiêu hao nhiều sinh lực địch. Chính vì vậy, ở Đông Khê địch không giám phản  kích chỉ cố thủ, máy bay địch yểm trợ bắn phá suốt ngày đêm. Quân ta chiến  đấu dũng cảm, cuộc chiến đấu diễn ra gay go trong từng lô cốt của địch.  Chính vì Đông Khê quan trọng như  vậy nên Bác Hồ  đã ra chỉ  đạo trực tiếp  trận đánh ở đài quan sát trên đồi cao. Nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm   của quân ta và dân ta đã xuất hiện. Trong đó nổi bật là tấm gương của chiến   sĩ bộc phá La Văn Cầu đã nhờ  đồng đội chặt đứt cánh tay bị  thương rồi tiếp  tục xông lên phá lô cốt địch, nêu cao lá cờ  đầu trong phong trào thi đua “giết  giặc, lập công”. Sau 54 giờ  chiến đấu, ngày 18 ­ 9 ­ 1950, bộ  đội ta đã tiêu   diệt hoàn toàn cụm cứ  điểm Đông Khê. Sau khi mất Đông Khê, quân Pháp  được lệnh rút khỏi Cao Bằng theo đường số  4 để  phối hợp với cánh quân   khác từ  Thất Khê lên hòng chiếm lại Đông Khê. Đoán được ý định đó của  giặc, quân ta mai phục trên đường số  4 khiến hai cánh quân từ Cao Bằng về  và từ  Thất Khê lên không liên lạc được với nhau, địch bị  tiêu diệt  ở  nhiều   nơi, bị  bao vây chặt không còn con đường thoát chúng ra hàng lũ lượt. Một   19
  20. lần nữa ta lại thấy sự chỉ đạo tài tình của Đảng và Bác Hồ: Chỉ cần đánh một  điểm yếu mà hai điểm khác phải dấn thân vào chỗ chết. Chiến dịch Biên giới   thắng lợi rực rỡ, ta giải phóng được một dải biên giới Việt ­ Trung dài 750   km từ Cao Bằng đến tận Đình Lập, đường số  4 sạch bóng quân thù. Và như  vậy chúng ta đã đạt được 3 mục tiêu đề ra: Tiêu diệt một bộ phận quan trọng  sinh lực địch, khai thông biên giới Việt Trung, củng cố và mở rộng căn cứ địa  Việt Bắc.  d) Biện pháp 4:Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lich  Sử Ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao tính tích cực trong dạy học  là xu hướng tất yếu của thời đại công nghệ  thông tin. Các chức năng của   công nghệ  thông tin mang lại cho con người như  thu thập, xử lý, lưu trữ  và  truyền đạt dữ liệu. Với lịch sử, điều này càng có ý nghĩa quan trọng bởi lịch   sử là hiện thực trong quá khứ  chỉ có nhờ vào các công cụ đa phương tiện của   máy tính như văn bản, đồ họa, hình ảnh, âm thanh, hoạt cảnh giáo viên sẽ xây  dựng được bài giảng sinh động thu hút sự  tập trung của các em, dễ dàng thể  hiện được các phương pháp như  phương pháp dạy học tình huống, phương  pháp dạy học nêu vấn đề đồng thời còn tăng tính tích cực chủ động tham gia   học tập của các em.Việc sử  dụng   công nghệ  thông tin giúp các em được   sống lại, được chứng kiến những giây phút lịch sử  hào hùng đó. Ví dụ, khi   dạy bài Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ tôi cho các em xem đoạn phim tư  liệu về  sự  chuẩn bị  của ta để  các em thấy được quyết tâm của toàn Đảng,   toàn quân và toàn dân ta cho chiến dịch.Hay khi dạy bài lịch sử  địa phương  Giải phóng Thủ  đô 10 ­ 10 ­ 1954, tôi đã dùng đoạn phim tư  liệu Quân đội  Việt Minh vào tiếp quản Hà Nội năm 1954 bản quyền thuộc Đài truyền hình  Việt Nam cho các em xem. Qua đó, tôi nhận thấy các em dễ  dàng cảm nhận  được một không khí tưng bừng, cờ hoa ngợp trời Hà Nội  khi quân giải phóng  về tiếp quản Thủ đô. Và để các em nhớ được những nơi quân giải phóng tiến   vào tôi sử dụng lược đồ  quân giải phóng tiến vào tiếp quản Thủ đô kết hợp   với  thuyết  trình. Không những công nghệ  thông tin có tác dụng trong bài  giảng điện tử  mà nhờ  công nghệ  thông tin, chúng ta dễ dàng tìm kiếm được  các nguồn tài liệu, tranh  ảnh trong thư  viện không có để  phục vụ  cho bài  giảng làm cho bài giảng hấp dẫn hơn. Nhận thức được tầm quan trọng đó tôi  luôn cố gắng tiếp cận và làm giàu vốn kiến thức lịch sử để các em có những  bài học hấp dẫn. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2